Monday, September 30, 2019

KỶ NIỆM VỚI TÔ THÙY YÊN


Hồ Đình Nghiêm

 Hồ Đình Nghiêm & Tô Thùy Yên

Kỷ niệm xưa cùng thi sĩ Tô Thuỳ Yên ở phòng trưng bày tranh của hoạ sĩ Đinh Cường tại Virginia mà tháng năm đã hao mòn theo trí nhớ. 1991? Phía sau là chân dung Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên, Mai Thảo.

"... Lúc tàn khuya
Nhà hương hoả tối mốc.
Còn ai không, có gọi chỉ thêm buồn.
Thôi, chẳng tiếc túi vàng đã phung phá
Mà mừng mẩu nến chợt tìm ra."

Hoạ sĩ Đinh Cường (1939- 2016)
Thi sĩ Tô Thuỳ Yên (1938- 2019)
Còn lại mình, một "mẩu nến" dần lụn tàn tim bấc, thoi thóp sáng ở phương này lạnh giá.
HĐN
(Facebook Hồ Đình Nghiêm)

Sunday, September 29, 2019

PHÚT MONG MANH GIỮA NHỮNG TỪ


Nguyễn Thị Khánh Minh

Poetry paintings. Source: Internet

1.
Như thể mỗi ngày
Một trò chơi

Tôi rơi. Đơn độc. Hạnh phúc
Nơi bài thơ tôi viết. Nơi bài thơ tôi đọc
Tôi giấu mình. Vui sướng
Trong lẻ loi tiếng khóc
Trong mơ mộng tự do
Vạt nắng nhảy nhót sau ô cửa kính
Háo hức bùng vỡ

Tôi đi
Trên một lối đi nhỏ dành cho người đi bộ
Nơi tôi có thể vu vơ với con bướm trắng bên đường
Nói những điều mà cọng cỏ và côn trùng có thể nghe
Gió có thể từ đó mà thổi
Mây sẽ vì vậy mà rơi
Ngoài ra
Nơi, không muốn cô đơn. Tôi phải im lặng

Cho dù. Niềm tin tôi vẫn ngợi ca
Có làm tôi vấp ngã
Cho dù. Bài thơ không còn là tấm lòng che chở
Cho dù dự báo của vết thương
Cho tôi biết cuối con đường cũng không phải là nơi đến
Tôi vẫn đi. Với bước chân
Nghe ngóng. Đợi chờ
Như thể mỗi ngày
Tôi là người khách lạ
Đứng e dè trước một cánh cửa. Hồi hộp gõ

Tôi nhất định đi
Vì tôi biết
Niềm vui còn chờ để đặt tên
Nỗi buồn còn mong để trao gửi
Bóng tối ơi
Tôi không quay về nữa đâu
Nơi đã phó mặc tôi cho nước mắt
Làm sao tôi có thể lại bước lên
Sắc cạnh ánh nhìn của đá
Cái thản nhiên của mộng dữ
Sẵn sàng làm thương tổn giấc mơ tôi gìn giữ
Tôi nhất định đi
Cánh cửa ấy lúc nào cũng chờ
Cho tôi đi tới. Cho tôi về nương tựa
– Cánh cửa trái tim tôi –
(2002)

2.
Khó mà thoát khỏi sự cám dỗ
Tôi mải miết
Điều gì khi tôi đặt dấu chấm hết một bài thơ?

Sau một vụ mùa
Tôi chỉ đem về nhà được đôi ba hạt lúa chín
Chút mầu vàng của nó lấp lánh trên tay
Làm tôi đã vô cùng sung sướng
Tôi đã tắm đã hưởng
Tất cả những ngọt ngào mát mẻ của con sông
Và dẫu tôi không mang về một hạt nước nào của nó
Nhưng làn da tôi thì mãi còn dư âm cái trườn mình của
dòng chảy

Bài thơ hoàn tất. Là một điểm hẹn quyến rũ
Nhưng phút mong manh giữa những từ
Lại là lúc đóa hoa đang nở. Đang tỏa hương
Tôi có gì đâu phải vội
(2011)

3..
Khi viết xong bài thơ
Đôi khi. Tôi khóc
Có phải vì lời đã nói về hạt nước mắt chưa rơi
Bị giam giữ
Trong lòng đêm ma mị

Lạc giữa bài thơ
Tẽn tò. Như vừa bị phỗng tay trên. Những chữ
Mộng giữa bài thơ
Nghe mình lam nham nói mớ
Thức giấc cùng bài thơ
Tôi và chữ giật mình
Bóng bay bay. Cao cao. Rồi vỡ

