Monday, October 29, 2018

BỨC TRANH. NGÀY QUA


Nguyễn Thị Khánh Minh

Bên kia sông. Tranh Đinh Cường

BỨC TRANH

Bức tranh tôi thích
Tôi nhìn mỗi ngày
Mầu xanh của khung trời xa xưa ấy
Tràn ra. Mỗi sáng
Thơm gió một thành phố cổ
Anh đã hẹn em. Chúng ta đang gõ những bước chân rất thực. Trên hư ảo mầu tranh

Những ngọn núi nhọn cắt lên
Sắc. Gọn. Nơi bầu xanh mềm mại. Đang trôi qua những đám mây
Chiếc khăn lụa gió
Thổi từ một ngày rất xa
Mầu tranh lung linh xanh lá cây
Mọc non cành ban mai
Vẫy gọi chúng ta, mỗi ngày

Tôi nghe tiếng cọ phết sáng trên nóc giáo đường
Âm thanh tiếng chuông
Trượt dài trong nắng
Tiếng chuông reo
Mầu mắt ngây thơ. Em. Áo dài trắng, đi trên con đường mùa xuân. Chập chùng cánh bướm. Âm vang một bài hát cũ. Em sẽ hát tặng anh
Một ngày nắng. Như tranh

Có những con đường, những mái nhà ngói đỏ
Những vòm lá xanh
Mơ hồ tiếng gió thổi trong tranh cũng là tiếng gió động vườn tôi mỗi sớm
Vườn im dưới vòm hoa
Chiếc ban công nhìn xuống
Căn phòng hướng đông đầy nắng, hơi ấm của người vừa ngồi bên khung cửa mở
Ô cửa sổ thời gian hư ảo. Chờ ai.
Tràn vào hương cao nguyên xưa
Đóa quỳ thao thức nở

Có tiếng mưa đêm
Những hạt mưa thơm lời thầm thì
Rụng màu sứ trắng
Đêm mưa. Như mơ
Tranh lung linh hạt lệ
Ngôi nhà mờ sương

Ngôi nhà hình như. Tôi đã ở
Tràn đồng hoa tím
Có lời thơ ru mỗi đêm
Đưa ánh trăng vào giấc ngủ

Bức tranh thơm ký ức của giấc mơ
Bức tranh hư huyễn một ngày mai…


NGÀY QUA

Bảng pha mầu lấm lem ngày tháng bụi
Tiếng gió ngày xưa thổi ngoài khung tranh
Trời đóng lại. Một đường đêm thăm thẳm

Ánh nhìn lui tàn lụi những hoài mong
Không bước nữa, chân đóng đinh ngày tháng
Rêu trong người mối ẩm rủ nhau xông

Ai ngồi đó vệt màu bạc thếch
Sông thời gian đặc quánh ảnh hình
Vừa ngó xuống đã muôn trùng đá lạnh

Chợt trông lên trần gian thân thiết lắm
Những con chim ngược gió thất thanh
Ra bức tranh còn có gì rung động…

Thả xuống ngày tiếng hót. Chút sinh sôi
(Tháng Ba, mùa Xuân)
NTKM

Sunday, October 28, 2018

THƯ GỞI BẠN XA XÔI. VỀ MIỀN TÂY


Đỗ Hồng Ngọc

Buổi họp mặt bạn bè kỷ niệm Sinh nhật Quán Văn lên 7 (ngày 16.10.2018), đồng thời cũng là Sinh nhật của bán nguyệt san văn học nghệ thuật Ý Thức, ra đời cách đây 47 năm. Số Quán Văn 59 này giới thiệu một khuôn mặt văn học miền Tây là Trịnh Bửu Hoài ở Châu Đốc, vì thế ngày hôm sau, 17.10. 2018 bạn bè đã làm một chuyến Tây du, “về Long Xuyên Châu Đốc…” cùng Trịnh Bửu Hoài, không chỉ thăm bạn bè văn nghệ mà còn thăm vùng đất phương Nam mùa nước nổi xứ của Núi Sam, của rừng tràm Trà Sư, của Bà Chúa Xứ rồi còn ghé qua Cần Thơ, Trà Vinh, Bến Tre…

Không chỉ anh chị em Quán Văn mà còn có cả anh em Ý Thức, chuyến này chỉ có 5 bạn già có mặt, vắng những Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư… Dù sao thì cũng có Nguyên Minh, người chèo đò cho cả hai tờ báo văn nghệ này, có Thân Trọng Minh (Lữ Kiều), Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê), Châu Văn Thuận, Lê Ký Thương, năm anh em của “mùa thu cũ”, của “gió heo may”…


