Sunday, December 10, 2023

M.

Ý Nhi
 
Phố vắng. Tranh Phạm Trần Quân
 
Trên tấm bảng hiệu của quán, chỉ có một chữ M, viết theo lối chữ in, màu nâu sẫm, trên nền vàng nhạt.
Nhiều lần đi ngang qua quán, anh luẩn quẩn tự hỏi, M là tên chủ quán ( Mai,Minh, Miên…), là một địa danh nhiều kỷ niệm (MC, MA, MN…) hay đơn giản, là chữ đầu tiên của Music, dấu hiệu của một quán cà phê ca nhạc hay chỉ là, để bày tỏ tình yêu đối với âm nhạc của chủ quán.
Nhưng anh đã không làm cái việc đơn giản, là vào quán, gọi một ly cà phê đen đá không đường, ngồi ngay dưới gốc cây khế kia, lân la trò chuyện cùng ông hay bà chủ, anh hay cô chủ, dù cái quán ấy nằm ngay nơi góc đường từ con hẻm nhà anh ra phố lớn.
Đi qua đi lại như thế mỗi ngày, mỗi ngày lại thêm những câu hỏi, kiểu như, sao không gọi là cà phê Góc phố, cà phê Chốn cũ, cà phê Mái nhà xưa ( vì ngôi nhà thực sự cũ) hay điệu đà hơn Corner Coffee…
Thế rồi, cái sự luẩn quẩn ấy chấm dứt đột ngột vào một ngày tháng 6, mưa tầm tã.
*
Anh nhận sự điều chuyển của công ty đến một tỉnh trên cao nguyên.
Ngồi trong chiếc Taxi sơn màu xanh lá cây ra sân bay, anh chăm chú nhìn con phố đẫm nước với dòng người được phủ kín trong những tấm áo mưa nhiều màu. Như kiểu xem một đoạn phim phong cảnh không lời.
Thiếu chút nữa thì hụt chuyến bay.
Cô tiếp viên mặc áo dài màu xanh da trời nhìn anh, cái cách của cô giáo nhìn học trò đi học trễ, lẳng lặng dùng bút bi khoanh tròn vào các mục cửa ra vào, ố ghế trên phiếu lên máy bay, rồi đưa trả cho anh, cũng theo cái cách cô giáo trả một bài làm kém. Anh nói cám ơn rồi buột miệng nói thêm, mưa to quá. Wow, anh rủa thầm sự vô duyên của mình khi nhìn cô tiếp viên đang chú tâm sắp xếp chỗ giấy tờ trên bàn, chực đứng dậy rời đi.
Thay cho sự khởi đầu có phần trục trặc, chuyến bay đúng giờ và một sự chào đón vui vẻ hơn sự chờ đợi của anh.
Ra sân bay đón anh là một thanh niên trạc tuổi anh, cao ráo, bảnh trai. Anh cảm thấy hình như mình có chút thất vọng. Không hiểu sao anh lại tin, người đón mình sẽ là một nữ nhân viên, hẳn là đẹp. Nhưng ý nghĩ thoáng qua này được xóa ngay khi người thanh niên vui vẻ, chìa tay, tôi là Hoa.
Hoa, hình như anh hơi nhướng mày khi nhắc lại nên chàng ta cười lớn, vốn là Lưu Ngọc Hòa nhưng khi bố tôi đi làm giấy khai sinh, họ đánh máy thiếu dấu huyền. Sai sót nhỏ, hậu quả lớn, là thế. Ngày tôi nhập học, còn bị xếp vào phòng con gái ở nội trú.
Không đợi anh đáp lời, cậu ta tiếp tục, như kiểu lâu lắm không được nói, hồi nhỏ tôi thích vẽ, chỗ nào có giấy là xuất hiện nào máy bay, nào xe tăng, nào tên lửa…Bố tôi chiều con, cho tôi thi vào trường Mỹ thuật, rớt 2 năm liên tiếp. Bố tôi lại bảo tôi thích các loại vũ khí thì nên vào quân đội, tôi OK ngay nhưng họ chê tôi cận nặng quá, trả về.
Anh nhìn chiếc kính nặng trịch gọng đen to bản trên gương mặt tròn trịa của cậu ta.
Không để ý, Hoa lại tiếp tục câu chuyện của mình, tôi nghĩ mình tiêu tiền của bố mẹ nhiều quá rồi nên chọn nghề tài chính để giúp bố mẹ. Thế mà, tiền trăm, tiền triệu, tiền tỷ toàn của người khác, toàn trên giấy.
Hoa cười. Một giọng cười trong veo vỡ ra trong tiếng rù rù của máy xe đang leo dốc.
Bỏ qua giấc mơ làm một nhà văn của mình, anh đáp lời bạn bằng câu chuyện về một cô bạn thời còn học phổ thông. Cô ấy xinh xắn, hát hay, mơ làm ca sĩ. Thế mà, sau bao năm gặp lại, nàng đã là một bác sĩ thú y, say sưa kể chuyện chó chuyện mèo.
Hoa lại cười, có lẽ cuộc đời trừng phạt sự vin vông của chúng ta nên đã bắt anh em mình gắn chặt với những gì thực tế nhất. Có người gọi cái nghề kế toán này là nghề mọt số, giống như kiểu mọt sách ấy.
Anh cảm thấy được an ủi khi nghe chàng trai líu lo đủ thứ chuyện trên chặng đường vắng vẻ, lác đác nhà cửa dài khỏang mươi lăm cây số từ sân bay về công ty. Anh nghĩ, may mà có cậu bạn vui tính này giữa chốn quạnh hiu, xa lạ.
Anh không hề biết, anh đến là Hoa sẽ đi. Hình như về một tỉnh đồng bằng nào đó, nơi công ty của họ có cơ sở thu mua các loại nông sản.
Hoa bảo, tôi sẽ nán lại vài ngày để giúp anh quen thung quen thổ.
Ngay chiều hôm sau, Hoa đưa anh tới quán Cà-phê dưới chân dốc, cách trụ sở dăm bảy trăm mét.
Đường từ chi nhánh công ty đến quán nhỏ hẹp, ken dày những bụi dã quỳ sắp tàn, lác đác vài đốm vàng trong vạt cành lá ngả nâu.
Không hiểu vì lẽ gì, Hoa gần như thì thầm,đây là quán ca-phê đúng điệu, yên vắng, lịch thiệp, không có dàn Karaoke và nhất là, (Hoa nhấn mạnh 2 chữ “nhất là”) ông chủ quán biết thiên kinh vạn quyển, trò chuyện rất thú vị. Một bộ bách khoa toàn thư đấy.
Gần cuối con dốc, anh nhìn thấy thấp thoáng sau hàng cây cao một mái ngói đã ngả màu.
 