Khi viết xong bài thơ
Tôi thường hay xóa
Dường như tôi sợ bóng tôi
Giãy chết giữa những con chữ đói
Bầy ý nghĩ tử thi
Làm tôi buồn như vừa đưa ai về huyệt mộ

Khi chấm hết bài thơ
Tôi hụt hẫng. Như chưa thể xong lời
(Viết thêm từ một bài thơ cũ 2002)

4.
Những con chữ khi được nối vào nhau
Trong âm sắc tình tự
Chúng làm ta bay bổng
Chúng làm ta ngủ
Chúng làm ta mềm như một điệu uốn cong

Những con chữ khi được nối vào nhau
Tự do. Mạnh mẽ. Thách thức
Như hạt cát vướng trong giày
Như hạt bụi xốn mắt
Như viên đá cắt xuống mặt hồ phẳng lặng
Như miểng vỡ
Mà khi cầm lên ta phải sợ. Cạnh sắc

Người ta đập trên ngôn ngữ
Âm thanh của tiếng búa
Giống như âm thanh
Người ta phá ngôi nhà
Người ta đóng quan tài
Cũng chừng ấy nhát búa
Trên nhịp điệu thẳm sâu của những lời tình tự
Không biết bằng âm thanh nào
Người ta dẫn tôi vào giấc mơ. Của chữ
(2002)

5.
Ánh sáng mềm mại
Ánh sáng móng vuốt
Mê hoặc tôi mỗi ngày
Thành những điều có thể. Trên chữ.
Xin hãy đọc tôi. Tùy theo mỗi phút giây

Đừng tô tôi. Mầu trắng
Ảo sắc của ngây thơ
Vẽ tôi mỗi ngày. Rất quen
Lỡ một ngày tôi khác đi
Với bức tranh thường thấy
Hoặc cho rằng tôi hay nói thế này
Cách của tôi là như vậy
Đến nỗi tôi sợ
Sự thủy chung cũ kỹ của lời
Có thể trong niềm vui không nhận ra mình
Tôi nhảy ra ngoài khung tranh đẹp đẽ
Thấy thế giới vô cùng khác lạ
Và bắt đầu những cuộc phiêu lưu
Xóa tôi đi dưới những cái nhìn quen thuộc
(2002)

NTKM

NGHĨ VẨN VƠ CUỐI ĐỜI. BÀI II. QUÊ NGOẠI CỦA CÁC CON TÔI


Khuất Đẩu

Bãi Dốc Lết. Ninh Hòa

Tôi không đủ đức tính ngang tàng và bạo mồm bạo miệng như nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn, để có
thể tặng vợ bốn câu thơ trời ơi đất hỡi như thế này:
Ta vốn ghét đàn bà như ghét cứt
Nhưng vì sao ta lại yêu em?
Ôi mắt em nhìn như là bẫy chuột
Ta quàng xiên nên đã sa chân.

Tôi cũng sa chân nơi quê ngoại của các con tôi, nhưng không phải vì mắt em nhìn như là bẫy
chuột, mà vì nơi đây có những hàng cau rất giống với quê nhà và vì lỡ kẹt không chịu trình diện
quân dịch nên không thể rút chân đi đâu được.

Ở quê tôi không hiểu cái nước uống nó thế nào mà khi nói ai cũng ngửa cổ lên như khướu hót,
cứ “dẩy na? dẩy na?”. Còn ở đây thì cổ như mắc nghẹn giống nhái kêu, các từ chứa âm a đều
biến thành e, rằng đừng có nói léo, hãy đưa teo tờ béo!

Tuy nhiên ngẫu nhĩ trùng phùng cũng có được cái may, miền đất này rất thái hòa nên được gọi là Ninh Hòa, Khánh Hòa. Nhà thơ Quách Tấn còn gọi một cách rất thơm tho là xứ trầm hương.
Đúng là rừng núi ở xứ này từng có một thời lừng danh vì có rất nhiều trầm kỳ.
Có một loại cây tên cây dó chỉ mọc ở rừng sâu, khi bị gió bão làm cho cành cội tơi bời, liền tiết ra một chất nhựa quý có vị cay cay đăng đắng, chữa bệnh hay một cách thần kỳ, nhất là đau bụng gió, nên được gọi là kỳ nam. Ngoài kỳ, còn có trầm, tuy không chữa được bệnh, nhưng đốt rất thơm. Cụ Nguyễn Du viết “đốt lò hương ấy so tơ phím này”, là đốt trầm.

