Sunday, October 27, 2013

THƠ NGUYỄN XUÂN THIỆP

Trà. hoa cúc



                                                                            Hoa cúc



                                                                      Photo NTKM

bình trà
những cành hoa cúc màu vàng
nỗi nhớ
trong căn phòng
của những chiếc lá và tranh
mù sương. mù sương. ngoài của s
k. ơi
anh gọi đó là thơ
là nghệ thuật
haiku

mai sau
sẽ có một lúc nào đó
thấy lại bình trà
và những nhành hoa cúc
trong bình
và trên mặt bàn
anh sẽ kêu lên
thơ ơi. trà ơi
dẫu nhiều ngăn cách
như giấc mơ vượt lên đời sống này
vượt lên nỗi đau. bệnh tật
dẫu chỉ một lần
như chiếc lá khô. bay

NXT

 

TRUYỆN NGẮN LƯU NA


Hai mươi bốn 
 
 
 
                                                              Late sunset. Laurie Pace

Bảy rưỡi sáng, Chín đã đi học.  Mây bốc điện thoại gọi Thu, chỉ nói được câu “mình bịnh, mà sao buồn quá…” rồi im lặng.  Có điều gì trong giọng nói mình chăng, không biết được, nhưng Thu trả lời em qua liền.  Hai mươi phút sau, một chiếc xe dừng bên dưới trước cửa ga ra, Thu _ tóc dài, bị vải, bước ra vẫy tay - chiếc xe quay đầu biến mất.
 
Vào nhà, ánh mắt sắc như dao quét nhìn bạn.  Phải chăng con người mình thật nhất khi thố lộ niềm đau?  Phải chăng con người Thu rực rỡ nhất khi có người kêu cứu? 

   -Hai đứa mình đi biển nha, chị?
   -Đâu cũng được. 

Trời vẫn còn sương và lạnh.  Cầu tàu lốm đốm những bóng người im lặng trong áo khoác trùm đầu sậm mầu đứng bám sát thành cầu.  Hai đứa vào quán chạp phô mua 2 ly cà phê rồi ra tận đầu cầu lựa chỗ có mái ngồi lên thành lan can gỗ cũ kỹ.  Thu rút gói Capri mong mỏng có hình cánh hoa xanh.  Hồi mới chơi với nó Mây nhìn lom lom cái gói vuông xinh đẹp ấy, vì hình như ở Mỹ đâu có?  Cái này của Tây, nhưng Mỹ có bán chứ, nếu không sao em có !  Chả biết phải hay không, Mây gật gù.  Thu đốt một điếu thuốc, cắn đầu lọc giữa hai hàm răng trắng, nhè nhẹ nghiến.  Nó ăn mặc lòa xòa, làn da đen đúa, nhưng luôn toát ra một phong cách, một thái độ, không chỉ riêng vì dạng hình mà còn riêng một nét không biết nói gì hơn là mượn lời của ai đó cho rằng phụ nữ bên Tây (bất kể giống nào) có geste hơn phụ nữ bên Mỹ.  Mây tra cứu dữ cũng chỉ tìm ra một chữ gần gần: zest, chả biết phải hay không nhưng cứ cho là vậy.  Chín thì đơn giản hơn, mụ đó weird !!! 

Hút được nửa điếu thuốc, bất chợt Thu quay sang hỏi Mây thử không?  Mây lúng túng ngần ngừ.  Mà đã sao chứ.  Nó đốt cho Mây một điếu.  Khói nhẹ vương, Mây tưởng mình đang thở ra những nỗi muộn phiền.  Một tay câu gần đó quăng lưỡi và lẩm bẩm một câu gì, Thu chợt bật lên đến gần hắn, sổ một tràng tiếng Tây.  À, thì ra, tha hương ai cũng là cố tri.  Hai bên xí xô coi bộ vui vẻ, Thu ngoắt Mây lại gần.  Mây đứng lên mới thấy mình xây xẩm lảo đảo vì điếu thuốc.  Hóa ra không chỉ là nhả chút khói xám buồn.  Anh Tây trẻ móc mồi vào lưỡi cho Mây thử vung.  Dòng nước cuồn cuộn dưới chân cầu, những thân người lặng im bên những sợi tơ mỏng trong veo nhẹ nhàng đu đưa vờn trên mặt nước.  Coi bộ còn lâu lắm mới biết có ra gì hay không.  Đứng lâu thấm cái lạnh nơi đầu cầu.  Một lúc, Thu giã từ cố tri vớ vẩn, rủ Mây đi ăn. 

Hai đứa vào Denny’s.  Cà phê, french toast với trứng sunny side upbacon.  Mây rưới mật quét bơ rắc muối tiêu lên trứng ăn tận tình.  Mây ăn thức ăn hay ăn nguồn an ủi nơi người con gái ấy? 

Ra khỏi tiệm đã trưa, Thu hẹn sẽ trở lại khi xong việc.  Ừ thôi em về 

Mây lên máy lần dò các bài viết.  Nhưng đọc một lúc, sao họ giống nhau quá  -như những tiếng hát, không làm sao phân biệt được ai là ai vì ai cũng khỏe giọng đầy hơi và gào và ngân và ngắt ư ử, như nhau.  Sao tất cả chúng ta giống nhau quá.  Rượu, sách, thú vui văn hóa, dân chủ nhân quyền, luật pháp, hội nhập, vươn lên, bồi đắp văn hóa,…  

Mây vào bồn tắm, để nước ấm và lấy một cuốn truyện.  Greg Iles, The Foot Print of God.  Tay này viết truyện giựt gân mà sao chính xác những tơi tả của kiếp người, những muỗng canh thiu những bát nước mắm hoen dở trên mâm cơm gọn ghẽ của hôn nhân, những mảnh hồn ngộp thở đi tìm một tình yêu hòa hợp bên cạnh những âu yếm ân cần của đời tẻ lạnh.  Khơi khơi kể chuyện giật gân mấy trăm trang mà hắn chẻ phận người thành từng sợi quăn queo như rau muống, lách vào tận máu xương buồn.  Chịu. 

Buổi chiều, Thu trở lại.  Hai đứa ghé anh Văn rủ nhau đi ăn, đi cà phê.  Mây để mặc Thu lèo lái, để mặc Thu dẫn đưa.  Dường như mắt anh Văn vương chút ái ngại buồn phiền, là Mây ngơ ngác hay là anh cũng nặng một niềm riêng?  Vừa ăn vừa nói.  Ăn xong rồi nói.  Uống xong rồi nói.  Tới lúc không còn gì để nói với nhau, không thể giết thêm phút nào nữa, hai đứa đứng lên từ giã anh. 

Về ngồi lại một nửa gara trống.  Thu đốt điếu Capri để lên ghế đẩu con rồi dạo đàn.  Ngày em thắp sao trời…  Chai Rosé bấy nay để không được khui ra.  Nhấm một chút, uống thêm một chút.  Uống hết càng hay, thì đã sao.  Mây thấy hình như da Mây đã dày hơn hồi sáng, dày hơn đêm qua, Mây chợt nghĩ, mình đã dạn dày.  Mười hai rưỡi, Thu đứng lên, em về - are you going to be ok?  Gật đầu buồn bã. 

Mây nằm xuống mệt lả.  Trong mơ Mây thấy mình tự trả lời một câu hỏi: tấm thân này đã là không, sẽ là không, thì những gì chứa đựng trong nó cũng là không.  Giật mình thức giấc _ nhưng cái gì lưu chuyển qua bao nhiêu kiếp?  Thế nào là kinh nghiệm tâm thức tánh không?  Một giờ sáng, một giờ sáng… Mây nhớ lúc thay tấm áo trong bóng tối đêm qua.    