Hoa quay lại, đấy, nó đấy, đẹp chưa anh. Anh định trả lời Hoa, bỗng sững người, nhìn tấm bảng hiệu của tiệm: Một chữ M lớn, theo kiểu chữ in, màu nâu sẫm, trên nền vàng nhạt.
Trời đất. Anh khẽ kêu lên. Hoa quay lại, chi vậy anh. Anh đáp nhỏ, không có chi.
Ông chủ vắng quán đã 2 tuần, không báo tin khi nào trở lại.
Trên đưởng trở về, anh tiện tay ngắt vài bông Quỳ. Hoa bảo, hoa dại mà anh.
Mai mốt, vàng rực hết cả, nhìn nhức mắt luôn.
Suốt mấy ngày sau đó, Hoa luôn miệng nói về sự không may của anh khi chưa được giáp mặt ông chủ, chưa được hưởng không khí đặc biệt của M.
Đã ngồi trên xe ra sân bay, Hoa còn nhoài người dặn anh, anh nhớ nhé, tôi nhường lại chỗ ngồi ngoài hiên, dưới gốc khế cổ thụ cho anh đấy.
Giữa khi nghe câu được câu mất của Hoa, trong đầu anh lại hiện lên hình ảnh cây khế cổ thụ, tán xòe rộng trùm kín một góc sân ở quán cà-phê M, đầu con hẻm dưới thành phố.
Anh cười, yên tâm, tớ sẽ chiều chiều ra ngồi dưới gốc khế, đem theo chiếc bao tải lớn, chờ con chim ăn quả khế trả cục vàng.
Nhưng đã 2 tháng trôi qua mà anh chưa đến M.
Trong thâm tâm, anh muốn sửa sai, muốn thử bước vào cái quán có độc chữ M kỳ lạ ấy.
Nhưng, đã mấy lần ngang qua đó, đã dợm bước vào rồi lại thôi, tiếp tục thả bộ một đoạn nữa rồi quay về. Không nhìn vào ngôi quán.
*
Chị Thu, người lo việc chợ búa, cơm nước cho cả nhóm, hỏi anh, sao chú không xuống quán M uống cà-phê. Chú Hoa cứ rảnh một cái là nhao xuống dưới ấy cứ như bị bỏ bùa vậy. Thấy anh im lặng, chị cười thành tiếng, mà quán không có tiếp viên nữ đâu nhé.
Anh đưa chiếc ấm trà nhỏ màu nâu về phía chị, em chỉ thích uống trà thôi. Em là dân Thái Nguyên, lên ba đã ngồi bên bếp xem mẹ sao trà trên chiếc chảo gang lớn, đã được cha cho nhấp môi vào chiếc cốc hạt mít bé tẹo, rồi bắt chước cha, khà một tiếng, cho ra dáng dân nghiện. Lớn lên thì thành dân nghiện chính hiệu.
Cảm thấy chưa đủ thuyết phục chị Thu về sự ngần ngại của mình, anh nói thêm, hồi mới tốt nghiệp, em cùng nhóm bạn rủ nhau đi Trung Quốc.
Hàng hóa nhiều vô kể, bạn bè em, nhất là các cô gái, khuân khuân vác vác hàng đống đồ, em thì, một mình lang thang tìm cho kỳ được bộ ấm trà Tử sa.
Về tới khách sạn, xe bus chở đoàn ra sân bay đã nổ máy.
 
Anh chỉ chiếc ấmTây Thi tử nê màu nâu cho chị Thu, em cứ tha lôi bộ ấm trà theo mình, cốc vỡ cả rồi, chỉ còn mỗi chiếc ấm, thành ra mọi thứ cứ cọc cà cọc cạch, chẳng ra sao.
Chị Thu nhìn anh, vẻ bán tín bán nghi.
Anh cười, dù vậy, thế nào em cũng xuống cà-phê M, ít nhất là để khám phá nguyên cớ sự mê mẩn của Hoa. Biết đâu, chẳng có một nàng tiên xinh đẹp được giấu kín ở đó mà chỉ một mình cậu ấy nhìn thấy.Thế còn chị, chị ghé vào đó chưa.
Đột nhiên, chị Thu so vai như bị lạnh, hạ giọng, nói thật với chú, cái quán ấy nó buồn chi lạ.
*
Chi nhánh chỉ có 7 người, 5 nam, 2 nữ. Chị Thu là một trong hai nữ ấy.
Chị Thu dân địa phương, rành rẽ mọi chuyện trong nhà ngoài ngõ. Hoa cũng từng gọi chị là cuốn “Từ điển sống”. Xem ra, cậu chàng rất thích các loại từ điển.
Có lần, chị hỏi, này chú, tôi hỏi chú chuyện này, không phải, chú cũng đừng chấp nhé. Anh cầm ly trà trên tay, ngẩng lên khi nghe chị thì thầm, chú có phải là người tu xuất không. Thoạt tiên, anh nhìn chị, không biết chị muốn nói điều gì, rỗi bỗng bật cười, sao chị nghĩ vậy.Thì thấy chú cứ im ắng, lặng lẽ, suốt ngày ôm máy tính, chẳng chịu xuống làng xuống phố chi hết, ngồi đây mà như ngồi trong tu viện, chỉ khác là không mặc áo chùng, đeo thánh giá mà thôi.
Ngừng một chút như để đợi phản ứng của anh, chị nói tiếp, chú chả giống chú Hoa tẹo nào, đúng ra là chú chả giống ai sất.
Sáng nọ, đẩy chiếc xe chở đầy thực phẩm lên đầu dốc, chị kêu to, các chú ơi, mau ra phụ chị với. Anh vừa rời bàn đã thấy chị đứng ngay nơi bậc thềm, này, dưới cà phê M xảy chuyện gì đấy, người xúm đen xúm đỏ, lấp hết lối đi.
Anh lấy chiếc áo khoác vắt ở lưng ghế, để em xuống xem sao. Chị Thu ngăn lại, khoan đã chú, để vãn người đã, mình xuống chỉ tổ thêm ồn ã thôi.
Đến chiều thì nghe tin căn nhà sau quán, nơi ở của ông chủ, bỗng dưng bốc cháy.
Mấy ngày sau lại có tin căn nhà ấy chất đầy sách vở, tranh ảnh.
Vài người tò mò vào quán, muốn nhìn xem sự thể ra sao nhưng đã có một vách ngăn được dựng lên.
Ông chủ vẫn chưa về.
 
