Nguyên
Giác
Bát Nhã Tâm Kinh
Một
thời, người học Phật đã quen nghĩ rằng Tổ Sư Long Thọ đã khai sơn ra hệ tư tưởng
Bát Nhã, nổi bật là câu "Ly nhất thiết
chư tướng tức danh chư Phật" trong Kinh Kim Cang. Thực ra, chính Đức
Phật đã nói về pháp Định Vô Tướng rất nhiều lần trong Tạng Pali.
Tuy
nhiên, bài này sẽ nói tới pháp thế gian trước, rồi mới bàn về pháp xuất thế
gian sau. Vì chúng sanh ưa chấp tướng.
Có
phải Chủ Tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc – vị lãnh đạo cao nhất của quốc gia
đông dân nhất thế giới -- là một Phật Tử tàng hình? Nếu đúng như thế, hiển
nhiên là một bất ngờ.
Có
phải Thủ Tướng Narendra Modi của Ấn Độ -- vị lãnh đạo cao nhất của quốc gia
đông dân thứ nhì thế giới – đã từng tự nhận là một Phật Tử? Cũng là một bất ngờ.
Dân
số hai quốc gia này cộng lại là 36.4% trên tổng dân số thế giới. Hiện tượng rất
lạ đã nhận thấy mấy năm vừa qua: chính phủ hai nước này kình nhau trên hầu hết
các phương diện, nhưng lại hợp tác với nhau trong các lĩnh vực liên hệ tới Phật
Giáo.
Điều
có thể nhìn thấy rằng, cả ông Tập và ông Modi đều không phải là Phật Tử chính
thống, vì hai ông không quy y, không thọ giới, không có pháp danh, không tụng
kinh hay ngồi thiền hàng ngày (hay ít nhất, như chúng ta biết)… và hình như
cũng không tin vào các giáo lý truyền thống. Nghĩa là, hai ông Tập và Modi có
thể được gọi là một kiểu Phật Giáo thế gian, hay PG vô thần, hay PG thực dụng –
tiếng Anh gọi chung nhóm này là Secular Buddhism, nghĩa là gỡ bỏ các niềm tin siêu hình. Nghĩa là, hầu hết những người trong nhóm này dùng Phật Giáo để tự làm an vui cho mình, ổn định cho xã hội, trên nguyên tắc.
Trước
tiên để nói về ông Tập Cận Bình. Báo Hindustan Times ngày 4 tháng 2/2013, trong
bản tin nhan đề “Tibet's conquest of China's Xi Jinping family” (Gia Đình Tập Cận
Bình Thần Phục Tây Tạng)… Chỉ mới đọc nhan đề bài báo Ấn Độ này là đủ giựt
mình.
Bản
tin kể rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng trao tặng Phó Thủ Tướng TQ Tập Trọng
Huân (cha của Tập Cận Bình) một đồng hồ, và ông cụ Tập đó đã mang nơi cổ tay
nhiều năm. Điều ít người biết, theo báo này, là mẹ của Tập Cận Bình là cụ bà Qi
Xin được mai táng với nghi thức đầy đủ của Phật Giáo Tây Tạng theo ước nguyện của
cụ bà. Và vợ của Tập Cận Bình là phu nhân Bành Lệ Viên là một Phật Tử theo truyền
thống PG Tây Tạng. Báo này nói rằng đó là các thông tin theo cuộc nghiên cứu của
Richard Rigby, chuyên gia về Trung Hoa tại đại học Úc Australian National
University và là một cựu phân tích gia của Sở Tình Báo Bí Mật Úc Châu (Australian
Secret Intelligence Organisation).
Bà
Bành Lệ Viên là một ca sĩ nổi tiếng, hiện mang quân hàm Thiếu Tướng trong lực
lượng văn công quân đội TQ, không chỉ là một Phật Tử PG Tây Tạng mà còn là một
người tu trì thuần thành trong truyền thống này, theo lời Rigby và cả học giả Claude
Arpi.