Lúc đó vẫn còn trong cơn đồng thiếp, Mây chậm rải nói với Chín  - hỗi nãy anh Các hẹn tao ra ngoài nói chuyện sau giờ làm…   Mây không còn nhớ mình đã nói gì.  Im lặng, rồi Chín cất giọng, êm ả trầm lắng, không như đứa em lóc chóc thường ngày: nếu bà thấy muốn khóc thì cứ khóc, khóc cho vơi bớt lòng mình.  Như được lệnh tha, như được giải bùa thiêng, những giòng nước mắt Mây bấy giờ mới tuôn tràn, thấm ướt cái nghiến răng nắm chặt tay, cái lạnh tanh run bần bật của tấm thân.  Mây không biết mình nên thương hại mình -không dám tỏ nỗi đau lòng trước mặt người ta, hay cười trên cái ngu xuẩn của mình, chờ người ta xác nhận cái điều mình đã biết   -đau quá không khóc được?  

Mây chong mắt nhìn bóng đêm, với tay bật đèn tìm cuốn sách.  Tấm nệm trũng xuống một vết theo cái chuyển động của cơ thể.  Có gì đó tội nghiệp, đìu hiu nơi tấm khăn trải giường nhàu nát, nơi vết trũng phảng phất hơi người.  Một chỗ nằm, cuối một ngày hay cuối một đời, có phải tất cả chúng ta đều phải vào một chỗ nằm?  Ý nghĩ làm Mây hốt hoảng, Mây chưa bao giờ nhìn chỗ nằm của mình như vậy.  Mây đã nằm chỗ này bao lâu nay?  Mây sẽ còn nằm chỗ này đến bao lâu?  Tiếng Thu chợt vang lên trong óc: “anh Các?”  -dò dẫm, chặn đầu chặn đuôi, cái kiểu hỏi vậy thôi chứ em biết  Nhưng mãi sau rồi Mây mới biết cái kiểu bắt nọn ấy, mới hiểu ra con người Thu, cũng như bây giờ, cuối cùng rồi Mây mới thấy điều gì đã đến 9 tháng qua giữa Mây và Các. 

Mà Thu chưa hề gặp Các bao giờ.  Khi gặp Thu, Mây vừa chấm dứt mối tình với Các.  Cái tên đó có lẽ là lý do Mây tiếp nhận Thu không thắc mắc, và cho Thu một vai trò cao cả trong tình bạn.  Những ngày đó, Mây lơ mơ sống trong đau khổ dằn vặt, và Thu thì loay hoay đi tìm một mái ấm, một tình cảm bảo bọc nơi mấy chị em mỗi kẻ một nơi.  Thu quen với đủ hạng người, biết đủ thứ điều của cuộc sống, và luôn mang với mình một chút bí mật của lý lịch.  Không ai biết rõ quá khứ của Thu; làm cư dân lậu, Thu sinh sống ra sao cũng là chuyện người chung quanh không dám thắc mắc dẫu không ai nghĩ bậy cho Thu vì Thu có cái vẻ chững chạc của người học thức và lại có cái vẻ lão luyện với cuộc đời trôi nổi của một dân chơi.  Một mình, Thu dám bước những bước thách thức vào cuộc sống không nhà không giấy tờ cư trú không phương tiện sinh nhai. 

Nhưng những ngày ấy Mây còn lòng nào để ý.  Mây chỉ biết có người nương nhẹ bờ vai khi Mây khóc, dẫn Mây đi trong đêm vắng, cho Mây ly rượu, dạo cho Mây một khúc đàn, để Mây được an ủi được sầu đau một mình trong niềm riêng.  Các chỉ là một cái tên treo trên đầu hai đứa, để Mây dựa dẫm để Thu đưa một vòng tay.   

Những đêm rong chơi cùng Thu, Mây gặp đủ mọi thành phần nghệ sĩ, trừ nghệ sĩ sân khấu.  Quen nhau vì quen nhau, chả ai biết rõ ai và cũng không ai cần nhớ ai.  Anh Thiện viết văn tay trái, anh Văn chơi guitar, Phương và anh Lê làm báo, anh Khánh họa sĩ, triết gia P, anh K làm computer, cô Vui mắt kính như đít chai cô ca và hút thuốc như ống khói tàu thủy.  Cái xã hội sau bức màn sân khấu và sau những tờ báo là điều thật lạ lùng, hỗn tạp, sắc màu, với chút khó hiểu và ma quái lúc về đêm vì hình như khi ánh mặt trời chiếu rọi thì khó ai tìm thấy ai!!!  Nhưng Mây biết Phương yêu Thu và Thu với anh Thiện thích nhau.  Mây biết vì Mây biết.  Phương không ngại ngần tỏ mối tình si, Phương tôn thờ Thu, không ngại ngùng cho Thu những gì Phương có trong khả năng của mình và Thu cũng điềm nhiên nhận lãnh.  Nhưng Phương không biết rõ lòng Thu, có ai biết rõ lòng Thu bao giờ…  Những khi ngồi với anh Thiện, Thu luôn có vẻ hững hờ, hiếm khi nhìn vào mắt anh, còn anh thì luôn có vẻ điềm nhiên của một người anh lớn.  Có lẽ Thu thích cái phong trần của anh nơi đất Mỹ.  Thu lập lại cho Mây với giọng tin tưởng ngưỡng mộ về những ngày tháng anh sống dưới hầm metro của Philadelphia, của New York, về cái quá khứ Lực Lượng Đặc Biệt của anh.  Cho dù anh đã có vợ, tình yêu của Thu và anh dường như đứng trên những ràng buộc thông thường của xã hội.  Thu chỉ là một bóng dáng chập chờn của đám đông ấy vì dường như không ai xứng cho Thu làm một người tình kể cả anh Thiện.   

Những buổi gặp mặt đó thường dầy đặc thuốc lá, rượu bia, cà phê, và những trò chọc ghẹo nhiều khi nham nhở   -và đến cái biên giới đó, Thu luôn là một bờ rào một vòng đai bao bọc Mây trước khi Mây kịp nhận ra, trước khi Mây kịp bật cười ngu xuẩn.  Bên Thu Mây luôn tin rằng mình được chở che, mình có một cận vệ trung thành lịch duyệt, và một trái tim để tỏ bầy. 

Nhưng linh cảm riêng vẫn ngăn Mây không thố lộ mọi điều trong lòng mình với Thu, những điều có liên quan đến Các.  Bây giờ nằm một mình trong đêm dưới ánh đèn, Mây vẫn thấy được ánh mắt long lanh sắc bén đợi chờ của Thu, tựa như mắt của một con sói chờ mồi nhưng biết làm yên lòng cô bé quàng khăn đỏ.  Dẫu chậm chạp và dễ tin người, vẫn có những điều vô hình bao bọc chung quanh thái độ hành động của Thu làm cho Mây thấy nghi ngại  -một niềm băn khoăn không rõ tên tuổi. 