Anh vài lần ngang qua M, dừng lại giây lát rồi bước tiếp, xuôi theo con đường đã có những bông dã quỳ bung cánh, vàng rực.
Chị Thu bảo, mấy cậu tiếp viên của quán bắt ghế ngồi nhìn ra cửa, mặt buồn thiu.
Chị Thu bảo, ông chủ vẫn biệt tăm.
Ít lâu sau, chị Thu lại bảo, nghe đâu có một cái quán M dưới thành phố cũng bị cháy.
Anh gọi về thành phố, người bạn trả lời, ừ, cũng chỉ biết vậy. Có ai thiệt mạng không. Hình như không nhưng nghe đâu sách vở, tranh ảnh thì cháy rụi, bạn anh đáp. Qua đường truyền của Viber.
*
Nhân có mấy ngày nghỉ lễ, anh đi nhờ xe của trang trại trồng Astiso bên cạnh công ty để về thành phố.
Xe dừng lại ngay đầu hẻm nhà anh vào lúc chặp tối.
Anh sững người nhìn ngôi nhà 3 tầng sơn màu trắng trên nền đất cũ của cà phê M.
Tựa mình vào gốc phượng già trên hè phố, anh tìm kiếm tấm bảng hiệu quen thuộc. Nó không còn. Ngay trên trụ cổng mới, là một tấm bảng hiệu màu xanh khá lớn. Không nhìn rõ chữ.
Anh xốc ba lô lên vai, bước vào con hẻm.
Tuấn, người bạn cùng thuê nhà đang ngồi bệt dưới sàn,tay lăm lăm chiếc remote, mắt dán lên màn hình TV.
Anh hỏi, cậu đang làm gì đấy. Nghe nhạc. Anh hỏi lại, nghe nhạc à.
Cảm thấy giọng nói của anh có chi đó khác thường, bạn anh nhổm người dậy, ừ, buồn, chẳng biết làm gì, mà này, tay này hát hay đáo để. Thấy anh im lặng, Tuấn hào hứng giải thích, mà chẳng sao chẳng trăng, chẳng ưu tú, chẳng nhân dân gì đâu đấy nhé.
Anh nhìn lên màn hình. Một khuôn mặt mới tinh, còn rất trẻ, tóc dài buộc túm lại, ngồi vắt vẻo trên một tán cây lớn, vẻ thảnh thơi: Đời cho ta có mấy khi/Và ta đâu có giữ gì/ chỉ muốn mãi bình yên…
Thấy mình vô cớ khiến bạn mất hứng nên anh dịu giọng, hay đấy, lúc nào thong thả tớ sẽ tìm nghe, còn bây giờ, tớ tắm ù một cái rồi ra phố, cà phê cho tỉnh người. Lễ lạt gì mà lại ngồi nhà ru rú thế này. Thay vì rẽ trái như mọi khi, anh rẽ phải, tránh việc phải ngang qua M.
Tuấn đập đập vào lưng bạn, bên này chứ, quên đường rồi à. Anh dấm dẳng, cậu vẽ chuyện, cà phê đâu chẳng là cà phê. Đi xa xa một chút cho thoáng.
Mới 19 giờ mà quán đã đông nghẹt.
 
Hai người len qua những dãy bàn thấp, đầy người, tìm được một góc xa còn trống chỗ. Tuấn vừa kêu may quá bỗng cười phá lên, cậu nhìn kìa. Hóa ra chiếc bàn trống này gãy một chân, phải kê bằng gạch. Anh cười, không sao, đời cho ta có mấy khi.
Hai ly cà phê đen đá, không đường, như thường lệ.
Anh lấy thìa vớt một viên đá, bỏ lên mặt bàn, nhìn viên đá dần tan, nước lan thành một vệt dài tới mép bàn rồi nhỏ từng giọt xuống nền gạch lát màu nâu nhạt, bất chợt lặp lại, ừ, đời cho ta có mấy khi…
Tuấn cũng dùng thìa, vớt một viên đá, bỏ đúng vào nơi viên đá của anh vừa tan hết, để tớ góp vào dòng chảy của cậu. Thấy anh không đáp lời, Tuấn hất cằm, mà này, cậu sao sao ấy.
Anh giơ cao ly cà-phê, mừng cái sự “sao sao” của tớ.
*
Anh trở lại cao nguyên sớm 3 ngày, trên xe của hãng X.
Chiếc xe đón khách đậu ngay trước ngôi nhà màu trắng. Qua ô cửa xe, anh bật kêu thầm khi nhìn thấy cây khế đang tỏa những cành lá xanh um che kín một góc vườn.
Dù sao, vẫn còn một cây khế.
Đó là ý nghĩ cuối cùng trước khi anh thiếp ngủ trên chiếc giường nằm êm ái đặt ngay bên khuôn cửa sổ được che bởi chiếc rèm màu xám nhạt.
Gần như ngay lập tức, anh lạc vào một giấc mơ lạ lùng. Anh và một người bạn ( đôi khi là Hoa, đôi khi là Tuấn, đôi khi là chị Thu) lang thang tìm đường đến một nơi có tên gọi là M.
Lúc thì họ lạc đến khu lều chợ nghèo nàn, lác đác vài gian hàng, khi họ đứng trước ngôi biệt thự nguy nga, lúc lại dừng chân trước khu đô thị mới đông đúc hay vùng ngoại ô bạt ngàn cây xanh.
Ở mỗi nơi, họ đều tìm hỏi đường đến M.
Những người họ gặp đều vui vẻ chỉ cho họ lối đi gần nhất, dễ dàng nhất.
Họ vội vã đi theo những hướng khác nhau, những lối rẽ khác nhau, những đèo dốc khác nhau. Thế nhưng, M thì vẫn biệt tăm trong lo âu, mệt mỏi, bấn loạn, ngày một tăng thêm.
Đến một lúc, anh thấy mình đứng trơ trọi trước một nhà ga cũ, cỏ dại trùm lấp những thanh tà vẹt, những đoạn đường ray những khoảnh đất trống.
Anh bật kêu lên. Rồi tỉnh giấc.
Xe rộng rênh, vắng lặng.
Anh bước xuống sàn xe, nhìn quanh.Ngoài anh, chỉ còn một hành khách ở cuối xe, đang ngủ, hai tay choàng lên lưng ghế phía trước, mặt úp vào cánh tay.
 
Anh hỏi vọng lên, mọi người đâu cả rồi. Người lái xe đứng tuổi đáp lời nhưng không quay mặt lại, anh hỏi ai cơ. Những hành khách khác cùng đi với tôi ấy.Lúc lên xe tôi thấy xe kín chỗ mà.Ông ta cười khục một tiếng, anh lên xe bến nào. Thì bến chính ở thành phố. Giọng anh đã có chút hoang mang. Anh nhầm rồi, chỉ có hai người thôi.Sao ông chạy một chuyến xe đường dài mà chỉ có 2 hành khách. Ông ta phá lên cười, nhiêu thì nhiêu.
Tiếng cười của tài xế đánh thức hành khách còn lại. Đó là một ông già. Ông ta vịn vào hai hàng ghế, nhích từng bước đến gần tài xế, giọng còn ngái ngủ, đến M rồi ư. Hay thật, đánh một giấc là tới nơi. Người tài xế quay lại. Cũng một ông già, M nào. Ông đặt xe tới K mà.
Anh và người khách già gần như cùng lúc cất lời, sao, ông bảo sao.Người tài xế có lẽ đã bắt đầu khó chịu, sao trăng gì, K là K thôi.
Người khách già ngồi phịch xuống chiếc ghế gần nhất, giọng mệt mỏi, đây là chuyến đi cuối cùng của tôi.
Anh ái ngại nhìn người khách rồi quay nhìn người tài xế, bất giác kêu lên, trời ơi.
Trên khuôn mặt già nua của hai người họ còn lưu dấu vẻ thông tuệ, sự từng trải cuả vầng trán, của nét môi, của ánh nhìn.
Anh bước tới, ngồi xuống bên vị khách, lặng lẽ cầm lấy bàn tay già nua đang run lên dưới tay anh.
*
Người tài xế quay lại nhìn họ hồi lâu rồi bấm một hồi còi dài, không biết để thức tỉnh hai người hay chỉ để xin đường, lách mình vượt qua chiếc xe tải kềnh càng trước mặt.
SG 10/10/2023.
Ý NHI.
 