Arpi
nói: “Một trong các ca khúc của bà là về
vẻ đẹp của Tây Tạng.”
Đức
Đạt Lai Lạt Ma thỉnh thoảng kể về tình thân hữu với Tập Trọng Huân, có lúc nhắc
tới món quà đồng hồ Omega tặng ông cụ Tập khoảng năm 1954 hay 1955, trước khi Đức
Đạt Lai Lạt Ma và dân tộc Tây Tạng nổi dậy kháng chiến.
Arpi
kể rằng khi ông anh của Đức Đạt Lai Lạt Ma mở ra những cuộc thương thuyết bán
chính thức với Đặng Tiểu Bình trong thập niên 1950s về đòi hỏi cho Tây Tạng tự
trị, cụ Tập Trọng Huân vẫn còn mang đồng
hồ đó nơi tay.
Tuy
nhiên, tình thân đó chỉ mang ý nghĩa “tiện lợi cho chính trị”… theo nhận định của
Robert Barnett, học giả về Tây Tạng ở đại học Columbia University.
Bản
thân Tập Cận Bình đã từng gọi Tây Tạng là lợi ích cốt lõi của Trung Quốc, nghĩa
là những chuyện khác, nếu có, sẽ chỉ là phụ.
Và
rồi, dưới mắt ông Tập, Phật Giáo đã trở thành một phương tiện an dân, hộ quốc.
Bản
tin Reuters ngày 29/9/2013 nói rằng các nguồn tin từ chính phủ TQ nói rằng Tập
Cận Bình hy vọng rằng Phật Giáo, Lão Giáo và Khổng Giáo có thể làm đầy khoảng
trống đạo đức tại TQ, giúp làm từ thiện cho dân nghèo vô gia cư, người bệnh…
trong khi cán bộ không thể cáng đáng hết mọi chuyện, vì chính sách một con sau
nhiều thập niên đã làm dân số già và bệnh tăng vọt, chính sách kinh tế tư bản rừng
rú làm giàu nghèo cách biệt và dân nghèo ngày càng đông hơn…
Nguồn
tin đó nói rằng hồi tháng 2/2013, Tập đã gặp nhà sư Đài Loan nổi tiếng – Hòa
thượng Hsing Yun – tại Bắc Kinh cùng với một phái đoàn. Hiếm lắm mới nghe chuyện
lãnh đạo TQ gặp các các lãnh đạo tôn giáo. HT Hsing Yun nguyên bị cấm nhập cảng
TQ đầu thập niên 1990s vì ngôi chùa tại Hoa Kỳ của vị sư này đã đón nhận tỵ nạn
một cán bộ TQ cao cấp sau trận đàn áp Thiên An Môn 1989. Bây giờ, sách của nhà
sư Hsing Yun lên danh sách bán chạy tại TQ.
Nghĩa
là, ông Tập nếu gọi được là Phật Tử, cũng là vì tiện lợi trong cõi nhân gian.
Bây
giờ nói chuyện ông Modi. Báo Bản Tin Châu Á (https://newsin.asia/)
từ Sri Lanka ngày 11 tháng 5/2017 có bản tin nhan đề “Buddhism being used as foreign policy plank by India, China, Sri Lanka
and even Pakistan” (Phật Giáo được
dùng như trọng tâm chính sách ngoại giao bởi Ấn Độ, TQ, Sri Lanka và ngay cả
Pakistan).
Trong
Đại lễ Vesak Quốc Tế tại Sri Lanka từ ngày 12 tới 14/5/2017, Thủ Tướng Ấn Độ
Modi chủ tọa lễ khai mạc, và lễ bế mạc chủ tọa bởi Tổng Thống Bidya Devi
Bhandari của Nepal.
Ông
Modi theo tiểu sử trên Wikipedia đã ưa thích PG từ khi còn hoạt động trong các
tổ chức chính trị cực hữu (cực hữu hiểu như một chủ nghĩa ái quốc, ưu tiên cho
đất nước), như hội RSS và Đảng BJP. Tổ chức RSS
xem Phật Giáo như “Ấn Độ Giáo cải biên” và là một phương tiện để tăng ảnh
hưởng cho Ấn Độ.