Như đêm Mây hẹn đi rong cùng anh Văn.  Mây dặn qua với Thu là sẽ về trễ nhưng không nói đi với ai.  Tiếng đồng hồ sau, anh Văn nhận được tin nhắn lúc đang lái xe, nhưng anh không trả lời điện thoại.  Mây về đã quá khuya nên ngủ dậy rất trễ.  Khi Mây thức giấc, Thu ở đâu về tới, lấy đồ dùng.  Thu chào Mây qua loa, nói anh Văn cho Thu quá giang về đây và anh đang chờ ngoài xe.  Mây mau mắn chạy ra chào anh, Thu cũng theo ra.  Mây chưa kịp hỏi han hết câu với anh Văn, Thu đã lẩm bẩm với Mây ổng còn đang nghĩ là em gọi ổng đêm qua nữa chứ.  Nhìn thái độ như oan ức không chỗ phân trần, Mây ngạc nhiên.  Hôm sau Mây ghé nhà, anh Văn mới giải thích, là tối kia lúc đang đi với Mây thì có phone, số phone là của nhà em, mà em đang ngồi với anh thì không lẽ Chín còn thức giờ đó mà gọi.  Chín xác nhận không gọi, nó đã ngủ từ lâu.  Phải một tháng qua đi Mây mới hiểu đó là cách Thu muốn biết Mây đi với ai.  Là mê ám hay là tò mò thì Mây không thể hiểu hay tin được, và một tuần lễ ở Paris cùng Thu cũng để lại lòng Mây một cái gì khó giải thích.   

Cái thành phố Paris ấy nhiếp hồn mình lần đầu đặt chân xuống.  Paris đẹp không chỉ vì những kiến trúc danh tiếng, những địa điểm văn hóa lâu đời, mà Paris còn đẹp vì những con lộ, những tầng hầm.  Đại lộ Champs Elysée “đại” ở cái lề đường mênh mông đủ chứa một biển người, trong khi nơi khác thì đường lót đá tảng tròn tròn nhẵn bóng đi lộp cộp gập ghềnh như thủ đô thời trung cổ.  Lối khác lòng đường hẹp mát rượi dưới những tàn cây cao và rải rác những bàn cà phê nho nhỏ.  Đứng bám trên “tram” đi vòng vòng thành phố tưởng mình về lại Chợ Cũ, Hàm Nghi…   với những tòa nhà kiểu dáng màu sắc quen thuộc, xe cộ rối vòng ở những ngã sáu, cả đến những con bồ câu bay xuống dành mẩu bánh mì cũng gợi nỗi thân quen.  Bước xuống Paris tưởng đứng giữa Sài Gòn năm cũ.   

Một tuần rong chơi ở Paris có lẽ là chuỗi ngày đẹp nhất và là điều đáng nhớ nhất trong tình bạn với Thu.  Lúc thì đi taxi ra tháp Eiffel mua vé lên đủ 3 tầng của tháp để xem cho rõ thủ đô.  Xuống rồi Thu dẫn Mây đi qua hai dãy phố, leo 5 tầng thang lên một quãng trường rộng.  Đứng nơi đó mới có thể chụp hình ngọn tháp được toàn bộ.  Hai đứa đi bộ ra một cái bùng binh xe cộ rần rần, Mây cười hớn hở với mấy anh Tây lái xe vui tính.  Rong chơi phố phường, vào vườn xem tượng xem cây, quanh ra ngõ “rệp” đường đá tảng đậu xe mỗi lề 2 hàng song song, lòng đường hẹp té.  Mây thấy sao xe bên Tây cái bumper mỏng lét !!!  Lê la uống cà phê vỉa hè nơi các danh họa, các nhà nghệ sĩ nổi tiếng xưa đã từng có lúc ngồi đồng với ly cà phê đã nguội và khói thuốc tan loãng.  Đứng dưới cột đèn xanh đỏ tân kỳ hơn bên Mỹ thấy vui vui tạm quên cái khinh khỉnh của Tây ghét Mỹ ghét luôn du khách nói tiếng Anh (!)  Tối hai đứa về ăn tiệm Tàu có ghi danh hát karaoke, Thu cũng hát cho Mây một bài thịnh hành lúc đó.  Ngày mai đi tàu trên sông Seine rồi xuống phố Việt mua quà lưu niệm.  Hôm kế đi metro để tới Montmartre.  Đi metro cũng là đi vào thành phố dưới lòng đất, với đủ thứ tiệm hàng hóa như trên “dương thế,” và không chỉ một mà có hai tầng metro dưới lòng đất.  Vào Sacre Coeur, Mây thích nhất lúc dạo quanh khu bán quà lưu niệm, bán tranh, ngắm những họa sĩ vẽ truyền thần cho du khách.   

Thu tỉ mỉ giải thích mọi thứ cho Mây, đây -bác này xin tiền trên metro rất đúng điệu, ngả mũ nói đôi lời, đàn một bài, và ngỏ lời cám ơn quí vị chung quanh.  Với tay vĩ cầm trên quán vỉa hè lúc hai đứa ăn sandwich với gan ngỗng mà Mây chỉ thấy như gan gà (!) thì cái cách Thu chồng tiền quarters lên nơi góc bàn cho nghệ sĩ ấy là một cách trân trọng.  Dù chỉ có một tuần, Thu dẫn Mây đi gần hết những chỗ mà sau này có dịp xem trên sách báo internet Mây mới biết là những địa điểm du khách nên ghé.  Còn vài hôm là hết, Thu gọi thằng Phú tàu lai nói bập bẹ tiếng Việt tới chở Mây và Thu qua tỉnh kế bên, một địa điểm du lịch của nơi đó để thăm ông Mập và quán ăn của ông.  Ông Mập là một bạn Tây của Thu, đã để cho Thu và Mây chiếm ngụ căn apartment của ông ở Paris, căn hộ trên tầng lầu năm trong khi phải đậu xe ở tầng hầm thứ 7.   

Đường đi đẹp, 3 tiếng lái xe nhưng thật đã đời, đẹp như mơ.  Ngang nhiều cánh đồng, những bó rơm đánh tròn như những thùng dầu nằm lăn lóc trên khoảng trống dưới trời mây gợi lại những bài hát tiếng Pháp lời Việt thuở bé nghe Thanh Lan Bích Trâm hát.  Đặc biệt ở một trạm xăng, Mây bắt gặp một bàn cầu xổm giữa những bàn cầu ngồi hiện đại nơi phòng vệ sinh rất sạch sẽ và to rộng.  Lúc đó Mây nghĩ dù sao cũng không phải là dân Việt mình lạc hậu !!!!  Quán ăn nho nhỏ xinh xinh, và ông Mập rất tế nhị bên bạn.  Ông dẫn cả bọn xuống hầm rượu, lựa lấy một chai mà ông bảo là tuy chưa xuất sắc nhưng uống được.  Lần đầu tiên Mây biết rượu chát, và uống hớp rượu đó rồi về lại Mỹ cho đến nay cũng chưa tìm được thứ rượu nào đúng mùi vị như thế.  Một hớp vào miệng, không ngọt không chua không nồng, chỉ thơm lừng ngây ngất, và khi nuốt xong mới thấy miệng của mình còn tráng một lớp mỏng vị chan chát dễ chịu, vẫn còn thoang thoảng hương rượu.  Mây sung sướng với cảnh lạ đường xa tạm quên cái dằn vặt trong cuộc tình với Các.  Mây hát luôn miệng trong suốt quãng đường dài lúc trở về. 