   Từ trái: Châu Văn Thuận, Nguyên Minh, Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê),  
Thân Trọng Minh (Lữ Kiều), Lê Ký Thương (cafe Vườn Hồng, Bến Tre 20.10.2018)

Chuyến đi khá đông, gần 50 người, toàn là những bạn bè và cộng tác viên thân thiết của Quán Văn, từ Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Phan Thiết, Vũng Tàu… và Saigon. Đa số là những người “bạn trẻ”, những cây viết sung sức, rất hòa đồng, dễ thương. Phải nói thêm có “lạc” một người từ phương xa là Nguyễn Minh Nữu, từ Mỹ về, rất vui nhộn, hoạt bát, một MC bất ngờ!

Ghé qua Sadec cho mọi người thăm nhà “Người Tình” Huỳnh Thủy Lê một chút. Mình và mấy người bạn tạt qua thăm Kiến An Cung, ngôi chùa cổ gần đó. Không có nhiều thì giờ nên không ghé thăm chùa Kim Huê và thăm nhà ông Tư Khánh, nhân vật gắn bó với “Bột Bích Chi” nổi tiếng một thời, vừa qua đời.

Qua phà Vàm Cống thì đã vào Long Xuyên. Tưởng kỳ này được đi cầu mới bắc ngang sông Hậu, nhưng nghe nói cầu đang sửa, đành chờ kẹt phà cả tiếng đồng hồ!  Đến Long Xuyên rồi đây. Mới mấy năm mà xa lạ quá. Đường phố rộng rải, sầm uất, nhộn nhịp rồi. Mọi người ăn bún mắm đặc sản. Mình chỉ ăn cơm với cá linh rang mùa nước nổi… và dự định làm một chuyện riêng: thăm ngôi nhà cũ Nguyễn Hiến Lê. Cả đoàn chuẩn bị buổi giao lưu giữa anh chị em Quán Văn và bạn bè văn nghê An Giang Châu Đốc, còn nhóm mình tách riêng một lúc. Không ngờ mới nêu ý kiến đi thăm nhà cũ NHL với TTM, LKT, CVT (nhóm Ý Thức) thì đã được sự đồng tình của Hoàng Kim Oanh (Đại học Saigon); Nguyễn Thị Tịnh Thy (Đại học Sư phạm Huế); Ban Mai (Đại học Quy Nhơn) và cả nhà văn Hiếu Tân (Vũng Tàu), họa sĩ Thanh Hằng, và Pham Thành Hiền (An Giang)…

Trước phòng làm việc của học giả Nguyễn Hiến Lê,
92 Tôn Đức Thắng, Long Xuyên.

Đỗ Hồng Ngọc thắp nén nhang và đặt cuốn sách vừa tái bản “Nguyễn Hiến Lê,
con người và tác phẩm” của một nhóm tác giả gồm Trần văn Chánh, Đỗ Hồng Ngọc,
Lê Anh Dũng, Nguyễn Chấn Hùng… lên bàn thờ ông.

Các bạn dành một phút tưởng niệm NHL.
Các cô giáo Kim Oanh, Tinh Thy, Ban Mai… đều nói từ tuổi thơ đã đọc,
đã học nhiều từ NHL nên hôm nay như được đến thăm người thầy cũ của mình,
với nếp sống giản đơn, thanh thản, để lại đời nhiều bài học đáng quý trọng.

Sau đó nhóm bạn kịp thời về dự buổi giao lưu tại một quán cafe sân vườn rất đẹp
ở Long Xuyên. Cảm động vì các bạn trẻ trong Hội văn học nghệ thuật An Giang nói về
người đàn anh, người thầy đi trước của mình: nhà văn Trịnh Bửu Hoài.
Dịp này nhiều bài thơ, bài hát, vọng cổ đã được trình bày rất hay.
Trong đoàn Quán Văn có Elena, người Ý, vợ nhà văn Trương Văn Dân tiếng Việt
chưa rành mà điệu ca cổ nào cũng thuộc! Đáng khen TVD!