TRĂNG. MÙA ĐÔNG*

nguyễnxuânthiệp
 

Đêm nay. mười tháng mười hai
sinh nhật. mùa đông
ngồi nhớ lại. đống lửa. lá bàng
ai đã đốt lên. trong thơ. ngày ấy
chợt thấy. mảnh trăng thượng huyền
trên mái ngói
nâu xanh
cảm ơn
cảm ơn
ân đức. của mẹ cha
đã cho
thơ
và một cuộc đời
của hạnh
và trăng
NXT

*Thơ gởi Nguyễn Thị Khánh Minh 

Thursday, December 7, 2023

MƯA HÀ NỘI

Lê Chiều Giang
 
Nhà văn Nguyễn Đình Toàn
 
“...Mổ trái tim.
Xem:
Không gì trong đó
Mở đôi bàn tay
Những thứ chẳng còn…”
[ LCG ]
 
 
   Mưa rơi trong màn hình laptop, tôi thèm nghe tiếng mưa. Đêm nay.
Mưa Cali hiếm hoi, cứ như chẳng bao giờ muốn có.
Nhưng dù đã cố gắng cách mấy, tôi vẫn không thể nhận ra cái rì rào ướt át, chút rét mướt của gió đêm qua những giọt “mưa giả”, ” mưa máy móc”, “ mưa trong computer”.
Tôi mong, tôi ước ao tìm cho ra cái sướt mướt của anh Nguyễn Đình Toàn, nỗi nhung nhớ về những đêm mưa Hà Nội, dù là đêm mưa nho nhỏ, mưa bão bùng, hay mưa dầm suốt hết cả đêm thâu…
Có ai tìm ra “mưa” của những năm xưa Hà Nội trong một Saigon vừa bước đến, một Saigon còn lạ xa? Saigon không ấp ủ những cơn mưa mơ màng tuổi mới lớn, khi Anh Toàn bỏ Hà Nội ra đi.
Mưa Saigon sầm sập, chấp chới trong ánh sáng kinh đô. Mưa ào ào, mưa bạt mạng như tiếng reo vui giữa lòng thành phố với trăm ngàn ánh đèn rực rỡ, yêu kiều.
 
Mưa Saigon chỉ đủ cho Nguyễn Đình Toàn, Thanh Tâm Tuyền, Cung Tiến, Mai Thảo xót xa, tiếc nhớ thêm về những dấu yêu xưa, những kỷ niệm cũ thời sống với Hà Nội…
 
   Nhưng Saigon là của tôi, nơi sanh ra, ngày mới lớn.
Saigon những chiều thứ năm. Thoáng trong gió xa xăm có tiếng nói của Nguyễn Đình Toàn dặt dìu, ấm áp như thơ. Âm vang nhẹ rơi trong chút mơ màng của nắng chiều sắp tắt.
Saigon thứ năm, bàng bạc văn chương Nguyễn Đình Toàn với “Nhạc Chủ Đề”.
Nhạc như hương thơm rải trong lòng thanh thoát. Chúng tôi, những cô học trò nhỏ, đã thả hồn mơ theo mưa chiều, nắng sớm. Mắt nồng nàn đếm những chiếc lá vàng lao xao rơi rụng trước sân trường.
Saigon mưa vui, nắng hắt. Saigon líu lo.
Saigon. Chết.
 
Năm 1978, Khánh Vân, cô bạn rất đẹp của tôi ra Thanh Đa ngồi than thở. Chúng tôi nói về những lửa than của đời sống khó khăn, bên những bàng hoàng không tưởng, những biến động bất ngờ nhất của quê hương…
Có thêm chị Nguyễn Thị Thụy Vũ và anh Nguyễn Đình Toàn. Bữa cơm chiều với tô canh đổ thêm nhiều nước lã, đã vui hơn. Khánh Vân như góp thêm chút cười nói, chút rộn rã, xôn xao…
 
Cafe Thanh Đa, chúng tôi không thể bỏ sót dù trời đang mưa. Chị Vũ, Khánh Vân và tôi đội nón lá. Anh Toàn và Nghiêu Đề đi với đầu tóc ướt và luôn cả áo ướt.
Những ánh chớp sáng, với ầm ì sấm vang vọng, cũng không làm chúng tôi sợ hãi. Chị Thuỵ Vũ luôn bước những bước dài vội vã, làm anh Toàn phải réo theo:” Có phải Thuỵ Vũ sợ Tô Thùy Yên đang rượt sau lưng, đuổi bắt lại?…”. Chúng tôi cười đua cùng với tiếng mưa rơi và sấm trời vang động.
 
Khánh Vân có chút ước ao lạ lùng, xin được ngồi giữa trời với Cafe ướt át. Khánh Vân muốn hai đứa tôi tìm lại chút…tuổi thơ. Thuở bé bỏng có những nỗi buồn mông lung, khờ dại. Chúng tôi cứ buồn ngang xương, buồn một cách khơi khơi tưởng như sắp chết... Những mơ màng vẩn vơ, cũng có khi chỉ vì đã có một chiều thứ năm nào đó, lỡ nghe qua Đài phát thanh, có lời “xúi dại" của Nguyễn Đình Toàn.
Lời thiết tha bay theo mưa gió và nắng ấm của Sàigòn “...Hỡi em yêu dấu".
 
Mọi người xếp bàn ghế ngồi hết ngoài trời, dù mưa làm run lạnh.
Chị Vũ mượn guitar, nhưng chủ quán không bằng lòng vì sợ mưa làm hư hỏng. Tôi hát với mưa, tiếng mất tiếng còn bên gió lộng. Vân còn bầy đặt đốt điếu thuốc xin từ anh Nghiêu Đề. Thuốc không cháy, tôi hít hà mùi khét khét, nồng nồng khói của diêm …
 
“...Nếu một mai
Không còn ai đứng bên kia đời
Trông voi vói…”
[ Phạm Duy ]
 
Nỗi buồn suýt chút nữa đã rớt xuống trầm sâu, uẩn ức, nếu không có tiếng thở dài vội vã của anh Toàn:” Trời ơi, thôi đi chứ, mưa ướt và lạnh đến điên người. Hai bạn mà cứ đi tìm “tuổi thơ” cái kiểu này, thì đúng là hai bạn đã giết chết, đã làm mất cha nó cái “tuổi già” …”
Nhưng tiếng hát vẫn nỉ non, vẫn ngậm ngùi cùng đêm tối.
“...Có hay chăng là
Mưa rơi vì chúng ta
Mưa rơi. Và còn rơi
…Mưa rơi bạc đầu ai…”
[Phạm Duy]
 
   Mưa Hà Nội âm u, mưa Saigon bạc bẽo không màu, trắng xoá.
Cuối cùng tôi đành thoát khỏi quê hương, tìm tới San Diego, nơi có chút màu lam chiều thanh tịnh.
 
Nhưng chỉ sau 14 năm, Anh Nghiêu Đề bỏ hết mọi vui buồn, bỏ luôn cả đời, ra đi.
Và rồi tôi cũng rời San Diego theo một nhân duyên mới. Tôi bỏ đi rất xa, tôi đi thật xa, và tôi đi xa lắm…
 
Anh Nguyễn Đình Toàn nhắn tôi về CA trước khi …quá muộn. Từ nơi xa xôi, biết về thăm rất khó, tôi hứa đại 6 tháng nữa. Anh rên rỉ :” Cái hẹn 6 tháng mới về lại CA, đã là cái hẹn lãng mạn nhất, với đầy đủ sự trễ tràng còn cộng thêm luôn cả lời thất hứa …”.
 