Lãnh
đạo RSS là V.D.Savarkar đã tuyên bố rằng
tôn giáo của Ấn Độ là “Hindu-Buddhism” (Phật Giáo-Ấn Giáo) và mô tả Châu Á
(nghĩa là bao gồm cả Trung Quốc, Việt Nam…) là một châu lục mang tính “Hindu-Buddhist”
(Phật Giáo-Ấn Giáo).
Do
vậy, Tiến sĩ David Scott trong một bài viết trên Journal of Current Chinese
Affairs năm 2016, nói rằng Modi là Thủ Tướng Ấn Độ đầu tiên sử dụng PG như “quyền
lực mềm” trong ngoại giao.
Không
giấu kỹ như họ Tập, Modi năm 2014 đã phóng tweet: “On Buddha Purnima, we bow to the venerable Lord Buddha, whose teachings
have guided the entire humanity for centuries” (Trong ngày Đại lễ Vesak, chúng ta kính lễ Đức Phật, người có giáo lý đã
hướng dẫn toàn thể nhân loại trong nhiều thế kỷ).
Y
hệt như một Phật tử thuần thành? Bạn có thể đưa dòng chữ tiếng Anh trên vào
Google, sẽ thấy rằng Modi hiển nhiên đã thành kính hơn rất nhiều Phật Tử truyền
thống.
Tuy
nhiên, chúng ta có thể ngờ vực rằng ông Modi đang lèo lái chính trị, để chinh
phục cả tín đồ Ấn Giáo và Phật Giáo. Có một lúc, Modi nói công khai rằng Đức Phật
là một nhà cải cách và lời dạy của Đức Phật đã ảnh hưởng trở lại Ấn Giáo. Có vẻ
như Modi cũng chỉ đi theo một dạng Phật Giáo cõi nhân gian, nghĩa là chủ yếu
dùng như hộ quốc và an dân, nhưng không bận tâm chuyện siêu hình hay giải
thoát.
Do vậy, ông Tập và Modi đã hoan hỷ gặp nhau
trong tháng 9/2014, khi Tập tới thăm Gujarat, nơi có ngôi làng nhà sư Huyền
Tráng (Hiuen Tsang) ghé chân trong chuyến Tây du từ TQ sang Ấn Độ thỉnh kinh hồi
thế kỷ thứ 7.
Tập
và Modi ký bản Thông Cáo Chung TQ-Ấn, với lời cam kết rằng TQ sẽ giúp Ấn Độ quảng
bá du lịch và các chặng đường Huyền Tráng từng đi năm xưa.
Thế
rồi Tập mời Modi thăm TQ tháng 5/2015, đưa Modi tới ngôi chùa White Goose
Temple ở Xi’an, nơi Huyền Tráng từ Ấn về cư ngụ tới ngày viên tịch.
Và
rồi, chính phủ TQ đưa ra bản báo cáo lần đầu tiên nói rằng TQ là đất nước Phật
giáo lớn nhất thế giới, với 675 triệu Phật tử, với hơn 240,000 tăng ni, hơn
28,000 tu viện và 16,000 ngôi chùa – cũng như có tượng Phật cao nhất thế giới.
Phải
nói dài dòng như thế, để thấy rằng cả Tập và Modi đều là một dạng Phật tử thế
gian, nghĩa là không hàm ý “xuất thế gian” tí nào.
Trong
tình hình như thế, Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng phải tùy thuận chúng sinh…
Năm
2016, Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời phỏng vấn trên báo Reader's Digest, ấn bản Anh quốc, nhấn mạnh rằng, “Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
Một điểm căn bản Ngài thường nói, rằng tất cả nhân loại đều như nhau, đều muốn thoát khổ và đều muốn hạnh phúc. Những lời dạy như thế đặc biệt có ý nghĩa trong thời đại đầy khắp thánh chiến, đầy khắp khủng bố này.