Xưa, các cụ thường xông trầm khi đọc sách, thưởng trăng. Trung thu còn có thêm hương hoa cúc và hương mạch nha, lễ mễ công phu như trong Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân.

Những người đi tìm hương liệu cực kỳ quý hiếm ấy trong rừng sâu gọi là đi điệu. Điệu là phải mang tất cả đồ đoàng trên lưng như các bà mẹ Ra đê địu con, chứ không phải ăn chơi sành điệu. Họ là những người nghèo thường đi từng nhóm từ 3 đến 5 người, lặn lội trong rừng sâu núi cao cả tháng mới về.
Không phải người nào cũng trúng, tức là được ông bà thương cho gặp cây dó có kỳ. Thường là chỉ mót được chút ít của những người gặp may để sót lại. Có người đi cả đời vẫn chưa một lần gặp được. Rồi thương tật, rồi bệnh chống nước từ núi rừng mang về, kiếm được bao nhiêu trầm đều phải đổ ra mua thuốc, nghèo lại hoàn nghèo. “Ăn của rừng, rưng rưng nước mắt” là vì vậy
Xưa nhiều người đi lạc, đồn rằng để sống sót trong rừng phải ăn thịt sống, nên hóa thành …cọp!
Tiếng đồn “cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận” biết đâu là từ những câu chuyện huyền hoặc như thế.
Có thể nói, đi tìm trầm không khác gì đi tìm cái chết, vì phải đối mặt với biết bao gian khổ, chết chóc. Ngoài việc tin vào “ông bà”, tin vào ở hiền gặp lành, còn phải tin vào bùa ngải, nên mới có thành ngữ ngậm ngải tìm trầm.

Nhưng đó là chuyện trước đây, giờ ít ai chịu khổ làm nghề đi điệu nữa. Một phần vì bao nhiêu cây dó, có kỳ hay không cũng bị chặt phá, đào cả gốc rễ, nên đi cả năm cũng chưa chắc “trúng”.
Và phần lớn vì các tay đầu nậu vừa ăn trên đầu trên cổ họ, vừa ăn gian nói dối với người mua, đem chút ít kỳ thiệt đun ra nước rồi ngâm với gốc cây duối giả làm kỳ, hay nhét đinh nhét chì vào cho nặng cân. Các tay buôn kỳ từ Hồng Kông, Ả rập vì thế đều no no chạy dài.

Khánh Hòa chẳng những có rừng sâu mà còn có núi cao. Trên đỉnh nam Trường Sơn thường lẫn trong mây mờ, có hai tảng đá khổng lồ, nhìn xa trông giống như hai mẹ con đang đứng nhìn ra biển nên được gọi là đá Vọng Phu. Nhạc sĩ Lê Thương trong một lần đi ngang qua Khánh Hòa, trông thấy bà, đã đem xúc cảm từ Chinh phụ ngâm mà sáng tác nên trường ca Hòn Vọng Phu bất hủ.
Trong số các con tôi có một đứa bảo với mẹ rằng, mỗi lần về quê nhìn thấy núi Vọng Phu con đều muốn khóc. Tiếc rằng cu cậu không có chút năng khiếu nào về âm nhạc và thơ thì bảo rằng làm cho lắm cũng chỉ nổi tiếng được vài câu mà thôi.

Nơi đây còn nổi tiếng với tháp Bà linh hiển ở Nha Trang. Tháp nằm bên bờ sông Cái, ngó xuống cầu xóm Bóng và nhìn ra biển Đông sóng vỗ. Xưa, dân Chiêm rất giỏi nghề đi biển, sau khi vượt trùng khơi trở về, từ xa nhìn thấy ngọn tháp, là biết đã về đến quê hương.
Cũng giống như ở Bình Định, tháp là của người Hời. Khi chúa Nguyễn vượt qua ranh giới tại núi Đá Bia do Lê Thánh Tôn áp đặt, để dần dần chiếm trọn đất nước Chiêm, thì tháp Bà biến thành tháp của người Việt, thờ mẫu đọc theo giọng Việt là Thiên Y A Na.
Khi tôn tạo, để ra vẻ Hời, người ta xây thêm một cổng chào khum khum bằng gạch mộc, chẳng ra Hồi mà cũng chẳng phải Phật, trông rất nhếch nhác dị hợm.
Tượng của Po Anagar bằng trầm hương bị Pháp lấy mất đầu được thay bằng xi măng sơn phết lòe loẹt, mặc áo đội mũ như đồng bóng ngồi giữa khói hương mù mịt cho khách thập phương, phần lớn là vợ các quan to đương chức, xì xụp bái lạy xin giữ được ghế càng lâu càng tốt. Bên ngoài, một đám gái nõn nường phấn son diêm dúa giả Chiêm nữ uốn éo múa may, trong tiếng trống mẹ trống con lum tum lắc cắc và phèn la não bạt tùng xèng…