Nhưng có gì đâu, 5 năm rồi. Và tôi đã nhiều lần ghé thăm Anh.
 
California khi trở lại, tôi đã chẳng “Lạc lối tìm”. Vẫn những bảng đường quen xưa, ngõ cũ, nơi có Chị Thu Hồng và Anh ấm áp đợi chờ mỗi lần tôi hẹn ghé thăm
Vẫn căn nhà xưa, với những hoa cúc rực rỡ vàng trong sân nắng.
Anh và tôi vẫn cười vang sau những lần Anh buông lời đanh đá, có khi còn nhuốm thêm chút khắc nghiệt với đời. Anh nói xéo, nói thẳng, ghét khơi khơi… Anh bất mãn kinh niên với hết cả loài người và tất cả mọi điều trên thế giới. Mắng mỏ đời mà vô cùng sâu sắc, mỉa mai hết cả và thiên hạ nhưng lại vô cùng dí dỏm, có duyên…
Những câu chuyện chỉ có Nghiêu Đề, Duy Trác, Nguyễn Đình Toàn, Thuỵ Vũ mới thấm thía, mới cay đắng đủ để cùng nhau cười tung cười toé, cười thú vị trong suốt hết cả những năm dài.
 
 
   Tôi viết như phục sinh lại chút hình bóng của người đã ra đi, những Nghiêu Đề, Trần Quang Lộc, Nguyễn Đức Sơn, Trần Tuấn Kiệt, Bùi Giáng, Văn Cao, Trương Đình Quế, Ngọc Dũng, Đinh Cường.
Viết cả cho những người còn đang thở. Dù thở dốc, thở hơi dài, có khi chỉ còn thở vài hơi rất ngắn: Ngô Thế Vinh, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Khánh Trường, Duy Trác, Phạm Thiên Thư.
Saigon của tôi, mờ mờ những kỷ niệm đang dần xa, đang vật vờ chìm khuất.
 Nhưng Saigon vẫn giữ lại hết những chập chờn, những lung linh sáng của rất nhiều gương mặt bàng bạc như cổ tích, những năm xưa…
 
Duy nhất Anh Nguyễn Đình Toàn, tôi viết gửi Anh trong phút cuối của đời. Khi mà không ai còn đoán ra, không ai còn kịp thấy, đâu là ranh giới của một chấm hết nghiệt ngã và tối tăm:
Phút Lâm Chung.
Phút lãng đãng, phút mập mờ giữa ra đi và ở lại.
 
 
   Cali không mưa nhiều như tôi hằng mong đợi. Nhưng đêm nay San Diego mưa, mưa nỉ non, mưa thầm thì, mưa to nhỏ.
Mưa mang theo những não nùng, những giá lạnh của khói hương xưa.
 
Tôi đang tìm lại giùm Anh những ướt át hắt hiu, chút âm u buồn, lặng câm và ảm đạm.
Giữ lại hết cả những lo âu, những sợ hãi đầy hoài nghi về nỗi chết.
Tôi buông lời réo gọi những cơn mưa trút nước, mưa như điên, mưa bạt mạng của  Saigon.
 
Nhưng tôi giữ lại giùm Anh chút mưa gió lê thê, mang mang cái giá rét âm u đầy thơ mộng của những đêm mưa phùn ngày xa xưa. Hà Nội.
 
.”...Mong cho người tìm về nơi sẽ đến
Ta chia tay ta chia lời vĩnh biệt”
[Nhạc NĐT]
 
LÊ CHIỀU GIANG 

Wednesday, December 6, 2023

BÀY BÀI THƠ DÂN DÃ

Nguyễn Đức Nhân
 
Mái nhà xưa với giàn hoa giấy
 
HAI NĂM VỀ THĂM QUÊ XƯA.
ĐỨNG BÊN ĐƯỜNG. NHÌN MẶT TỪNG NGƯỜI QUA LẠI
 
Hai mươi năm đất khách
Nhếch nhác, cố về thăm
Những người già đã mất
Người trẻ bạc râu cằm
Đường làng người qua lại
Đứng nhìn người chăm chăm
May ra gặp bạn cũ
Kể chuyện đời trăm năm
Đường làng người qua lại
Đứng nhìn người chăm chăm
Tưởng gã điên, mặc kệ
Chẳng ai dừng hỏi thăm
 
 
GHÉ THĂM NHÀ NGƯỜI BẠN CŨ
 
Lâu ngày về ghé lại
Cổng khép chẳng còn ai
Hoa giấy rơi đầy ngõ
Trong sân cỏ mọc đầy
Nắng chiều trăm mũi nhọn
Trong ta vượn hú dài
 
 
BUỔI SÁNG Ở QUÊ NHÀ
 
Lâu lắm được nghe
Tiếng chim chích chòe
Và, gió nồm thổi
Rì rào trong tre
 
 
ĐỢI NGƯỜI VỀ
 
Sương rơi trên tàu chuối
Hiên ngoài hoa thoảng hương
Đèn khuya hiu hắt ngọn
Chó sủa trăng bên đường
 
 
TRÊN BẾN SÔNG QUÊ
 
Phơi chài bãi hoang vắng
Ông lão ngồi trên sông
Nhìn một đời mây trắng
Bờ kia rơi mấy bông
 
 
ĐẾN NGẮM ĐỈNH NÚI QUÊ
 
Sông đang bận chẩy
Lúa lo xanh rì
Chẳng hay khách đến
Ngắm núi Trà My
 
NẮNG TRƯA QUÊ NHÀ
Nắng oằn khóm trúc
Nắng đứng hàng cau
Vườn im cu gáy
Vọng vào mai sau
NĐN

  

Tuesday, December 5, 2023

CON ĐƯỜNG

Đặng Mai Lan
 
Chân dung Nguyễn Đình Toàn.
Photo by Nguyễn Bá Khanh

Đặng Mai Loan ở nhà NĐToàn
với tác phẩm Con Đường trong tay
 
 Cho đến lúc này, tôi tự hỏi có bao nhiêu con đường mình đã đi qua suốt những năm tháng có mặt trên đời? Nhiều lắm, những con đường quên lãng mất hút với thời gian. Và cũng có những con đường đã vạn lý xa, nhưng trăm năm đằm đắm nhớ nhung nếu như được sống trọn hết một kiếp người.
 