Kim Oanh nói đôi lời về việc vừa ghé thăm nhà cũ NHL.
Phạm Thành Hiền cho biết ở Long Xuyên cũng đã có
con đường mang tên Nguyễn Hiến Lê.
(còn tiếp)
ĐỖ HỒNG NGỌC

Friday, October 26, 2018

TRÊN BALKON


Đỗ Quang Nghĩa


Bông hướng dương của tôi
như một bài haiku
bé xíu.
29.8.2018

ĐQN

HUY PHƯƠNG & GA CUỐI ĐƯỜNG TÀU


nguyễnxuânthiệp


Kính thưa quý vị và các bạn.
        Do cảnh ngộ và chuyển biến lịch sử, tôi với tác giả Huy Phương có mối giao tình kéo dài cũng đã 70 năm, lúc đứt lúc liền. Là bạn với nhau cùng đồng hành, nghĩa là đã đi chung chuyến tàu ở một đôi chặng đường. Và cũng vì là bạn của Huy Phương nên ở đây có xen cái tôi đôi lúc, xin quý vị và các bạn thông cảm cho.
         Cùng là gốc Huế. Huế lờ lững dòng Hương / năm tháng còn vương / lời ai mong chờ…  Học với nhau ở Nguyễn Tri Phương rồi qua Khải Định, khởi từ năm 1950. Không ai rủ ai, cả hai đứa cùng đi vào con đường văn nghệ. Ôi, đông vui lắm. Cùng trang lứa có Thanh Thuyền, Tường Phong, Yên Khanh (Tôn Thất Khái), Tuyền Hiên, Diên Nghị, Thế Viên, Dao Ca, Tạ Ký, Kiêm Đạt… Những tờ báo Huy Phương và kẻ này cùng các bạn vừa kể cộng tác là tờ Đời Mới, Thẩm Mỹ, Nhân Loại ở Sài Gòn. Lứa trên chúng tôi có Hoàng Nguyên, Phạm Mạnh Cương, Đỗ Kim Bảng, Lữ Hồ… Thời gian trôi qua, anh em số lớn đã rơi rụng. Ngày ấy, Huy Phương và tôi học cùng lớp, với các thầy Huyền Anh, Phạm Văn Nhu, Võ Như Nguyện… Sau năm năm, Huy Phương rời trường đi học Quốc Gia Sư Phạm, tôi ở lại tiếp tục. Nhìn về những ngày ở Huế ấy, sao lòng vấn vương xúc động. Tôi nghĩ chắc Huy Phương cũng thế. Hát trôi nổi mà đi / sông nước biệt ly / người xa kinh kỳ… Tình xưa không vỡ bao giờ / hồn xưa còn in trời Huế / chiều hè về trong sương khói mong manh… (Ca khúc Hẹn Một Ngày Về của thầy Lê Hữu Mục)

         Rời Quốc Học, hai đứa cùng trôi giạt vô Sài Gòn, rồi đi dạy học. Huy Phương ở Nguyễn Hoàng Quảng Trị. Tôi ở Lê Ngọc Hân Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho. Rồi lập gia đình. Năm 1963, tôi động viên vào Khóa 16 Trường Bộ Binh Thủ Đức. Và gặp Huy Phương ở đó. Cùng với mấy anh em nhà thơ nhà văn nổi tiếng khác: Mai Trung Tĩnh, Chinh Yên, Ngô Kha… Đang sống êm đềm, bỗng chiến tranh bứt mình ra khỏi tổ ấm. Làm sao không buồn, không nhớ. Nhất là Huy Phương và tôi vừa mới lấy vợ. Một hôm đi ngang qua Đồn Quân Cảnh 301 thấy Huy Phương ở trần ngồi trong đó, nhìn ra cười. Thì ra anh chàng vừa mới trốn trại về thăm vợ nên bị kỷ luật.

          Đời đã từng chung một chuyến tàu. Thời gian trôi qua. Ra trường, hai đứa đều được bổ nhiệm về Nha Chiến Tranh Tâm Lý. Huy Phương phục vụ ở Sài Gòn còn tôi đi lên miền gió núi mưa mùa Pleiku. Lại xa vợ, xa con đầu lòng mới sinh. Hỏi sao không buồn không nhớ. Ở Pleiku chừng 6 tháng, tôi được bạn học bạn thơ là Thiếu Tá Diên Nghị trưởng phòng Tâm Lý Chiến Quân Đoàn II Quân Khu II bốc qua phụ trách chương trình phát thanh Quân Đội ở Đài phát thanh Đà Lạt. Thời gian trong quân ngũ tôi và Huy Phương thỉnh thoảng vẫn gặp nhau ở Phòng Báo Chí Cục Tâm Lý Chiến. Lúc tôi và các bạn mở cơ sở Ấn Loát & Thư Trang Nhân Văn ở Đà Lạt, thiếu vốn điều hành đã kêu gọi Huy Phương đóng góp. Bạn vui vẻ nhận lời, đưa tiền. Sau bán cơ sở, thu được tiền, lại hoàn trả Huy Phương.

