Monday, February 28, 2022

CHANSON DE LARA. KHÚC H.

Chanson de Lara.
Tranh Đinh Cường. Collection Tùng Duyên
Khúc h
 
Ngọn nến cháy trên bàn
một ngọn nến cháy
trong đêm tuyết đầy trời
em đâu rồi. lara
còn đây khúc hát
và bầu trời thuở xưa
khi tóc còn xanh
trong ngôi nhà. số 3 đường nguyễn trường tộ
ngọn thông. và mặt trăng. đong đưa. đong đưa. trên mái ngói
ôi. đôi mắt
và bạn bè. không bao giờ gặp lại
NXT
 


KẺ SĨ TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM

Trương Vũ
 
Nhà văn / họa sĩ Trương Vũ
 
Khi nhận lời viết bài cho tạp chí “Kẻ Sĩ”, tôi có vài lúng túng. Tôi, người viết, phải là một kẻ sĩ? Hay, giới độc giả đa số là những kẻ sĩ, nói khác đi, thuộc tầng lớp sĩ phu? Giống như, với một tạp chí khoa học, người viết hay người đọc phần đông thuộc giới khoa học, hay ít ra, cũng ham thích các bộ môn khoa học. Mặt khác, về danh từ “kẻ sĩ”, tôi được đọc hay nghe nhiều khi còn ở trường học, hay khi đọc các sách văn, thơ, sử ký cũ. Trong đời sống hằng ngày, hiện nay, danh từ này rất ít được dùng đến. Và, nếu được dùng đến, để chỉ những ai, những người như thế nào trong xã hội chúng ta, trong nước hay trong các cộng đồng ở hải ngoại? Và, tại sao, từ xưa đến nay, không có một vị nữ lưu nào được gọi là kẻ sĩ? Chữ “kẻ sĩ” chỉ được dùng cho đàn ông? Bài viết này khởi đi từ những lúng túng như vậy.
 
Hãy thử có một cái nhìn tổng quát về vai trò của tầng lớp sĩ phu Việt Nam qua những giai đoạn quan trọng của lịch sử từ cuối thời Trịnh Nguyễn Phân Tranh đến thời hiện đại. Trong thời thịnh của Hán Nho, tầng lớp sĩ phu hay kẻ sĩ là một tầng lớp được kính trọng trong xã hội. Kẻ sĩ là một mẫu người lý tưởng. Trong một bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Công Trứ, ông khẳng định vị trí hàng đầu của Kẻ Sĩ trong câu “Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên”, theo quan niệm xếp hạng “sĩ nông công thương” ngày xưa.  Nói chung, qua cách hiểu thông thường, đây là thành phần có học, mê đọc sách, và hiểu đạo thánh hiền. Theo như một câu nói khá thịnh hành ở Việt Nam của Hoàng Đình Kiên, một họa/thi gia nổi tiếng thời Bắc Tống, “Sĩ phu ba ngày không xem sách soi gương mặt mũi đáng ghét, ăn nói nhạt nhẽo khó ưa” (Sĩ đại phu tam nhật bất độc thư, đối kính giác diện mục khả tăng, hướng nhân diệc ngữ ngôn vô vị).
 
Trong xã hội cũ, tầng lớp sĩ phu hầu như đồng nghĩa với tầng lớp nho sĩ. Đọc sách vở về những thế kỷ sau cùng, có cảm giác như mục đích chính của đa số trong tầng lớp này là đậu đạt và làm quan. Dù luôn là một tầng lớp được kính trọng và ưu đãi, tầng lớp sĩ phu thường tỏ ra bất lực trước những đổi thay của thời cuộc hay những biến động lớn trong xã hội. Còn giới quan lại thì ngày càng trở nên tham ô và bất tài. Đọc Hoàng Lê Nhất Thống Chí, chúng ta hình dung được khá rõ cách ứng xử nặng về chữ nghĩa, giỏi tránh né của giới sĩ phu Bắc Hà, trong những tranh giành quyền lực đẫm máu trong phủ chúa, trong các biến động gây ra bởi loạn kiêu binh, hay cách họ chạy theo hay chống đối vua Lê, chúa Trịnh, hay sự tiến quân của Nguyễn Huệ ra Bắc. Khi người Pháp đánh chiếm Việt Nam, có một số sĩ phu yêu nước đứng ra lãnh đạo và phát động cuộc chiến bảo vệ tổ quốc, như Phan Đình Phùng, Đề Thám, v.v… Tuy nhiên, dù được đông đảo thành phần nông dân ủng hộ, họ thất bại, vì đa số sĩ phu thụ động. Trong xã hội Việt Nam thời Hán Nho, tiếng nói và hành động của sĩ phu thường có ảnh hưởng rất lớn. Nhưng, với đa số thụ động này, hành động được ngưỡng mộ chỉ là sự thanh liêm khi làm quan, từ quan khi bất mãn với thời cuộc, với thế sự, rồi về ở ẩn hay vui thú điền viên. Trong lúc đất nước lâm nguy, nhiều người đang hoặc từng giữ những chức vụ quan trọng vẫn tiếp tục làm thơ ca ngợi chữ “nhàn” hay ca ngợi đời sống rời xa thế tục. Chúng ta hiểu được sự thất bại của một nền giáo dục nặng từ chương đã lỗi thời, hiểu được hoàn cảnh của đất nước vào lúc đó, hiểu được sự thối nát của chế độ phong kiến đương thời nhưng rất khó hiểu về tinh thần sĩ phu của một dân tộc có một lịch sử lâu dài về văn hiến. Vì, lòng yêu nước và khả năng ứng xử của một kẻ sĩ không phụ thuộc vào lòng yêu nước, khả năng ứng xử của một ông vua hay những ông đại thần hèn nhát. Chỉ cần 11 tên lính Pháp với những khẩu súng trường rất thô sơ vẫn hạ được thành Ninh Bình.
 