Một điểm căn bản Ngài thường nói, rằng tất cả nhân loại đều như nhau, đều muốn thoát khổ và đều muốn hạnh phúc. Những lời dạy như thế đặc biệt có ý nghĩa trong thời đại đầy khắp thánh chiến, đầy khắp khủng bố này.
.
Trong
khi đó, tại Hoa Kỳ và tại nhiều quốc gia Tây Phương, cũng có nhiều Phật tử thế
gian, tuy rằng họ không hề là chính trị gia. Điển hình nhất là
Stephen Batchelor – một học giả nổi tiếng, viết nhiều sách nghiên cứu và là người dạy Thiền nhiều nơi trên thế giới. Ông chủ trương một Phật Giáo Thế Gian. Ông sinh tại Scotland năm 1953. Khi ông ba tuổi, gia đình ông dọn sang Canada thời gian ngắn, nơi ba mẹ ông ly thân, thế rồi ông về Anh cùng mẹ. Năm 18 tuổi, ông sang Dharamsala, thủ đô Tây Tạng lưu vong, học với nhà sư Geshé Ngawang Dhargyey tại thư viện Library of Tibetan Works and Archives, xuất gia làm sa di trong truyền thống Gelug (Phái Mũ Vàng) năm 1974.
Vài tháng sau, ông dự thiền thất Vipassana với Thiền sư Ấn Độ S.N. Goenka. Ông rời Ấn Độ năm 1975 để học giáo lý PG Tây Tạng với thầy Geshe Rabten tại Thụy Sĩ, năm sau được thọ cụ túc giới. Năm 1979, ông sang Đức làm thông ngôn cho thầy Geshé Thubten Ngawang tại Phật học viện Tibetisches Institut ở Hamburg.
Năm 1981, Batchelor vào Songgwangsa Monastery ở Nam Hàn để học Thiền với thầy Kusan Sunim. Nơi đây, ông gặp Martine Fages, một phụ nữ Pháp xuất gia làm sư cô ở đây từ 1975. Sau khi thầy Kusan Sunim viên tịch, Batchelor và Martine Fages cùng về đời trong năm 1985 và kết hôn, trở về Anh quốc, tham gia tăng thân Sharpham North Community. Trong 15 năm tại Sharpham, ông làm nhiều việc, và là đồng sáng lập đại học PG có tên là Sharpham College for Buddhist Studies and Contemporary Enquiry (1996), nhiều năm làm tuyên úy nhà tù Channings Wood Prison. Từ 1992 là biên tập viên cộng tác cho tạp chí Tricycle: The Buddhist Review.
Nghĩa là, ông là một học giả cư sĩ nổi tiếng và tài năng, đã học nhiều tông phái khác nhau, và rồi chuyên về nghiên cứu Kinh Pali, viết nhiều sách về Phật học. Phải nói dài dòng về ông như thế, để thấy rằng ông có ảnh hưởng lớn trong học giới. Ông trở thành một Phật tử thế gian theo kiểu riêng của ông. Không hề giống ông Tập và ông Modi tí nào.
Stephen Batchelor tin rằng Đức Phật không hề dạy về nghiệp (karma) và tái sinh (rebirth) – hai khái niệm này, theo ông, là có sẵn của văn hóa Ấn Độ cổ thời. Ông viết rằng, Đạo Phật theo ông hiểu không hề dạy về cõi trời, hay chuyện sinh tử luân hồi, và chỉ dạy về cách sống với hiện tại, rằng chỉ một kiếp này mà thôi, và an lạc là sống với Bát Chánh Đạo bây giờ và ở đây thôi. Ngắn gọn, ông là người vô thần, và cơ duyên là có tu học với Thiền nhà Phật.
Thử đọc vài nhan đề sách ông viết và ấn hành là thấy ngay quan điểm, thí dụ:
-- Buddhism Without Beliefs (Phât Giáo Không Cần Niềm Tin) in năm 1997.