Đêm cuối, hai đứa vào một nhà hàng Tàu khác.  Anh bồi là một người Việt còn trẻ và điệu nghệ.  Anh mở một chai rượu và nói đó là phần của anh đãi khách.  Hai đứa hả hê ăn nhậu tỉ tê, khi đứng lên ra về thì Mây đã say hết biết.  Mây chỉ kịp nhảy lên giường là ngủ như chết.  Nửa đêm, trong cái nóng hầm hập của cơ thể, một bàn tay luồn dưới áo xoa lưng cho Mây.  Mây giật bắn mình tỉnh hẳn, nhưng nằm im và vờ xoay ngửa người ra nằm đè lên bàn tay ấy rồi lại rơi vào giấc ngủ.  Sáng dậy Thu kể lể, hôm qua thấy chị ngủ mệt nhọc lăn lộn em tính xoa lưng cho chị mà còn nằm đè lên tay người ta.  Mây vờ như không biết, nhưng thầm nhớ xót xa những đêm riết róng mồ hôi bên Các, cái ấm nồng yêu thương không bao giờ tìm lại được.  Hành trang về lại Mỹ của Mây mang thêm chút lòng nghi ngại.  Những gì chưa nói được có lẽ sẽ không bao giờ được nói.

Thu luôn nhẫn nại đợi chờ, nhưng Thu và Mây đều biết  -Mây sẽ không bao giờ nói rõ chuyện gì đã xảy ra giữa Mây và Các.  Mây phải nói sao với Thu, khi Mây đã biết rằng Các sẽ không bao giờ lấy Mây vì Ba không bằng lòng  -và dù dứt tình Mây vẫn đi với Các.  Mây nói gì với Thu, khi mỗi đêm tan sở Các đều hẹn Mây ra quán rồi hai đứa ăn một món gì đó và vẫn không nói được gì với nhau, có giải quyết được gì đâu một số phận.  Không biết bao nhiêu lần Mây nhủ lòng từ chối, rồi nhớ Các thiết tha Mây lại đi với Các, chỉ để nghe tiếng nói, chỉ để nhìn lại cái vóc cao gầy, và để biết mình tuyệt vọng.  Có hôm nhớ Các điên cuồng, Mây lái xe qua nhà chỉ mong nhìn thấy bóng dáng Các, hoặc lúc không chặn được nỗi nhớ, Mây xông đến gặp Các, và thật lạ, lúc đối diện với Các thì Mây lại chỉ thấy một xúc cảm lạnh nhạt nhờ nhờ, Mây cứ ăn chắc đây là lần cuối để rồi mai lại về đúng chỗ của lòng, một nỗi chán chường.  Nhiều lúc Mây nghĩ mình cố nuôi vết thương lòng đang phai vì một mai khi nó lành lặn có lẽ chỉ còn một cuộc đời vắng lạnh mênh mông.  Nghĩ đến đó, Mây thương hại mối tình của mình, thương xót cho mình.  Đêm lạnh cứ ơ hờ chầm chậm phủ lên vai như những giọt nước ngoằn nghèo lăn xuống nơi mặt kính xe, từng đêm, hằng đêm, như đêm nay. 

Tiếng đồng hồ tích tích êm trong đêm vắng, trang sách mở ra vẫn ở yên trên cánh tay nghiêng.  Mây nhìn chữ mà không đọc được gì.  Lẩn thẩn chầm chậm, dưới ánh đèn vàng, Mây nhớ những lần cãi nhau vặt vãnh.  Lần đó khi Mây kể chuyện viết trong hồi ký: nhà giáo Nguyễn Hiến Lê lấy 2 vợ, nhất là cái cách ông kể lại, Các đã lạnh lùng cười khẩy, hỏi sao Mây tin những chuyện trời ơi nơi trang sách.  Lúc đó bật ra cái khác biệt giữa Các  -một người năng động đầy sức sống, sáng tạo, và thực tế -và Mây, ngơ ngác vẩn vơ thụ động.  Nhưng khác biệt không dừng ở đó.  Các từng chịu không nổi phải thở than, chưa thấy ai luôn nhắc về Má như Mây.  Các không hiểu tại sao không là Ba, người ảnh hưởng mạnh đến các con vì là người dẫn đưa dìu dắt từ học vấn đến đường đời, như Ba của Các, mà lại là Má ngự trị trong mọi nghĩ suy sinh hoạt của mình như Má với Mây.  Dĩ nhiên Mây cũng hỏi điều ngược lại rồi thầm trong đêm vắng tự hỏi sao mình cách biệt nhau đến vậy.  Mà Mây vẫn yêu Các thiết tha cả khi cái cư xử khôn ngoan của Các làm Mây thương tổn. 

Làm sao được, Ba Các không ưng Mây nên Mây chỉ đứng trong bóng tối.  Những dịp họp mặt lễ lạc, những buổi đấu banh của Các, Nhi luôn đứng bên Các như một đôi thiết thân và Mây chỉ là một khán giả trong đám đông.  Các nói hoàn cảnh đặt mình vào chỗ đó.  Ừ, nhưng hoàn cảnh đâu bắt buộc Các phải nhận và đáp những ân cần chăm sóc của Nhi?  Hoàn cảnh đâu bắt Các phải dấu Nhi về quan hệ với Mây?  Mây buồn rầu nhận ra, cũng như Thu, Các cho mình cái quyền được thụ nhận ân tình của người khác khi vẫn có bên mình một mối tình riêng, cho rằng mối tình đó đứng trên những eo sèo nhân thế.   

Cuốn sách trên tay rớt xuống mặt đất, đồng hồ bật lên báo thức với chương trình tin tức từ radio.  Mây với tay tắt chuông.  Lại một dấu ấn của Các: nghe radio talk show đài 640 AM.  Tha hồ tranh biện, đẩy suy nghĩ niềm tin của mình tới chỗ tận cùng, thường là câu hỏi mình sẽ làm gì nếu đó là mình với những điều kiện nhu cầu hoàn cảnh đặt ra. Dấu vết của Các trong đời Mây, là khác biệt hay là yêu ái, đều quá nhiều quá chi ly -quay bên nào cũng chạm phải.  Làm sao Mây quên được Các?  Đêm nay cũng như đêm qua.  Và đêm mai rồi sẽ tới.  Dẫu đêm ngắn lại dẫu ngày chậm đến dẫu mặt trời không mọc, Mây biết sẽ không tìm được câu trả lời nơi bóng đêm.  Ngày sẽ vẫn dài, đời vẫn mỏng.  Mây nhắm mắt.  Mây ước mình ngủ được một giấc lâu lâu, càng lâu càng tốt.   

Trời ửng dần lên, Chín đã dậy sửa soạn đi học như mọi ngày.  Mây nằm im trên giường không còn hơi sức, không biết mình muốn gì nữa với cuộc đời này.   

Bẩy giờ sáng, Thu gọi. 
  -Chị, đi ra ngoài?
  -Thôi, mình muốn ngủ.
  -Vậy lúc nào dậy gọi em.
  -Ừ, bye.

Mây lắng nghe tiếng sột soạt của cơ thể trên tấm nệm nhàu nhĩ và hực hơi người.  Căn phòng này vẫn vậy mà Mây tưởng như mình đang nằm ở một nơi nào xa lạ.

Một hình ảnh bé thơ chợt hiện về.  Mây và thằng Tỉ Mập chơi trò tung hứng với một trái banh bằng rơm vo lại.  Trái banh nhẹ và cỡ hơn trái cam, hai đứa 7,8 tuổi cứ ngửa mặt lên trời chờ nó rớt xuống để đánh bật nó lên không.  Có vậy thôi, mà niềm vui mà tiếng cười như truyền nhiễm như nước tràn, đã lan ra rồi không cách gì thu chứa lại.  Mồ hôi ướt đẫm lưng, trán; mặt 2 đứa đỏ bừng.  Đã mấy giờ tối?  Mây phải chạy vào nhà xem chừng Ba đã gọi đi ngủ hay chưa.  Khi Mây trở ra, thằng Tỉ Mập vẫn chờ, nhưng không gian sao như nguội lạnh, đứt có 10 phút mà trò chơi trở nên gượng gạo, tiếng cười chợt như giả dối.  Năm ba phút sau trò chơi chấm dứt.  Cảm giác nhàn nhạt ngỡ ngàng ấy như cái kim gút vào trí nhớ bé thơ của Mây. 