           Thế rồi Cộng Sản chiếm Miền Nam. Huy Phương, các bạn và tôi cùng trên những chuyến ra Bắc. Ôi, làm sao quên ba ngày ba đêm “bức xúc”  trên con tàu Sông Hương.  Một bạn trong lúc đeo thang dây lên tàu đã sẩy tay té vỡ sọ chết. Trên tàu, chúng tôi bị nhốt dưới khoang hầm. Thức ăn nước uống đều được thả từ trên boong xuống. Chuyến hải hành cặp bến Hạ Lý, Hải Phòng. Tất cả được lùa vào một cái hangar lớn của Pháp để lại. Tắm thì có vũng trâu đằm nước đục ngàu. Từ Hạ Lý, anh em được đưa lên xe lửa đi Yên Bái. Cả bọn được nhét trên những toa bịt kín. Có người chết vì ngộp thở. Kẻ thù nhốt chúng tôi trong toa súc vật / Trời thu bít tiếng kêu… Tô Tùy Yên có bài thơ Tàu Đêm thuật lại. Huy Phương cũng đã tả trong những trang tạp ghi Ga Cuối Đường Tàu. Từ Yên Bái tù được dồn lên những chiếc molotova, một nửa qua sông Hồng đi Sơn La, một nửa ngược lên phía Thác Bà, Yên Bái. Để dằn mặt đoàn tù, Cộng Sản tố chức dân chúng đứng hai bên đường ném đá khi đoàn xe molotova đi qua. Rồi anh em được đưa xuống thuyền máy qua đập Thác Bà để tới xã Cẩm Nhân. Đi trên Thác Bà còn thấy những rừng cây trầm thủy và nóc nhà thờ với cây thánh giá nổi lên trơ vơ dưới nắng chiều. Những cảnh này đều được Huy Phương ghi tả trong GCĐT. Trại Cẩm Nhân nằm ngay dưới chân núi, cạnh một dòng suối. Trong GCĐT, Huy Phương có tả tiếng chim hót trên ngọn cây buổi sáng. Tôi cũng thường nghe tiếng chim đó. Ở Cẩm Nhân tôi thân với Huy Phương và Tô Thùy Yên. Lâm Chương cũng ở đó nhưng không biết nhau. Huy Phương và tôi còn gặp lại nhau ở trại Phú Sơn, Bắc Thái và cùng trên chuyến molotova tới Ngã Ba Đồng Lộc, Thanh Chương.

Năm 1982, ra tù cùng ngày giáp Tết. Về tới nhà, hôm sau tôi ghé qua nhà Huy Phương thì gặp bạn tươi cười đón. Ở Sài Gòn hai chúng tôi cũng có nhiều kỷ niệm với nhau và Huy Phương đã giúp tôi công việc qua cơn túng thiếu. Một lần nữa tôi xin ghi nhận và cảm ơn bạn hiền. Rồi cùng đi Mỹ, Huy Phương trước, tôi sau.