-- Confession of a Buddhist Atheist (Lời Tự Thú của Một Người Vô Thần Phật Tử) in năm 2010.
.
Nơi đây, chúng ta không bàn cụ thể về chuyện ông Tập, ông Modi, hay ông Batchelor. Điều chúng ta cần nhìn chung quanh rằng, trong cộng đồng mình (và trong xã hội tại VN), Phật tử tu học chưa thực sự nghiêm túc. Nghĩa là, ngay cả khi đi chùa hàng tuần hay hàng tháng, rất nhiều người trong chúng ta cũng vẫn là những Phật tử thế gian, nghĩa là không quan tâm về “xuất thế gian”… Nghĩa là, nhiều người trong chúng ta chỉ là một dạng như ông Tập, ông Modi… và còn lười thua cả ông vô thần Batchelor, người thiền tập rất nghiêm túc.
Nhiều người trong chúng ta tới với Phật Giáo -- ngay cả khi làm thơ Thiền, làm nhạc Thiền, viết sách về Thiền… -- cũng không chắc gì quan tâm chuyện giải thoát. Kinh AN 2.46 ghi lời Đức Phật nói rằng có những hội chúng, nơi lời dạy của Đức Phật gắn liền với tánh không, ý nghĩa rất sâu thẳm nhưng khi được tụng đọc (when the discourses of the Tathagata—deep, deep in their meaning, transcendent, connected with emptiness—are recited, the monks don’t listen), các nhà sư không chú tâm nghe, nhưng chỉ ưa đọc thơ Thiền, ưa nghe nhạc Thiền… thế là hỏng.
Stephen Batchelor – một học giả nổi tiếng, viết nhiều sách nghiên cứu và là người dạy Thiền nhiều nơi trên thế giới. Ông chủ trương một Phật Giáo Thế Gian. Ông sinh tại Scotland năm 1953. Khi ông ba tuổi, gia đình ông dọn sang Canada thời gian ngắn, nơi ba mẹ ông ly thân, thế rồi ông về Anh cùng mẹ. Năm 18 tuổi, ông sang Dharamsala, thủ đô Tây Tạng lưu vong, học với nhà sư Geshé Ngawang Dhargyey tại thư viện Library of Tibetan Works and Archives, xuất gia làm sa di trong truyền thống Gelug (Phái Mũ Vàng) năm 1974.
Vài tháng sau, ông dự thiền thất Vipassana với Thiền sư Ấn Độ S.N. Goenka. Ông rời Ấn Độ năm 1975 để học giáo lý PG Tây Tạng với thầy Geshe Rabten tại Thụy Sĩ, năm sau được thọ cụ túc giới. Năm 1979, ông sang Đức làm thông ngôn cho thầy Geshé Thubten Ngawang tại Phật học viện Tibetisches Institut ở Hamburg.
Năm 1981, Batchelor vào Songgwangsa Monastery ở Nam Hàn để học Thiền với thầy Kusan Sunim. Nơi đây, ông gặp Martine Fages, một phụ nữ Pháp xuất gia làm sư cô ở đây từ 1975. Sau khi thầy Kusan Sunim viên tịch, Batchelor và Martine Fages cùng về đời trong năm 1985 và kết hôn, trở về Anh quốc, tham gia tăng thân Sharpham North Community. Trong 15 năm tại Sharpham, ông làm nhiều việc, và là đồng sáng lập đại học PG có tên là Sharpham College for Buddhist Studies and Contemporary Enquiry (1996), nhiều năm làm tuyên úy nhà tù Channings Wood Prison. Từ 1992 là biên tập viên cộng tác cho tạp chí Tricycle: The Buddhist Review.
Nghĩa là, ông là một học giả cư sĩ nổi tiếng và tài năng, đã học nhiều tông phái khác nhau, và rồi chuyên về nghiên cứu Kinh Pali, viết nhiều sách về Phật học. Phải nói dài dòng về ông như thế, để thấy rằng ông có ảnh hưởng lớn trong học giới. Ông trở thành một Phật tử thế gian theo kiểu riêng của ông. Không hề giống ông Tập và ông Modi tí nào.