Sau khi người Pháp chiếm Đông Dương, lớp nho sĩ tan rã dần. Xã hội Việt Nam bắt đầu xuất hiện một thành phần mới thay thế lớp nho sĩ cũ. Thành phần mới này tiếp thu một nền giáo dục từ các trường học tổ chức theo chương trình Pháp. Danh từ trí thức bắt đầu xuất hiện. Sự đóng góp của họ cho xã hội khá phức tạp, có tiêu cực có tích cực, nhưng khó để đánh giá một cách đơn giản. Tuy nhiên, nói chung, về mặt tích cực, cách biểu lộ tình yêu nước và những đóng góp cho xã hội, cho quê hương vượt trội hơn lớp nho sĩ cũ. Họ có kiến thức rộng hơn, năng động hơn, thực tiễn hơn, nhìn xa hơn, và nhiệt huyết hơn. Trong thời nho mạt này, ngoài thành phần trí thức mới, một số nho sĩ cũ biết nhìn về một thế giới rộng lớn hơn, thấy được cái hay của người, kể cả của kẻ thù, và cái dở của mình. Không được đào tạo như lớp trí thức mới nhưng bằng khả năng và tầm nhìn lớn, họ tiếp thu cái hay của tinh thần trí thức Tây phương. Họ lập nên Đông Kinh Nghĩa Thục, phát động phong trào khai dân trí, phong trào Đông Du, v.v...  Những phong trào này nhận được sự hỗ trợ nồng nhiệt từ thế hệ trẻ hơn. Trong giai đoạn lịch sử này, người dân Việt cũng đồng thời chứng kiến nhiều vận động từ giới trí thức về cải cách xã hội, chính trị, văn hóa, qua báo chí và sách vở. Lòng yêu nước và khát vọng độc lập, khát vọng tiên tiến khơi dậy mạnh mẽ. Nhiều phong trào yêu nước liên tiếp được phát động, từ cuộc khởi nghĩa Yên Bái cho đến cuộc chiến tranh giành đôc lập về sau. Có thành công, có thất bại, nhưng chính nhờ vào sự dấn thân tích cực của đa số trí thức, thời cuộc thay đổi.
 
Trong cuộc chiến tranh Việt Pháp 1945-1954, tầng lớp này tham dự vào hai phe khác nhau. Lúc đó, sự chống đối giữa những trí thức không thuộc đảng phái nào chưa quyết liệt lắm. Tùy hoàn cảnh chính trị và địa dư, họ có thể cầm súng bắn nhau ngoài mặt trận, nhưng trên những diễn đàn trí thức, qua những ứng xử giữa con người với con người, họ không quá tàn ác với nhau. Khi đất nước chia đôi vào 1954, họ chấp nhận chia tay trong ôn hòa để đi về hai bên giới tuyến đối nghịch. Tuy nhiên, sau đó, mọi cách ứng xử hoàn toàn thay đổi.
 
Ở miền Bắc, sau 1954, sau vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, sau cuộc Cải Cách Ruộng Đất và những thanh trừng chính trị đẫm máu theo mẫu Stalin và Mao, tầng lớp trí thức hầu như không còn nữa. Thành phần nồng cốt của xã hội miền Bắc là thành phần cán bộ. Một trí thức cũ có thể trở thành cán bộ, nhưng đã là cán bộ, nhất là cán bộ trong một chế độ như chế độ Cộng Sản thì không còn là trí thức vì không thể duy trì được tư duy và nhân cách độc lập. Nhiều trí thức nổi danh trong thời Pháp thuộc không tiếp tục ứng xử độc lập như trước, để có những đóng góp cho xã hội, cho nhân loại như trước. Bài học họ để lại cho đời chỉ còn là những kinh nghiệm về chịu đựng và khả năng tồn tại. Nhiều khuôn mặt lớn trong Nhân Văn Giai Phẩm, chẳng hạn, cũng thế.
 