Sang Mỹ lại gặp nhau. Bây giờ ở ga cuối đường tàu. Nói gì nhỉ, với mai sau? Đây là tác phẩm thứ 14 của Huy Phương, có thể xem là cuối cùng, gồm 80 bài. Theo tác giả, GCĐT gồm những bài tiêu biểu cho lối viết tạp ghi của Huy Phương. Ở đây cần hiểu tạp ghi là gì, xuất xứ từ đâu và tạp ghi của Huy Phương có gì đặc sắc. Thể văn tạp ghi, tạp ký, tạp bút, tùy bút… xuất hiện đã lâu. Chúng ta nhớ lại Vũ Trung Tùy Bút của Phạm Đình Hổ, Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ, những trang ký và tùy bút của Nguyễn Tuân, Hà Nội Băm Sáu Phố Phường của Thạch Lam, Món Ngon Hà Nội và Thương Nhớ Mười Hai của Vũ Bằng, Bè Bạn Xa Gần tạp ghi của Phan Lạc Phúc, Tùy Bút của Võ Phiến, những trang sổ tay của Mai Thảo và Nguyễn Xuân Hoàng, Phiếm của Song Thao, tạp bút của Trà Lũ, Thư Gởi Bạn Ta của Ký mục gia Bùi Bảo Trúc, Trèo Lên Cây Bưởi của Tầm Xuân (Nguyên Nhi). Nhiều lắm, nhớ không hết. Nguyễn Mạnh Trinh cũng viết Tạp Ghi Văn Nghệ. Quỳnh Giao thì có Tạp Ghi Quỳnh Giao. Chữ Tạp Ghi là do Phan Lạc Phúc đặt ra thời của báo Tiền Tuyến. Bây giờ tới Tạp Ghi của Huy Phương. Điều phải khẳng định là Tạp Ghi của Huy Phương khác hẳn với lối viết của những tác giả nói trên. Kể cả Phan Lạc Phúc. Nhiều tác giả danh tiếng đã ca ngợi Huy Phương. Sách của ông được độc giả đón nhận nồng nhiệt, tái bản nhiều lần. Ông viết về những vấn đề thực tế, với cái nhìn tinh tế, cái tâm nhân hậu, không suy tưởng mơ mộng vẩn vở. Ở ông yêu ghét phân minh. Phản ứng của ông trước những vấn đề nhân sinh không mang tính u mặc (humour) mà rất thẳng thắn, đôi khi quyết liệt. Yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét. Trong văn của Huy Phương, qua những bài trong GCĐT và ở những bài khác, ta ít thấy nụ cười. Đây là một điều lạ vì Huy Phương rất yêu Kim Thánh Thán và Lâm Ngữ Đường. Cái nhìn của ông là cái nhìn của nhà giáo. Văn của Huy Phương là văn của nhà giáo: sáng sủa, gọn gang, từ ngữ chính xác. Ông không làm văn chương, không làm người nghệ sĩ ca hát trước cuộc đời. Ông là nhà giáo, nhà mô phạm. Trên tất cả, ở ông, như đã nói, là cái tâm nhân hậu.

Bây giờ xin đi thẳng vào nội dung Ga Cuối Đường Tàu. Nhà văn Nguyên Nhi của chúng ta gọi đó là Trạm Z. Với Nguyễn, vốn dĩ mang “tâm viên ý mã”, nên nghĩ ngay tới Ga Xép của Vũ Khắc Khoan và En Attendant Godot của Samuel Beckett. Trong khi chờ đợi chuyến tàu về nơi vĩnh cửu và chờ Thượng Đế (Godot-God), nhân vật của Vũ và Beckett như Estragon và Valadimir  tung hứng với nhau, nói những lời loạn ngôn và bày trò khỉ cho qua ngày giờ. Sự chờ đợi trong một đời sống vô ý nghĩa, phi lý nhưng vẫn chờ đợi một cái gì đó rất mơ hồ. Ga Cuối Đường Tàu của Huy Phương không thế. Cái gì cũng có hình thù rõ rệt, với những thống kê, dẫn chứng trong một khung cảnh là đời thực của mỗi chúng ta. Ta sẽ trở lại những nội dung này ở phần sau.
Như đã nói ở trên, GCĐT gồm 80 bài đúng với số tuổi của tác giả. Trong số có hơn 10 bài trực tiếp nói đến nỗi buồn và những ưu tư khi sắp giã từ cõi nhân sinh. Có thể kể ra đây: *Viết cho ngày lên tám… mươi: Tác giả bàn về tuổi thọ qua dẫn chứng một số nhân vật như Khổng Khâu, Bạch Cư Dị, Đỗ Phủ, Phan Khôi… đặc biệt với quan niệm bất hủ của Khổng Tử “Tới tuổi bảy mươi muốn làm gì thì làm!” Trong bài, Huy Phương nhấn mạnh tới nỗi niềm của tuổi già: bệnh tật, đói lạnh và nhất là cô đơn. Rồi tới *Bữa ăn một mình *Buổi tối một mình *Cái chết nghĩ cho cùng… *Những đêm mất ngủ *Nỗi buồn cuối năm Nỗi buồn cuối đời *Con cái bỏ quên cha mẹ trong nursing home *Buổi điểm danh cuối cùng… Buồn bã quá!
Nhìn chung, GCĐT của Huy Phương, như đã nói, ta gặp những thực tại của đời sống này. Nó gần gũi với mọi người, là của mọi người. Do đó, Huy Phương được rất nhiều độc giả yêu thích.