Bảo rằng đấy là văn hóa truyền thống ngàn xưa, thì truyền thống ba rọi này đâu phải của người Chiêm!
Những dân Hời sống sót sau cuộc bại trận ở Đồ Bàn, chạy dạt vào miền đất sau núi Đá Bia ở Phú Yên, một lần nữa lại bị các đời chúa Nguyễn và nhất là vua Minh Mạng tận diệt, ai nộp được nhiều đầu lâu là được thăng cấp, nên có từ thủ cấp nghe rất rùng rợn. Giờ, chỉ còn co cụm một dúm tại các vùng đất đai khô cằn ở Phan Rang, sống còm cõi với những con dê và cừu ốm đói, không tìm ra cỏ phải ăn cả gai bàn chải. Thử hỏi có ai trong số họ đủ tiền và đủ quyền để được bước vào ngôi tháp của tổ tiên?
Càng nghĩ tôi càng thấy, những kẻ cầm quyền hiện giờ còn ác hơn cả vua chúa ngày xưa. Họ trâng tráo đến nỗi coi việc cướp đất như chuyện đã rồi, không cướp không được, và giả dối gọi dân tộc Hời là dân tộc anh em, như cách nhà họ Tập gọi Việt Nam là nước anh em. Thà gọi đích danh là dân tộc ít người còn dễ nghe hơn.
Vậy nên, nào có mong chi một lời xin lỗi!

Nhiều người bảo, đất Khánh Hòa như một nước Việt Nam thu nhỏ. Rất giàu và đẹp. Có rừng nhiều gỗ quý, có biển nhiều cá tôm, có ruộng lúa mênh mang, mà người dân lại hiền hòa. Dưới con mắt các nhà quân sự, còn có cảng Cam Ranh vừa sâu, vừa kín gió, mà Nga Mỹ và cả Trung Nhật đều thòm thèm. Về kinh tế, vịnh Văn Phong là nơi rất béo bở để xây dựng khu chế xuất, cho thuê đất lấy vàng.
Nếu không có cuộc xuống đường gần như cả nước ngày mồng 10 tháng sáu năm ngoái, thì mấy trăm vị dân biểu đã bấm nút ô kê rồi và nhiều tay cò đất đã trở thành đại tỷ phú!
Bãi biển Nha Trang và Dốc Lết, cát trắng và mịn, đi bên nhau dưới bóng dừa thật nên thơ. Giờ thì từng đoàn xe to kềnh và dài ngoằng từ Trung Quốc chạy sang, đổ xuống bãi biển hàng ngàn kẻ giàu mà chưa sang, có 6000 năm văn hiến nhưng thiếu văn hóa, quần cộc bụng mỡ nị nị ngộ ngộ ồn ào như cả một bầy chim cánh cụt.
Ai cũng kêu trời, chỉ có một nữ văn nhân xa xứ đến hơn 50 năm, về nước khen Việt Nam mình rất khôn ngoan biết cách moi tiền từ túi anh nhà giàu. Rằng, các em từ đây không phải xuống ruộng bị đỉa cắn, rằng ngày làm hai job trong nhà hàng máy lạnh mát mẻ, rằng Hoàng Sa, Trường Sa, giờ thêm bãi Tư Chính có bị lấy mất cũng được thôi, vì miếng ngon nằm phơi ra như thế ai mà chẳng thèm.
Còn có kẻ, chắc như đinh đóng cột là dư luận viên, thì tin những gì nị nói chứ không tin những gì nị làm, bảo rằng chỗ nào có Quảng là của ngộ lớ. Đã có Quảng Đông, Quảng Tây, thì Quảng Yên, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi không của nị thì là của ai. Cũng như Vũng Tàu thì đứt đuôi con nòng nọc là của Tàu rồi!
Khom lưng quỳ gối hít đàn anh như thế, thì thôi rồi, con cháu tôi chắc sẽ thành dân Hời. Và khi đó, đúng là anh em vì cả hai cùng bị mất nước!
KHUẤT ĐẨU