 Tôi đã bước trên con đường đó vào một buổi sáng giữa tháng 10.
Baylor Drive, những tàn cây palmier jupon cao ngất, ngẩng mặt với trời xanh. Những cành cọ rũ xuống buồn bã vì trời không một gợn gió, nhưng lòng tôi như Tết, háo hức xuân tươi.
Như,
" khi em về trời xanh và gió mát
con đường mòn thơm lá mục quê hương" (1)
 
 Nắng ấm loang trên những bờ tường của từng ngôi nhà nhìn từa tựa như nhau. Có thể đây là nơi cư ngụ của những cư dân lớn tuổi nên tất cả chìm trong êm ả, tĩnh lặng, không một bóng người qua lại. Trong thứ không gian trong vắt này, tôi nghĩ, nếu như có một chiếc lá lìa cành, tôi cũng có thể nghe rõ được âm thanh rơi rụng của nó. Thực ra, thứ âm thanh này tôi đã nghe, nhưng từ một giọng nói. Tôi đang nhớ lại và mường tượng ra nó, dù bây giờ, đất trời chưa hẳn vào thu, hoặc không có mùa thu nơi đây. Cỏ vẫn xanh ngát nằm khép nép bên vệ đường, cây lá vươn mình trên những vuông sân.
 Đường dẫn vào ngõ. Ngõ hẹp, nhưng bên mỗi hiên nhà vẫn có những khoảng đất trồng đầy chuối, dù chỉ là những loại chuối kiểng. Những thân xanh bóng mượt và những tàu lá khiến tôi nghĩ đến một "quê hương thu nhỏ" (2)
 Không phải là những con đường ngập đầy lá rụng của một Đà Lạt quá khứ mù sương, hay một lối đi quanh co, hai bên bờ đất viền quanh những bụi dã quỳ rực nắng. Cũng chẳng là con đường tỉnh lỵ vắng vẻ sớm khuya có những bến phà đưa người từ xã  này sang huyện nọ. Những vùng đất tôi đã đi qua, nhìn thấy… theo một cách nào đó.
 Tất cả đều xa lạ. Nhưng tôi biết, tôi sẽ gặp lại một nơi thân thiết của một thời. Nơi chốn đã cất giữ giùm tôi những tháng ngày tươi đẹp nhất đời mình.
 
 Qua những bức tường màu của một thứ nâu-cam dang dở, tôi bước lên những nấc thang.  
 Tôi đã tìm thấy sau cánh cửa ấy, một quê hương thu nhỏ. Quê hương của những người Việt ly hương có di ảnh, bàn thờ người quá cố. Có nồi cơm điện, ấm trà, phích nước… Nhưng quê hương này còn có áo mơ phai bên những đám cháy cùng với tro than.
 Và tôi thấy nó rõ ràng hơn, nó ở đấy. Đường cũ kia rồi, nơi của những sáng Sài Gòn, sân trường, lớp học. Đường xưa của những đêm xao xuyến từng giấc ngủ ngoan của bao thiếu nữ. Đường đêm chiến tranh mà dường như người ta không còn quan tâm đến ánh hỏa châu ngoài trời, hay tiếng súng đì đùng từ xa vọng lại. Nhìn nó, như một phế tích buồn hiu. Có gặp lại người yêu dấu cũ, cảm xúc của tôi cũng chỉ như thế. Bởi chính nó, con đường ấy là tình yêu, là tình đầu. Một mối tình không có người yêu.
Chỉ là một cuốn sách được viết ra từ hơn nửa thế kỷ. Là một trong những tác phẩm lấp lánh như sao giữa một bầu trời văn nghệ sáng rực thời vàng son của đất nước, với những văn nghệ sĩ uyên bác, tài hoa. Những ngôi sao tưởng đã lịm tắt, chìm chết cùng với bầu trời đã vẩn đục u ám, nhưng tất cả còn sống mãi trong lòng hàng hàng, triệu triệu người yêu nghệ thuật mà không gì có thể làm lu mờ.
Tôi ôm lấy nó, tôi sờ chạm mân mê từng vết màu đã ố với thời gian. Tôi hít thở, tìm lại thứ không khí của một khung trời cũ. Tôi tìm thấy tôi.
 Người dẫn tôi đến "con đường" ngày xưa ấy đang ngồi trước mặt tôi. Lẽ ra tôi đã gặp ông từ năm trước.   Nhưng một người thân quen của ông nói với tôi rằng, có thể ông sẽ không còn nhớ ai là ai nữa. Tôi đâu phải là một trong những "ai" này, để buồn khi ông không còn nhớ đến mình. Tôi muốn có một tập thơ ông vừa mới phát hành mà tôi không còn tìm thấy ở tiệm sách. Tôi muốn gặp một người, một giọng nói, những đoạn văn, lời thơ, tiếng nhạc.
 Lần đó, tôi đã không gặp ông.
 May mà còn có lần này.
 Người bạn trẻ đi cùng với tôi đã rất vui khi ông hỏi đến những người thân trong gia đình anh, mà anh nghĩ có lẽ ông đã quên. Tôi vui vì ánh mắt thân thiện của ông. Ánh mắt khiến tôi bớt e dè ngần ngại.
 Lúc ấy, tôi không nhìn rõ ông như thế nào. Ông đau ốm, bệnh hoạn ra sao? Tôi chỉ nghĩ đến những cuốn sách. Tiểu thyết của ông như lụa là kỳ ảo phủ kín người tôi, tôi không thể thoát ra được. Tôi hỏi đến người con gái có vết nám trên mặt, Lãm và Thục, những nhân vật của ông. Tôi hỏi đến Phụng và Sơn trong Đồng Cỏ. Hai người ấy xem chừng họ đã như thế với nhau. Nhưng đọc đi đọc lại tôi vẫn chưa tìm thấy những con chữ nào nói rõ ra điều ấy…Tôi nhớ nụ cười rất trẻ của ông, ông nói: đôi khi chỉ cần hai chữ thôi, đủ để nói lên "điều ấy".
 Khi tôi về, nhìn lại những bức hình mà người bạn Nhiếp Ảnh đã chụp kỷ niệm cuộc gặp gỡ này. Những bức ảnh với thứ ánh sáng, bối cảnh đầy nghệ thuật giữa cái ngẩng lên, nhìn xuống của chúng tôi. Dĩ nhiên là tôi đã sung sướng, rung động, không cách gì tả được. Cho đến khi, người thân của ông nhắc nhở, khuyên tôi hãy cất cho riêng tôi những tấm hình vì nhìn ông tiều tụy quá! Tôi mới nhận ra, Nguyễn Đình Toàn cúi xuống với ống pipe trong tay, rạng rỡ những trầm tư trong vũng tối vây quanh, Nguyễn Đình Toàn ngẩng mặt nhìn bầu trời mây xám, có những rặng cây gầy guộc khẳng khiu. Thứ chân dung đậm nét ca từ "lá thốt lên lời cây, gió lú đưa đường mây" 3. . Đó là cả một tận tụy, tìm tòi của Nguyễn Bá Khanh, người đã chụp bắt được hình ảnh của một tình nhân đứng giữa trời không, khóc mộng thiên đường… Nguyễn Đình Toàn ngày ấy, và bây giờ đã không còn như thế nữa. Nhưng cách nào, với tôi, bất cứ hình ảnh nào của ông cũng đẹp. Cái đẹp thoát ra từ một tâm hồn, một văn nghệ sĩ tài hoa lẫy lừng, mà có lẽ chưa ai có thể thay thế.
 Trong tiểu thuyết của ông, dù nhân vật là nam hay nữ, thỉnh thoảng ta đọc được những câu của họ nói về quê hương, về những nơi chốn… và ông đã dùng hai chữ "tư hương" tuyệt đẹp khi diễn tả tình cảm này. Nhưng với tôi, tiếng kêu mộc mạc "tôi cố bám lấy đất nước tôi" qua những nốt nhạc là tiếng nói xé lòng, đau đớn nhất.
 Ông đã cố bám lấy đất nước của mình nhưng vô vọng. Ông đã lìa xa tổ quốc và nhìn đâu cũng thấy quê hương. Những quê hương được ông thu nhỏ lại, nhưng bây giờ ông cũng đành bỏ tất cả mà đi.
 Con đường ông dẫn tôi đi, đưa tôi vào những vùng hoa thơm, cỏ lạ của văn chương đầy mê hoặc. Tôi vẫn đi mãi cho đến bây giờ. Nhưng có một điều tôi chưa nói với ông, đọc những trang sách của ông rất nhiều lần, tôi nghĩ mình không nên viết nữa.
 Cố thi sĩ Du Tử Lê cho rằng Nguyễn Đình Toàn là "người tình không chân dung" của rất nhiều nữ thính giả. Điều này không sai. Bao nhiêu người nữ như tôi đã hạnh phúc với những đêm khuya, nghe tiếng nói ấm áp và thổn thức cùng ông…
 "Chim đau đã quên mùa, hoa sầu đã quên nở. Nhưng những ngày tháng êm đềm của chúng ta xưa vẫn không ngừng làm cho lòng anh thổn thức. Anh như đứa trẻ, ngắt bông hoa cầm trên tay và tưởng tượng đó là trái tim mình. Ôi những hồn hoa, nở bằng nước mắt đau thương, nhỏ trên hạnh phúc".
 