Ở trên chúng ta đã nói tới những thực tại u buồn của tuổi già trong tác phẩm Huy Phương. Bây giờ là hình ảnh của dân tộc, quê hương đất nước, đồng bào đồng đội. Nghe lại bản quốc ca mà trào nước mắt. Trở về Huế không còn thấy sen Hồ Tịnh mà thấy cảnh trải chiếu trên cầu Trường Tiền với các vũ nữ múa hát và đèn hoa. Ôi những chiếc áo mang chữ festival và nỗi sượng sùng trong tô bún bò. Đừng quên vẻ cao sang của nhà cán bộ, đại gia, đền liệt sĩ... Nhìn về đất nước, Huy Phương có nói đến hội hè và dân trí -một đất nước ăn xin. Việt Nam theo thống kê mỗi năm có tới gần 8,000 lễ hội, người dân tha hồ nô nức dự. Còn dân trí thì u mê, chạy theo tiền của. Một đất nước ăn xin, một đất nước say xỉn. Đây không còn là một nơi để về nữa vì ta sẽ gặp nhiều thất vọng, đớn đau.

Huy Phương cũng là người nặng lòng với bạn bè, chiến hữu, bạn tù. Cảm động siết bao khi đọc những lời tưởng niệm của Huy Phương viết cho bạn văn Bùi Bảo Trúc. Hay lời thuật lại khi đi thăm nhà thơ Nguyễn Chí Thiện trong những ngày cuối đời. Tôi được biết Huy Phương đã tới thăm và săn sóc Trần Đông Phong, Huy Trâm và nhiều văn hữu khác. Huy Phương rất thương những người bạn cũ, nhất là những đứa bạn mày tao thời thơ ấu. Trường đồ nhật mộ -đường xa chiều xuống, hạnh phúc biết bao khi gặp lại những người bạn ấy. Là người có trước có sau, Huy Phương rất xót thương các đồng đội không may của mình -những thương phế binh còn nằm lại trong lòng đất nước. Tôi rất yêu bài Thiên Đàng và Địa Ngục trong GCĐT với mẩu chuyện của Pablo Coelho. Ở đây, Huy Phương thống trách những cấp chỉ huy tháo chạy để giữ lấy than, ôm theo tài sản vào nơi đất hứa, chẳng khác nào chủ chăn “quay đầu chạy, bỏ đàn chiên lại cho lũ sói rừng!”

Ngoài những ý tình như vừa kể, Huy Phương còn xót thương những di dân đã mất xác trên đường oan nghiệt. Như em bé Aylan 3 tuổi từ xứ Syria chết xác trôi giạt nằm trên một bãi biển. Không cần phân biệt “tị nạn chính trị” hay vì kinh tế, Huy Phương mở rộng lòng ra với tất cả di dân bỏ nước ra đi. Và ta cũng thấy ở Huy Phương tấm lòng đối với nước Mỹ. Không phải là Nước Mỹ lạnh lùng nữa mà là nước Mỹ bao dung đã mở rộng vòng tay đón nhận những kẻ sa cơ lênh đênh bèo giạt. Nước Mỹ đối xử nhân ái trong tình cảm bao dung đối với những người thua trận khi kết thúc Nội Chiến. Cả một nước Mỹ với những người homeless. Ở đây ta sẽ thấy Huy Phương bất bình với thái độ vô cảm của người Việt tị nạn, thờ ơ trước những kêu gọi đóng góp cho phúc lợi của những người nghèo khổ trên đất Mỹ. Rõ ràng chúng ta đã là những “người khách trọ vô tình” trên xứ sở này. Vô tình và vô ơn. Riêng Huy Phương, trong bài Giả Ơn Cái Cối Cái Chày và rải rác trong những bài khác, đã thay chúng ta bày tỏ lòng biết ơn - trước hết là cha mẹ, vợ hiền, cô giáo, cả đến những học trò quê, những con đường làng v.v…

Ôi, còn nhiều lắm những nỗi niềm ẩn chứa trong GCĐT. Có thể khi đọc những những trăn trở, xúc động và phản ứng của Huy Phương trước một đôi cảnh đời ngang trái, chúng ta cảm thấy hơi bị dội. Nhưng OK, chuyện nhỏ, xin hãy nhìn trên tổng thể những điều rất quý, đầy tình người, và tình dân tộc. Nhiều lắm, Nguyễn tôi không thể nào nhìn đủ và nói hết. Xin quý vị và các bạn cầm lấy cuốn Ga Cuối Đường Tàu, đem về nghiền ngẫm và tự mình tìm ra những điều quý báu, tốt đẹp Huy Phương đã có lòng gởi đến chúng ta. Của tin gọi một chút này làm ghi… Cám ơn Huy Phương.
NXT