Cả những niềm vui nỗi buồn vụn vặt cũng còn có riêng những lý lẽ không hiểu được huống chi tình yêu.  Dù ai có nói sao chăng nữa, dù Mây có thiệt thòi bao nhiêu đi nữa, thì Mây vẫn yêu Các.  Mây không biết mình còn có thể yêu ai hơn Các, và còn có thể tìm thấy nỗi thấm hòa với ai khác như những khi cùng Các cất tiếng cười vang   - lúc đàn đúm dóc lác, khi dầm thân dưới mưa đêm, khi co ro những sáng lạnh nơi biển vắng, khi văng mạng tranh biện cho tới cùng một chủ đề, khi thuần phục để cho Các dẫn mình đi những bước dọ dẫm vào cuộc đời xa lạ, thử một món ăn dự một cuộc chơi, đến một khung cảnh mới, và nhất là, lúc im lặng bên nhau ngước mặt nhìn mây. 

Im lặng bên nhau, đó là khoảng thời gian Các học vẽ.  Những nhát cọ thô sơ, màu sắc và nội dung cứ như là đánh nhau trên khuôn vải.  Những lúc Các thất vọng vì không tô được sắc trời, hay vì bố cục vụng về không vẽ ra được cái bao la, Các thường nắm tay Mây ánh mắt thoáng chút buồn rầu cặp mày cau lại -rồi khoát tay, Các lại cùng Mây xếp dọn cọ sơn để ra đầu ghềnh đón hoàng hôn.  Dần dà, màu sắc rồi cũng bị nét cọ chế ngự   -và Mây thấy như mình dần bị nhốt vào từng bức vẽ ấy -hóa ra không chỉ Các đắm say mà chính Mây cũng chết chìm trong biển sắc.  Về sau, những khi Các đắm vào những bức vẽ thì Mây lại bày trò lăm lăm máy ảnh như muốn ghi lại tâm hồn của Các lúc hòa ra những sắc màu khoát ra những nhát cọ.  Quanh quẩn bên Các, dù không làm gì Mây vẫn cảm thấy êm ấm, tới nỗi Mây nghĩ mình đã thành tấm khăn Các dùng để lau những cái cọ, thành lọ nước Các dùng để hòa mầu.  Mây không băn khoăn gì khi biết mình sẽ chẳng còn yêu được ai, và khi bước chân đi Mây sẽ phải chịu mất một phần của chính mình. 

Nhưng Các rất thương của Mây, Các có thể kiêu hãnh cho rằng mối tình của chúng ta đứng trên mọi tầm thường của xã hội    -tựa như Thu yêu anh Thiện; nhưng cũng như Thu   -khứng nhận ân tình của Phương, của Nhi trong sự mù mờ của họ có khác nào tình dối với tình.  Một mối tình ngoại lệ thì có thể được cứu rỗi vì uẩn khúc, nhưng hai ba mối tình thì tất cả những mối tình ấy trở nên tào lao.  Dẫu Các tài năng bản lãnh, dẫu Các nghĩ mình khác thế gian và xứng đứng bên trên để đón trao cùng lúc nhiều mối ân tình, nhưng đó cũng chỉ là khôn khéo chứ chẳng phải tình.  Gió trời chỉ cần những tiếng lòng dù thảng thốt, mưa trời chỉ đợi hòa những giọt tình trong ấm, sắc trời chỉ thắm với màu máu của tim.  Khôn khéo làm vẹo đi những nhát cọ lệch đi những nét vẽ nhòe nhoẹt những mảng mầu sắc đã tạo nên hồn của các bức tranh. 

Mây ngồi dậy đi rảo quanh phòng, lần lượt gỡ xuống tất cả những bức tranh của Các xếp gọn ghẽ vào một góc.  Xuống ga ra Mây lục tìm tất cả mọi hộp đựng khung tranh khệ nệ mang vào phòng.  Mây ngắm nghía từng mảng mầu sắc, từng nét cọ.  Một giọt nước mắt lăn xuống má, nhưng Mây kịp đưa tay quệt giữ không cho nước mắt rơi xuống tranh.  Không thể làm hoen ố hồn mình.  Từng bức vẽ vào nằm lại trong hộp.  Mây xếp gọn ghẽ toàn bộ tranh thành một chồng.  Bộ chân dung Mây chụp cho Các đã hoàn tất và bức ảnh cuối cùng mới in để thử màu sắc Mây cũng gói vào một hộp để lên trên.  Lấy tấm ra giường Mây gói ghém chồng hộp như một gói quà vuông vắn.  Với tay lấy hai sợi thừng kết tua cột bộ màn cửa, Mây cột gói quà khổng lồ lại rồi đẩy vào một bên đầu giường. 

Ngày mai _ không phải, hôm nay, lát nữa đây khi thức dậy, Mây sẽ xin sở chuyển đi nơi khác để không phải tự dối mình những khi Các gọi điện thoại “hỏi thăm” Nhi, những khi cầm phải một món đồ ai đó gửi tặng Các để trong xe.  Và Mây cũng sẽ không trở lại thế giới của Thu để thắc mắc rằng Phương có biết.  Mây sẽ ngủ một giấc thực ngon.  Khi thức giấc dẫu không tìm được bóng mình nơi gương cũ, Mây biết ngoài kia nắng vẫn chờ soi hạt bụi trong và mây sẽ vẫn đợi dù chỉ còn một đôi mắt lẻ.

chiếc gương cũ in môi cười khác
vạch mầu son một nét hồng nhan

Lưu Na
06/27/2013

*Trần Mộng Tú - Tuổi Mới

 

Monday, October 21, 2013

TẢN VĂN THƯỜNG QUÁN

Trưa, sông Hàn và… 



                                     Tại nhà Quận & Hải Phương, San Jose. Thanksgiving 2012,
                                                     nhân dịp NXT giới thiệu tác phẩm.
                              Từ trái. Ngồi: Thường Quán, Tưởng Năng Tiến, Trương Thị Thịnh.
                                        Đứng: NXT, Hà Cẩm Tâm, Quận-Hải Phương, Huệ Thu


“ Mọi cái chết đối với những kẻ khác là một sự giản đơn hóa đời sống,
 nó tránh cho người ta sự cần thiết phải bày tỏ tri ân,
 sự bó buộc phải làm những cuộc viếng thăm. ”
                                                                                                    Marcel Proust (Le temps retrouvé) 