 Người tình không chân dung, tôi đã âm thầm tìm kiếm, theo dấu ông đằng đẵng hơn nửa thế kỷ dài. Bây giờ tôi đã gặp được dung nhan của tình yêu ấy. Nhưng gặp để chia lìa.  20/10/2023 và 28/11/2023. Chỉ được ba mươi tám ngày ngắn ngủi và mãi mãi, không còn một hạnh ngộ nào đến nữa.
 Tôi ôm hai tập tiểu thuyết và một tập thơ có chữ ký từ những ngón tay run.
 Nơi ngưỡng cửa, những ngón tay run rẩy nhưng ấm áp đã cầm lấy tay tôi phút chia tay và đôi mắt là cả một vùng cô đơn. Cái cô đơn ánh lên, vọng về những tiếng nói, âm thanh trên làn sóng điện của một Sài Gòn thương, tiếc.
 - Ráng thu xếp, đến chơi với tôi một hôm nữa nhé!
 Vậy mà tôi đã không đến được. Lòng tôi đầy những giày vò hối tiếc.
 Tôi đã phụ tình ông.
 Người tình, người yêu, nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ. Con người tài hoa tột đỉnh ấy đã bỏ đi. Tôi đứng lại, ngậm ngùi nhớ mãi một con đường như thuở đầu bước đến.
 
*Gửi Nguyễn Bá Khanh, một ngày không thể quên.
 
ĐẶNG MAI LAN
(Paris 3/12/2023)
 
1- Khi em về (thơ)
2- Quê hương thu nhỏ (nhạc)
3- Tình khúc thứ nhất (Nguyễn Đình Toàn- Vũ Thành An)
* Những chữ in đậm là tựa những tác phẩm của NĐT.
 
 
 
 
 

Monday, December 4, 2023

THƠ TUỆ SỸ


Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ
 
Khung trời cũ
 
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngòi kể chuyện trăng tàn
 
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
 
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối rừng xa ngược nước xuôi ngàn
 
 
Tôi vẫn đợi
 
Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
Trong bóng tối hận thù, tha thiết mãi
Một vì sao bên khóe miệng rưng rưng.
 
Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió
Màu đen huyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử
Dài con sông tràn máu lệ quê cha.
 
Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
Quên những người xuôi ngược Thái Bình Dương
Người ở lại giữa lòng tay bạo chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng ánh tà dương.
 
Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi nhắm mắt ta đi vào cõi mộng
Như sương mai, như ánh chớp, mây chiều.
Sài gòn 78
TS

  

Saturday, December 2, 2023

TRANH. TIẾNG NÓI CUỐI CÙNG

Lê Chiều Giang
 
                                                                                
Tranh Nghiêu Đề
 
 
                                                                                 “Ta chôn chồng ta
                                                                                 Một lần.
                                                                                 Duy nhất.
                                                                                Ở giữa rừng gai không hoa trái mọc
                                                                                Đất. Đá.
                                                                                Rực cháy những lửa điêu tàn
                                                                                Ta đứng giữa trời
                                                                                Lặng thinh.
                                                                               Không khóc. “   [ LCG]
                                                                                                                                     
Làm thế nào để giải nghĩa về cái chết? Những điều nằm bên ngoài tất cả mọi sự hiểu biết của nhân gian, nhưng lại nằm bên trong những bí ẩn muôn đời của vị Thượng Đế ở mãi trên trời cao kia.
Lại càng không thể bàn tán gì, khi cơn đau ốm, bịnh hoạn đó đang không phải là của chính mình.
Tôi, một kẻ đứng bên ngoài sự lâm chung.
 
Sau khi được vị Bác Sĩ trưởng khoa phân tích, giải thích chi tiết về những điều không còn gì có thể cứu vãn với căn bịnh ngặt nghèo cùa chồng.Tôi mang cảm xúc của một cô gái bé nhỏ, biết trước mình sẽ trơ vơ, sợ hãi nằm im dưới đáy sông chờ chết.
Tôi đang ngộp thở, tôi mới là người sắp chết, tôi đang vẫy vùng trong tuyệt vọng, tôi không biết bơi...
Anh vẫn ngồi ngoài phòng đợi với niềm tin rằng, đây chỉ là căn bịnh đơn giản, mọi thứ rồi sẽ qua đi, sẽ chỉ như cảm cúm thường tình.
Thẳng lưng vào thành ghế, tôi thở, nhịp thở hụt hơi nhưng vội vã.
 Không khí ở khắp đất cùng trời, đã chẳng ai thèm quan tâm, nhớ đến. Nhưng khi đụng tới chút hơi hướm của nỗi chết, chúng ta thở rất vội vàng. Chúng ta sợ không khí sắp cạn, sợ nó sẽ hết…
Rất nhanh, tôi xếp đặt những lời nói dối. Làm sao tôi dám nói ra sự thật kinh hoàng như vị Bác Sĩ vừa nói với tôi bằng cái giọng lạnh lẽo của thuốc men và kim chích kia?
 
Anh cười rất tươi khi thấy tôi, nhưng sao mắt tôi nhìn ra nhiều ai oán? Bây giờ tôi mới hiểu ra sự tài tình của các họa sĩ, khi diễn đạt qua mầu sắc: Những môi cười bi thảm, méo mó giữa khổ đau trùng trùng, hoặc sự sợ hãi triền miên, nhãn tiền của nỗi chết. Những nụ cười trầm luân thoát ra khỏi niềm vui mê dại, đụng chạm tới sự bàng hoàng của một chấm hết không ngờ.
Và tôi cũng đang ráng cười, cười như thật. Nói huyên thuyên với anh về một chứng bịnh bình thường, chẳng có gì phải lo lắng, quan tâm.
Nếu chỉ cần nói dối mà đối phó được với những tai ương, hoạn nạn, thì tôi đang là kẻ nói dối rất chuyên nghiệp. Đời sống, có phải đôi khi chúng ta cần đãi đằng, an ủi nhau, dù chỉ bằng những lời dối trá, chẳng cần gì đến sự chân thật chết người, những chân thật chất chứa đầy muộn phiền, đớn đau và bi thảm.
 