Stephen Batchelor tin rằng Đức Phật không hề dạy về nghiệp (karma) và tái sinh (rebirth) – hai khái niệm này, theo ông, là có sẵn của văn hóa Ấn Độ cổ thời. Ông viết rằng, Đạo Phật theo ông hiểu không hề dạy về cõi trời, hay chuyện sinh tử luân hồi, và chỉ dạy về cách sống với hiện tại, rằng chỉ một kiếp này mà thôi, và an lạc là sống với Bát Chánh Đạo bây giờ và ở đây thôi. Ngắn gọn, ông là người vô thần, và cơ duyên là có tu học với Thiền nhà Phật.
Thử đọc vài nhan đề sách ông viết và ấn hành là thấy ngay quan điểm, thí dụ:
-- Buddhism Without Beliefs (Phât Giáo Không Cần Niềm Tin) in năm 1997.
-- Confession of a Buddhist Atheist (Lời Tự Thú của Một Người Vô Thần Phật Tử) in năm 2010.
.
Nơi đây, chúng ta không bàn cụ thể về chuyện ông Tập, ông Modi, hay ông Batchelor. Điều chúng ta cần nhìn chung quanh rằng, trong cộng đồng mình (và trong xã hội tại VN), Phật tử tu học chưa thực sự nghiêm túc. Nghĩa là, ngay cả khi đi chùa hàng tuần hay hàng tháng, rất nhiều người trong chúng ta cũng vẫn là những Phật tử thế gian, nghĩa là không quan tâm về “xuất thế gian”… Nghĩa là, nhiều người trong chúng ta chỉ là một dạng như ông Tập, ông Modi… và còn lười thua cả ông vô thần Batchelor, người thiền tập rất nghiêm túc.
Nhiều người trong chúng ta tới với Phật Giáo -- ngay cả khi làm thơ Thiền, làm nhạc Thiền, viết sách về Thiền… -- cũng không chắc gì quan tâm chuyện giải thoát. Kinh AN 2.46 ghi lời Đức Phật nói rằng có những hội chúng, nơi lời dạy của Đức Phật gắn liền với tánh không, ý nghĩa rất sâu thẳm nhưng khi được tụng đọc (when the discourses of the Tathagata—deep, deep in their meaning, transcendent, connected with emptiness—are recited, the monks don’t listen), các nhà sư không chú tâm nghe, nhưng chỉ ưa đọc thơ Thiền, ưa nghe nhạc Thiền… thế là hỏng.
Nếu
như thế, chúng ta cũng là một dạng Phật tử thế gian (may ra đỡ hơn ông Tập, ông
Modi?)… Như thế làm sao giải thoát?
Kinh
AN 10.27, ghi lời Đức Phật dạy rằng khi một vị sư hoàn toàn xa
lìa một thứ thôi là đủ giải thoát, đó là phải xa lìa dưỡng chất (When a monk becomes entirely dispassionate
towards this one thing (nutriment)… he is one who, after fully comprehending
the Goal, makes an end of suffering here and now).
Dưỡng
chất của sinh tử luân hồi là gì?
Kinh
SN 12.64 trả lời rằng có 4 dưỡng chất (loại thức ăn) đẩy chúng ta vào sinh tử
luân hồi: Đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực (Edible food, coarse
and fine; sense-impression is the second; volitional thought, the third; and
consciousness, the fourth).
Nghĩa
là, khi chúng ta tham ăn, mê uống là hỏng. Khi chúng ta ưa ngó cảnh đẹp, ưa ngó
người đẹp, ưa nghe nhạc hay… cũng là hỏng. Ngay cả những niềm vui cao nhã như
làm thơ, viết truyện cũng là tư niệm thực và thức thực (volitional thought and
consciousness) cũng là hỏng. Nghĩa là hành (volition) và thức (consciousness) đều
buộc chúng ta.