Mùa hè thành phố cảng mang trong nó nắng nôi, sóng nước, độ mở, màu sắc khơi dấy, náo níu, gió, lang bạt, điệu đàng, sự pha rữa trong sôi bỏng, sôi bỏng của ngày đang dìm trong cơn hạn, trong sự thiêu đốt, trong chất sống, một chất sống chỉ cảm được ở một độ tuổi nào đó, kẻ mới trần thân, mới lớn dậy, nó vừa tới bằng một độ căng nở, một sức nặng, một độ bay bổng, thì cũng vừa vùi lặn trong bí ẩn, trong tịch mịch điều-không-biết, trong náo nức của điều-muốn và những cấm kỵ, giới hạn, kềm giữ - những bóng râm của những quán trạm ven biển, những chiếc lưng trắng muối, những con mắt ngó lơ, những ly nước chanh muối còn lại những viên nước đá, màu vàng nâu của nửa chiếc vỏ nát. Mùa hè những năm 1972, 73. Chúng là hàng trăm buổi trưa băng ngang sông Hàn đi qua bên kia quận Ba, đi dọc theo con đường nối từ một bến phà sông Hàn đến bãi biển Mỹ Khê, hoặc là ngồi trong lòng một chiếc xe lam, hay cỡi một chiếc xe đạp, có cả khi cuốc những cuốc bộ, con đường không thể nào gọi là Con Đường Cái Quan, ngồi xuống những đụn cát dưới những cây dương liễu cao nghều, đung đưa những chùm, những cọng, những trái khô đeo lưng lững mà mài miệt kiên trì khó rơi, thấy một màu xanh dịu bớt qua mái dương, ngồi cho tới nắng ấm thì moi chút tiền vào một hàng quán cho vụ giữ khăn, giữ áo, một chiếc phao, và một ly nước hẹn khoảng chừng một giờ sau, sẽ chìa số sẽ thu hồi. Tung mình vào nước mặn, quẫy đập lung tung, nằm ngửa cho con mắt gặp con mắt thôi miên mặt trời đã ở đỉnh điểm cao nhất, thấy cái thân cá dập dình là mình giữa vạn chiếc vẫy bạc của biển vô cùng tận. Trong cái dập dềnh đó đã có Phạm Duy, như khi trẩy cái con đường xã hẹp, đi ngang qua những mái nhà không bao giờ bề thế đã đành, cứ tầm tầm nghèo nghèo với những vồng khoai lang, những gốc xương rồng, và những dây leo kiên trì ngoài gió nắng, đâm những trái đung đưa gọi là mướp, là bầu, là bí, là dưa. Đất vùng Đông Giang cát tới trắng mềm, rã xốp, tới nghe được hư hoai muối, nhà rỉ sét từ mái rỉ xuống, những chiếc giếng đào tới hết ngọn tre mới tràn ra một thứ nước thân mật, kéo gàu lên có thể tưới từ đầu cổ xuống và quẫy tung như một thứ ngựa xổng hay một thân vện trong sân hung dữ trưa cày xạt xô nắng. Tiếng ru con đâu đó, tiếng o nghèo, như khi tới chờ con phà qua lại bên kia thành phố thị tứ, con đường Bạch Đằng, những ngôi nhà cổ kiến trúc nửa Minh hương Hội An, nửa Tây tỉnh lẻ, những mái hiên nằm thấp, những tán đa già ngang tuổi thành phố, vồng rễ đánh bật lề đường, nắng vẫn dội xuống cổ áo đứa thiếu niên đang  tưởng tượng những chờ những đợi sông Lô, sông Đuống, tăm tắp mà kề bên, những tụm lục bình trôi lơ ngơ. Nước chảy đời nước cớ chi người đứng nghe trong nước thứ tình đời trôi dạt đèo bòng, mông lung, tứ tán... “ Chiều buông trên giòng sông Cửu Long / Như một cơn ước mong, ơi chiều ”... Phạm Duy là buổi chiều khi ra tới Cửu Long, là buổi sáng tinh mơ khi ở sông Lô, sông Đáy, là đêm khuya ở một vườn dạ lai bên bờ Hương, nhưng ở Đà Nẵng  ông là trưa. Trưa  Những buổi trưa ở đỉnh cao và sắp dứt điểm của một cuộc chiến tranh mù lòa, anh giết em, em giết anh, hung bạo, mất đầu, không có mắt ... “ Bởi vì tình đời nào chỉ thù oán ”. Ông đứng với con sông Hàn vạm vỡ, chiếc đầu vạm vỡ, làm như đã là một với một bờ sông đợi phà, với gió không kềm tỏa, với nắng đời ban trưa, với mùi ét xăng, với mùi  muôn vạn thứ , mùi vị, chúng tung tỏa trong gió, khô kiệt, khắc khảm, tan loãng chút gì rồi trở lại keo cháy, thiết tha, cả là sự đó : thiết tha, những sắc độ thiết tha, tầng lạch trên này nước, dưới kia bùn, rong tảo, xác người, di sản trăm trận chiến, trong nắng sự mòn phai, hủy diệt, hủy tán. Ông là người phần nào đã đưa những người đứng đợi phà những buổi trưa nhiệt đới hôm kia thấy ngoài là con nước gieo neo này, ngoài kia kia còn là một cửa cảng, những cửa cảng, những tung mình ra, những cuộc viễn du, những ra khơi, với thế giới, với hòa mình, với sự mở rộng không còn cự ly, biên vực. Âm nhạc cho người ta hòa mình, âm nhạc cho người ta rộng rãi, rộng lượng, trong sống, trong chết, trong tái tạo, hồi sinh.

Trưa nay khi đi dưới những tán bách tán thông ở một nơi gọi là cuối tận cùng phương Nam thế giới nghe tin ông mất tôi không thể không nghĩ về ông, không thể không thấy lại ông, ở những buổi trưa sông Hàn của một thời tôi như vậy, nghe lại những âm sắc trưa, và cảm tạ ông, ông của sự không đơn giản tí nào cả, như lịch sử như vận nước dải đất cong cong kia chẳng bao giờ đơn giản.  

Thường Quán
30-1-2013
(Nguồn: Da Màu) 

Thường Quán sinh 1956 tại Đà Nẵng.
Thơ, tiểu luận đăng phần lớn trên các tạp chí văn nghệ ngoài nước như Văn Học, Văn, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Tập Họp, Việt, Nhân Văn, Quê Mẹ, Diễn Đàn....
Thơ Anh ngữ đăng rải rác ở The Age Saturday, Meanjin, Heat
Tác phẩm đã xuất bản: Ngoài Giấc Ngủ (Nhà xuất bản Văn Nghệ Calỉfornia, 1990)
Hiện sống tại Melbourne - Úc.

Sunday, October 20, 2013

Thơ Trầnphùthế


THU CHẲNG ĐỢI NGƯỜI
 
 
 
 

thu đi sao chẳng đợi người
con chim lá rụng bên trời quạnh mông
chiều đi mây chở ráng hồng
mà thu chẳng đợi tình không trở về

sương còn như ủ cơn mê
ôm quanh đỉnh núi nằm kề chân mây
thu đi chỉ mới mấy ngày
mà ta cứ tường hồn phai lâu rồi

muộn về một chút nắng ui
đã tan đi cả nửa trời thu xanh
buồn nào len lõi mong manh
sầu nào hụt hẫng mông mênh nửa chừng 

đợi người đợi mỏi lá rung
cành khô lỡ khóc mịt mùng bóng thu
chiều nghiêng sương đã lên mờ
nai quên tiếng tác bên bờ suối quen

                                       10/16/13
                                          TPT

 

BÀI GHI CỦA ĐINH CƯỜNG


Khi hay tin Nguyên Nhi ra đi nhớ Phạm Chi Lan,
tình nghĩa vợ chồng thật đẹp cả hai cùng tan biến trong mùa thu

 

Oct20. 2013
 

 
                                               Nguyên Nhi nhớ bởi Đinh Trường Chinh       


 
                                          Nguyên Nhi & Phạm Chi Lan

Con chim chết giữa khóm hồng vô cớ
Tiếng hót quên thảng thốt rụng hiên ngoài
 ( Nguyên Nhi ) 