Anh muốn vui bằng một bữa ăn tối ngoài trời, như hét ra niềm tri ân cùng thế giới. Lòng tôi dù tê tái, hoang mang, vẫn nồng nàn với rất nhiều ly rượu đỏ, cười vui chan hoà cùng chút nắng chiều hắt lên khuôn mặt anh sáng rỡ niềm hy vọng, chứ không thể là những tăm tối, u hoài của một nỗi chết.
Chúng tôi ngồi trong đêm, với mịt mù không lối thoát của tương lai, nhưng anh chẳng hề biết. Tôi bỗng thấy quí từng giây từng phút khi ngồi bên anh, những điều tôi đã phí phạm, vung vãi một cách hào sảng trong suốt bao năm dài... Lòng tôi nhủ thầm sẽ không còn bao giờ nữa. Vậy mà sao tôi cười, tôi nói và tôi giả ngây ngô?
 
Trên đường về qua nhiều Freeway vào phố. Tôi dừng xe lại ở đèn xanh, vượt qua hết mọi đèn đỏ… Với tâm trạng náo loạn, tôi lái xe như điên khiến anh hoảng hốt. Tự trấn an mình, run run tôi hát. Hát miên man bài anh thích nhất: “Chiều về trên sông” .
“Sông”, trước hiên nhà xưa của chúng tôi. Dòng nước trôi theo cùng với những hạnh phúc, gian nan và khốn khó… Sông hiền hòa êm ái, nhưng chẳng phải đã không có những chìm nổi, lao đao, và nhiều sóng dữ.
 
“...Hãy cất tiếng ca cho đời thêm buồn
Hãy cất tiếng ca
Cho lòng thôi khô héo…
Chiều buông,
Trên dòng sông cuốn mau
Thương đời, thương lẫn nhau…
Trong chiều
Về đâu?
 Bọt bèo tuôn khắp nơi…”
[Phạm Duy]
 
Đường về nhà mà tôi quanh co lạc lối. Lan man tôi rẽ trái, rẽ phải cho đến khi cầm trong tay tấm giấy phạt của cảnh sát, tôi mới biết rằng mình đã đi lạc rất xa.
Tôi muốn mau về nhà.
Tôi muốn nhìn lại từng góc, từng xó, mỗi góc vuông trong căn nhà mà mới sáng nay thôi, vẫn ôm ấp nhiều niềm vui và hy vọng. Tôi thèm tìm ra những khác lạ nào đã thay hình đổi dạng, những bàn ghế, chiếu chăn… Hay chỉ có mình tôi đang nhìn ra một đổi thay lớn lao, đầy sợ hãi?
 
Khóc giấu.
Câu nói như thơ, đã chẳng “thơ” chút nào những lần tôi dấm dúi khóc.
Khóc ngoài đường, khóc khi lái xe và khóc cả lúc một mình ngồi với cafe nơi quán nhỏ.
Nhưng chỉ sau vài tháng, Bác Sĩ đã không để chút bình yên cho chúng tôi. Mọi thứ giấu diếm đã được tung ra, như ngọn lửa thiêu đốt trên mặt mũi tôi cười gượng gạo. Riêng anh. Im lặng.
Chúng ta im lặng khi giận dữ, lúc chán nản, hay ngay khi ngời ngời, chói lòa cùng hạnh phúc. Nhưng trước niềm tuyệt vọng này, sự im lặng đang ẩn chứa những gì?
Suốt những năm dài tuổi nhỏ, rồi thơ mộng tuổi thiếu nữ, khi lập gia đình... Tôi may mắn với nhiều hân hoan của đời ban phát. Cũng chẳng có nghĩa tôi đã thờ ơ được với những đớn đau. Nhưng trong sự im lặng này của anh, im lặng mà như đã nói nhiều hơn những điều cần nói.  Cái âm thanh của “không nói gì hết”, khi đối diện với điều tận diệt trước mắt, đã làm tôi chới với, đã làm tôi hãi sợ…
 
 
Lặng lẽ, anh sắp xếp lại những cọ vẽ, sơn dầu. Tôi ngồi im nhìn như quan sát một tử tội, đang xếp muỗng nĩa cho ngay ngắn trước bữa ăn cuối cùng.
Có phải khi luyến tiếc một cõi đời, Anh có ý trở lại từ những bắt đầu?
Anh muốn vẽ.
Từ ngày rất nhỏ, Anh dùng đũa vót nhọn, vẽ muôn hình trên những tàu lá chuối mướt xanh. Khi mê man cùng màu sắc, khó khăn lắm Anh mới đủ tiền mua được tấm canvas. Vậy mà khi nhận được giải Hội Họa Quốc Gia 1961 cùng với anh Nguyễn Trung và Cù Nguyễn, Anh đã chân tình đưa tấm huy chương đó tặng người bạn vừa rời bỏ Huế, sống lang bạt ở Sài Gòn. Chỉ để Bạn bán đi, đổi lấy những bữa ăn và những ly nước mía ở Quán Cơm Xã Hội…Anh trao niềm vinh dự cho Bạn, cái vinh dự mà Anh cho là bọt bèo, phù phiếm.
Bây giờ Anh thèm vẽ, vẽ bức tranh cuối cùng. Anh muốn nhận chân ra đời sống qua từng hơi thở. Dù có đang thoi thóp, tàn hơi, Anh cố thở những hơi dài, đứt quãng…
Hơi Thở. Phải chăng mới là tấm Huy Chương miên viễn của đời người?
 
Sơn dầu, một mùi hương gay gắt nồng, mà tôi đã thở cùng trong những năm dài chung sống.
Với tôi, nó như một biểu hiện của sự thủy chung, lòng yêu mến và những gắn bó không rời.
Suốt bao năm dài, anh hay dùng những màu âm u, lạnh lẽo, những màu tái ngắt, lạnh tanh. Bức tranh cuối cùng anh dùng màu hoàng kim, rực rỡ và ấm áp.
 
Sự im lặng của anh đang dàn trải trong tranh...
Nhưng xô dạt trong tĩnh lặng, tôi nghe ra những âm thanh ầm ỹ, đầy cuồng nộ.
Tôi nghe ra hết những đắng cay, nghiệt ngã, những buồn phiền, điên đảo của đời người... Buồn hơn thế, tôi nghe ra trong tranh lời nỉ non, van vỉ của một níu kéo, trì hoãn thảm thương...
Và qua nét cọ, sắc như những vết dao. Vết dao chém dọc, chém ngang, chém quyết liệt, kinh hoàng trên mặt của nỗi chết…
 
Bức tranh đã không được hoàn tất.
Anh buông rơi những cây cọ, những tuýp màu, và mùi dầu sơn vương vãi…
Suốt bao năm dài, tôi đã không thu vén dọn dẹp. Tất cả còn nguyên đó như có thêm bức “Tĩnh Vật” trong căn phòng tối tăm.
Căn phòng không bao giờ cần có đèn thắp sáng.
 
LÊ CHIỀU GIANG
[ Tưởng niệm 25 năm Nghiêu Đề 1998-2023]