Như
thế, nếu thuần tập định (samatha) cũng sẽ hỏng, vì sự an lạc khi ngồi thiền tập
định cũng là một dạng thức thực. Kinh AN 4.178 nói rằng nhiều vị chỉ tập tứ thiền
bát định đã rơi trở lại sinh tử luân hồi.
Đó
cũng là lý do truyền thống Theravada yêu cầu khi tập định phải từ từ kết hợp với
huệ (vipassana).
Trong
khi truyền thống PG Tây Tạng và Thiền Tông yêu cầu khi tập định sẽ phải chuyển
sang Định Vô Tướng (signless concentration).
Thế
nào là Định Vô Tướng? Bát Nhã Tâm Kinh là Định Vô Tướng.
Trong
Kinh Tương Ưng SN 40.9 (http://dharmafarer.org/wordpress/wp-content/uploads/2009/12/24.19-Animitta-Cetosamadhi-Panha-S-s40.9-piya.pdf),
bản dich Piya Tan viết rằng Đức Phật dạy ngắn gọn về Định Vô Tướng: “…by non-attention to all signs, I entered and
dwelled in the signless concentration of mind” (không chú ý vào tất cả các tướng, tôi vào và an trú trong pháp định vô
tướng của tâm).
Kinh
SN 22.80 (http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn22/sn22.080.wlsh.html) bản dịch Maurice O'Connell Walshe ghi lời Đức
Phật nói rằng: “…three unskilled states
disappear utterly in him whose heart is well established in the four
foundations of mindfulness, or who practices concentration on the signless”
(…tham sân si biến mất hoàn toàn trong
tâm của người khéo an trú trong tứ niệm xứ, hay [trong] người tu pháp định vô
tướng).
Như
thế, Đức Phật dạy rằng ngoài tứ niệm xứ còn có pháp môn Định Vô Tướng. Và định
này không nằm trong tứ thiền bát định. Và đó là “ly nhất thiết tướng”… Và đầu
tiên nói tới Định Vô Tướng là Đức Phật, không phải là Ngài Long Thọ.
Thực
ra, trong Thanh Tịnh Đạo Luận (Visuddhimagga)
bản Anh dịch của Bhikkhu Nanamoli, ấn bản in lần thứ 5, nơi Chương XVI cũng
có ghi chú về định vô tướng: "Signless":
being secluded from the sign of the five aggregates, it is taken as having no
graspable entity (Vô tướng là xa lìa
các tướng của ngũ uần, được nhận ra là một pháp không thể nắm bắt). Đó cũng
là ngôn ngữ hệ Bát Nhã vậy.
Có
một người bạn tu thiền, anh kể rằng có nhiều dòng nhạc khi nghe hay quá là anh sợ…
không dám nghe nữa. Anh cũng kể rằng bộ phim Cuộc Đời Đức Phật hơn 50 tập ai
cũng khen hay, nhưng anh xem 10 phút là xúc động quá, phải thôi. Lý do, anh thấy
món ăn “thức thực” quá ngon, hình ảnh
quá đẹp, nhạc quá hay… trong khi anh đã quen với pháp định vô tướng.
Còn
phu nhân Bành Lệ Viên thì sao? Khi bà tới đứng trang điểm trước gương, là tự
ngó không thôi, là chân bước không đành… là “thức thực” vui hoài không ngưng.
Làm sao mà giải thoát.
Còn
ông Tập Cận Bình thì sao? Khi ông Tập ngó Bành phu nhân, lại mê mẩn nghe thêm
giọng ca của bà… thì “thức thực” đã dọn ra khắp không gian, làm sao mà giải
thoát.
Bởi
vậy, khi làm thơ Thiền, khi làm nhạc Thiền, khi giao tiếp với mọi thứ trong cõi
này, hãy giữ pháp định vô tướng cho vững…
Hãy nỗ lực rằng tuy thân mình đang sống nơi cõi nhân gian, tâm vẫn an
trú nơi cõi xuất thế gian.
NG
No comments:
Post a Comment