Trận quái phong khi trời lập thu đã ngưng bặt
đã về cùng với miền lặng [1]
Nguyên Nhi ơi Phạm Chi Lan ơi
tôi thương quý hai người, thương quý lắm
dù chỉ gặp nhau ngoài đời có một lần
lần tôi về Dallas năm nào đó, đã quên
chỉ nhớ đêm ngồi uống rượu nhà Nguyễn Xuân Thiệp
có Nhật Hoàng, Đinh Yên Thảo, bạn đến trễ
vì còn lo cho tiệm máy giặt
tôi còn nhớ có Thu Thuyền phone thăm
vậy mà Phạm Chi Lan mất đã bốn năm
nay bạn mất cùng trong mùa thu
con chim hồng y có về kêu thảm
những cụm hoa bên nhà có để tang

mới tuần qua nghe Thiệp gọi bạn vô nhà thương
sáng nay Đinh Yên Thảo gởi báo tin buồn:
Nguyên Nhi vừa rời trạm Z tối nay,
đột ngột sau hai tháng có triệu chứng xơ gan.
Xin lỗi đã báo tin không vui trong một ngày cuối tuần
( e-mail on Saturday, October 19, 2013, 11:00 AM )

chiều tôi vẫn lầm lũi đi qua cánh rừng ngập đầy lá vàng
sao không là bờ biển động
Nguyên Nhi ơi tôi biết bạn đã sống thiết tha với sóng
viết về biển rất giang hồ, viết về ngọn hải đăng buồn
tôi như thấy trong mù sương đầu thu hai linh hồn gặp lại…

Virginia, Oct. 19, 2013
Đinh Cường

[1] Quái Phong – tập thơ Nguyên Nhi
Miền Lặng – tập truyện Phạm Chi Lan
Phạm Chi Lan làm website “ Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng “
rất sớm từ tháng 7 năm 1995.

Friday, October 18, 2013

THƠ ĐỨC PHỔ


Tiễn hè


 
                                       Late summer rose by Lanie Loreth
 
Sứ già gió mang mùa hè đi
về nơi nương náu cũ
đọng sớm mai mấy giọt sương
thấm đẫm chân đời nguyệt lạnh

Khi sức nóng bốc hơi
ta tiễn mùa hè theo gió
mây bay ngược dòng đời
về lại bến thu em.

Chiếc bóng hè đổ xuống triền đồi
gã rỗi tình rượt bắt
về nhốt giữa lồng mùa
đợi đón thu về yên ả.

Em má núm đồng tiền
tuổi thu vừa trỗi
yêu thương đà tràn
giữa phận tình chìm nổi.

Mùa chỉ ở cùng ta theo hạn kỳ
hết kỳ hạn lại ra đi
em ơi, đừng giống mùa đi nhé
ta chỉ tiễn hè chẳng tiễn em đâu!...

ĐỨC PHỔ

Thursday, October 17, 2013

TẢN VĂN LƯU NA


Ghiền
 


Bây giờ cô ghiền đi cà phê với họ.  Hai ông bạn già, gặp nhau ở bàn cà phê vỉa hè êm ả lúc 10 giờ sáng.  Một ông thì chỉ biết viết rồi quên luôn tác phẩm đã in; một ông thì thỉnh thoảng làm thơ, bây giờ dù hết làm thơ vẫn yêu thơ yêu chữ và mang hết cái lòng yêu con chữ đó đổ xuống việc phục hồi những cuốn sách đã một lần xuất hiện trên cõi đời này; và cô, một đứa ngớ ngẩn.  Cuộc cà phê hình thành khi một ngày cô đưa khoe ông Thành, người mê chữ, cuốn sách cô tự làm.  Ông cười khà khà sung sướng thấy có người cũng mê “làm” sách như mình.  Cầm cuốn sách vụng về trên tay ông vui vẻ chỉ cho cô những chỗ có thể sửa cho đẹp hơn, layout trang chữ sao cho bắt mắt, bìa có màu gì thích hợp, và phông chữ cỡ nào thì cân đối…  Cô sung sướng tặng ông cuốn sách duy nhất đã “sáng tạo,” và cà phê mười giờ bắt đầu. 

Bàn cà phê bằng sắt đan như tấm lưới tròn, vài cái ghế dựa, cô ngồi với hai ông dưới bóng mát của cái dù xanh bằng vải bố, mỗi bàn một cái dù kề một gốc cây hay một chậu kiểng.  Rải rác vài khuôn mặt quen của phố Bôn sa, những người trốn cà phê ồn ào nơi khác nên ghé cái hẻm này.  Phần nhiều họ chỉ rì rào chuyện vãn, nhưng cũng có lúc xen vào một bàn có nhiều đại ca văng đủ thứ!  Vỉa hè sát tường cao nên không ngại nắng, nhưng gặp hôm gió Santa Ana thổi về, dù ngã sập lôi theo ghế bàn, dân cà phê nhớn nhác cùng chủ tiệm dựng dù sắp lại bàn ghế, hai ông cười vui nhìn lá chậy lao xao dồn về một phía rồi cùng la hoảng ướt, ướt…  Cà phê đổ, những giọt nâu sánh văng lấm tấm lên mấy cuốn sách cũ mèm.  Cả ba người loay hoay lấy giấy chậm nhẹ, như âu yếm lau mặt cho em bé.  Cà phê sáng nơi vỉa hè này đã thành điểm hẹn cho ba con ghiền - ghiền sách, đặc biệt sách cũ! 

Sách cũ, có cuốn sách đã được tân trang, nghĩa là được lau chùi sạch sẽ, bọc lại bằng bìa ny lông.  Đó là những cuốn may mắn trong cuộc phong ba.  Có những cuốn rách gáy, mất chữ, bị bôi bẩn vì mực, vì bị lăn lóc lâu ngày nơi vỉa hè hoặc trong gánh ve chai _ những cuốn ấy lấy nhiều công sức của ông Thành hơn.  Ông phải tìm cách phục hồi từng trang, nghĩa là rỡ tanh bành cuốn sách ra, cầm từng tờ giấy vàng sắp mục ấy mà gượng nhẹ lau chùi tẩy vết bẩn, rồi đi tìm những con chữ, đúng hơn là từng mẫu tự sao cho vừa vặn giống như mẫu chữ trong nguyên bản để cắt dán điền vào chỗ trống cho hệt như đã được in ra.  Ông photocopy lại từng trang trên hai mặt giấy, rồi lại hì hụi khâu dán cuốn sách photocopy lại với bìa cũ tuy giữ nguyên nhưng cũng đã được chăm sóc phục hồi.  Đặc biệt, có cuốn sách bìa sau đề tranh bìa của Ngọc Dũng nhưng tranh bìa ấy không còn, ông gò công tìm cho ra một bức in tranh khác cũng của Ngọc Dũng và hoàn toàn matched với màu sắc và trang trí của bìa nguyên bản rồi ghép lại trông hoàn thiện như bìa nguyên thủy!  Ông gói từng cuốn sách đã được tái tạo ấy như món quà bằng những trang tạp chí dầy và tặng bạn, một cho nhà văn quên tác phẩm và một cho cô. 

Mỗi buổi cà phê cô lại được dịp nhìn thấy một cuốn sách thuở cô chưa biết đọc: tạp chí Văn số Xuân 1968, Văn chủ đề Hà Nội, Tuyển truyện với những cái tên như Huỳnh Phan Anh, và Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân.  Cuốn Vang Bóng… cô dở từng trang để cảm nhận cái lòng yêu chữ yêu sách của người xuất bản, những trang sách layout thật mỹ thuật và có nét sáng tạo riêng thuở ấy, đọc cuối trang để biết sinh hoạt in ấn một thời.  Bao nhiêu là công sức tim óc, và nhất là, thấy một bước tiến xa đã bị xóa nhòa.  Đi kèm với mỗi quyển sách là một kỷ niệm nào đó của văn nghệ sĩ: chủ nhà xuất bản Nguyễn đình Vượng đối với anh em chữ nghĩa ra sao, tòa báo hoạt động thế nào, layout trang báo đem in qua những chặng gì, giấy in có những loại nào khổ bao nhiêu, giá tiền…, thời đó ai viết mới, ai chọc trời khuấy nước ai nhiều độc giả ai vắn vỏi đường đời.  Ông còn chỉ cho cô những ghi chú của độc giả: một ngày thật buồn chán, kỷ niệm buổi…, tặng ông…, vân vân.  Đọc những giòng ghi chú hay cảm nhận bất ngờ ấy là cả một sự thích thú cho cả ba người, tưởng như thấy được người dân lúc đó sống ra sao, nghĩ gì.  

Tìm được 1 cuốn sách, ông Thành thường ghi lại nơi trang đầu một vài chữ đánh dấu công việc đi tìm kiếm sưu tập lại những gì đã bị tịch thu, xé, đốt, hủy diệt.  Phần thư, ông dạy cô ý nghĩa chữ ấy, và quả thật, chúng ta đã có một cuộc phần thư như cái thời Tần Thủy Hoàng đốt sách thiên hạ.  Trước nụ cười nhẹ nhàng của ông Thành, những cuốn sách ông sưu tập và phục hồi lại như nặng xuống vì nó mang theo mình di tích xã hội đau thương và nước mắt của những người bị cướp mất cả đứa con lẫn chiếc nôi. 

Cô những tưởng ông yêu sách cũ vì lòng hoài niệm hay vì tính thích sưu tập đồ cổ, nhưng cô phải lắc đầu vì sự mê sách đó đi xa hơn chuyện giữ cho riêng mình.  Khi cô vui miệng nhắc một vài quyển sách xuất bản bên này mà cô muốn có nhưng đã không còn trên thị trường thì buổi cà phê tới ông Thành đã trao tặng.  Ông hân hoan cho biết, tôi mua mấy chục bộ để dành.  Đầu cơ tích trữ?  Đúng một nửa.  Ông biết sách đó quý và sẽ tuyệt bản nên mua, phòng sau này có ai cần thì tặng!!!  Sách in bên này dù rẻ cũng không là rẻ, loại sách dày giá trị càng mắc hơn, mà bỏ tiền ra mua chỉ để dành tặng cho ai cần, tốn thêm tiền cước gửi về Việt Nam cho những em trẻ cần sách nghiên cứu làm luận án v.v…  Dường như ông sướng lắm khi được nói về sách, khi làm lại được một quyển sách, khi tặng được cho người một quyển sách!!! 

Có bữa tò mò cô hỏi ông một câu như thách đố, và cô được nghe ông nói về một tác giả mà ông yêu thích.  Ông đưa nhận xét, suy nghĩ, và còn xúi cô viết về tác giả ấy.  Ông sao lục những bài viết liên quan cho cô dành làm tài liệu, còn hứa sẽ giúp chuyện in ấn.  Mắt ông lấp lánh như đã thấy sẵn cuốn sách sẽ được hoàn tất, tựa con ghiền ngửi được mồi thuốc phiện cháy xèo.  Con ghiền đã thôi viết đốc thêm vào, con ghiền ngớ ngẩn cũng mơ màng hẹn sẽ... 

Thì cứ hẹn mười giờ. 

Lưu Na
10/14/2013

Sunday, October 13, 2013

TẢN MẠN BÊN TÁCH CÀ PHÊ


Hoa thạch thảo 

Nguyễn Xuân Thiệp
 
 
 
                                              Hoa Thạch Thảo. Bruyère. Heather Flower
 
Mới hôm qua đây thôi, bạn Nguyễn Ngọc Hy -cùng học ở Quốc Học ngày xưa và cùng dạy ở trường Nguyễn Đình Chiệu Mỹ Tho những năm cuối 50 và đầu 60- gởi cho một cái file mang chủ đề “Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo”, trong đó ngoài ca khúc Mùa Thu Chết với tiếng hát xúc cảm tuyệt vời của Julie Quang, còn có những đoạn nói về Hoa Thạch Thảo.



                                                                     Sơn cúc

Cảm ơn, rất cảm ơn bạn Nguyễn Ngọc Hy. Phải nói là nội dung cái file rất phong phú, nhưng loài hoa miêu tả không phải là hoa thạch thảo (bruyère) trong bài thơ L’Adieu của Guillame Apollinaire và trong bài Mùa Thu Chết của Phạm Duy. Loài hoa được gọi là Thạch Thảo trong file bài là loài cúc, cúc rừng (sơn cúc) có màu sắc rực rỡ, rất phổ biến ở Việt Nam -nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn trước 1975 có một truyện ngắn được ưa thích tên là Thư Về Đường Sơn Cúc. Còn “hoa thạch thảo” trong thơ Appolinaire là bruyère (tiếng Anh là heather) trở nên rất nổi tiếng từ khi có ca khúc Mùa Thu Chết của Phạm Duy

Vâng. Theo Wikipedia. Bách Khoa Toàn Thư Mở, Mùa Thu Chết là tên một bài hát của Phạm Duy sáng tác năm 1965. Phần lời dựa một phần vào bản dịch tiếng Việt của Bùi Giáng cho bài thơ tiếng Pháp L'Adieu của Guillaume Apollinaire. Bài này rất nổi tiếng trong thập niên 70 tại Sài Gòn, và gắn liền với tên tuổi ca sĩ Julie Quang.

Sau đây xin lần lượt ghi lại cả ba bài -của Appolinaire, Bùi Giáng và Phạm Duy. 
 

L'adieu

J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends.
Guillaume Apollinaire

Lời vĩnh biệt 
 
Ta ngắt đi một cành hoa thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tương phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó...
Bùi Giáng


Mùa Thu Chết 
"Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, đã chết rồi. Em nhớ cho!
Em nhớ cho,
Đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa!
Trên cõi đời này, trên cõi đời này
Từ nay mãi mãi không thấy nhau
Từ nay mãi mãi không thấy nhau...

Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em.
Vẫn chờ em, vẫn chờ em

Vẫn chờ....
Vẫn chờ... đợi em!" 
Phạm Duy

 

Saturday, October 12, 2013

THƠ NGUYỄN XUÂN THIỆP




 
trà hoa. camellia

xin đốm tuyết dưới trời thu hạ
hứng giọt máu từ cườm tay
bình minh
chợt tím một bông trăng tình sử
hương tóc ai. anh thở với cây rừng

một lần chân đã rời xa
anh mơ qua cầu gỗ lim
tìm câu ca dao cổ
bỗng quẹo. gặp camellia
ngỡ hoa trà ngày xưa anh hái
trong máu. và bùn. chiêm bao
 
July 1996


Giấc mơ 

giấc mơ
hoa magnolia nở trắng
thơm trên vai
những căn nhà kín cửa
con đường lát đá. những câu thơ holderlin
bread and wine
bánh mì và rượu
cỗ xe. chở tóc nắng. về xa

giấc mơ
những hàng cọ hát dưới trời
và biển xanh. biển xanh. ôi biển của vòng tay ôm
nụ cười. giàn hoa giấy
những thiếu nữ. mặc quần hở rốn. chạy bộ
đàn hải âu bay trong nắng
và kêu
căn phòng nhỏ. con mắt nhìn
mặt trăng

giấc mơ
giấc mơ
màu nắng
và mùi bánh nướng
ly rượu nào uống chung
không. không có chiều hoen l
chia tay, người không xa người
mãi mãi
như giấc mơ

July 2013
NXT