Ở miền Nam, sau 1954, ảnh hưởng của tầng lớp trí thức trong lãnh vực chính trị không nhiều. Không so được với thành phần chỉ huy quân đội và cán bộ một số đảng phái. Tuy nhiên, trong xã hội, họ vẫn còn là một tầng lớp tương đối được kính trọng, giúp giảm thiếu phần nào sức mạnh của các khuynh hướng độc tài và lệ thuộc. Ho giữ được khá tốt sự độc lập của trường học, đặc biệt, tính tự trị của đại học. Họ không để chính trị ảnh hưởng đến chương trình giảng dạy, và có nhiều đóng góp vào sự phát triển cho xã hội trong giáo dục và văn hóa. Trong điều kiện của cuộc chiến, ảnh hưởng này vẫn không đủ sức lấn áp để ngăn chận sự sụp đổ của miền Nam.
 
Kể từ 1975, xã hội Việt Nam hoàn toàn thay đổi, sau khi thống nhất, sau cách kết thúc đẫm máu, và sau những trả thù tàn bạo, những vượt biển thảm khốc. Một bộ phận người Việt khá đông rời quê hương, di tản đến nhiều quốc gia khác nhau. Ngày nay, ở hải ngoại, lớp trí thức cũ không còn bao nhiêu, lớp mới dần hội nhập vào giới trí thức Tây phương. Trong nước, số trường trung, tiểu học, và đại học nhiều hơn. Rất nhiều, so với trước 1975. Đào tạo về chuyên môn khá tốt. Tuy nhiên, đại học chưa được tự trị và có xu hướng đào tạo chuyên gia hay cán bộ hơn đào tạo trí thức. Mỗi năm, thành phần ưu tú tốt nghiệp trung học, có điểm số cao nhất, được tuyển chọn vào khối trường công an như học viện Chính trị Công an nhân dân, Học viện An ninh nhân dân, v.v... Điểm số dành cho các trường đại học Bách khoa, Kinh tế, Khoa học,… thấp hơn, thấp hơn cả ngành Hàn Quốc học của Đại học Quốc gia Hà Nội. Sinh viên theo ngành Hàn Quốc học này sau khi tốt nghiệp có thu nhập và có tương lai tốt hơn nhiều so với những sinh viên theo các ngành Việt học. Trong xã hội Việt Nam hiện nay, thành phần có ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt của xã hội vẫn là thành phần cán bộ. Tiếp đến là giới đại gia. Về giới trí thức hiện nay, GS Hoàng Tụy đã nêu một nhận xét rất đáng lưu-ý:

“…Mỗi người chỉ biết việc của mình, chỉ lo cho mình, ít khả năng và cũng không thích thú hợp tác với bạn bè đồng nghiệp. Dễ bị lâm vào thế ếch ngồi đáy giếng, dễ mắc bệnh vĩ cuồng, không hòa nhập vào dòng chảy văn minh của thời đại, không chấp nhận luật chơi quốc tế, rồi ngày càng tụt hậu mà vẫn tự ru ngủ mình, tự đánh lừa mình, và đánh lừa nhân dân mình với những thành tích không có thật. Chạy theo danh hão, chạy theo quyền lực, chạy theo chức tước, là căn bệnh thời đại của trí thức VN. Chưa bao giờ trong xã hội ta có nhiều Xuân Tóc Đỏ như bây giờ. Tôi nói có vẻ bi quan, nhưng thà nhìn khắt khe một chút để biết người biết ta, còn hơn nhắm mắt chủ quan một cách lố bịch…” [1] 

Nhìn lướt qua dòng lịch sử từ cận đại đến hiện đại như trên, ta thấy, nếu có một tầng lớp sĩ phu trong xã hội Việt Nam, thì đó phải là tầng lớp nho sĩ trong xã hội cũ và tầng lớp trí thức trong xã hội mới. Đến đây, chúng ta bắt đầu có chút mâu thuẫn. Mâu thuẫn ở chỗ tinh thần trí thức, chịu ảnh hưởng của giáo dục Tây phương, với tinh thần nho sĩ, chịu ảnh hưởng giáo dục Khổng Mạnh của Trung Hoa. Một bên chú trọng vào tư duy độc lập, khuyến khích tìm tòi, khuyến khích cống hiến những khám phá mới, khuyến khích phản biện. Một bên, cố học để thấu hiểu nhưng không phản biện sách vở, lời dạy của thánh hiền, để lập công-danh, để giúp đời, để sống đẹp, và dùng sách vở không khác gì của nho sĩ thuộc một, hai ngàn năm trước. Dù chịu ảnh hưởng văn hóa và chế độ giáo dục của Trung Hoa, đa số nho sĩ của ta từ thế hệ này qua thế hệ khác rất nặng về từ chương, không thật sự có đam mê khám phá và hiểu biết thâm sâu. Ngoài thơ, phú, không có công trình đáng kể nào về triết học, văn học, nghệ thuật như Trung Hoa. Nếu chấp nhận lớp trí thức mới này là sĩ phu thì khó chấp nhận lớp nho sĩ cũ là sĩ phu, dù rằng danh từ sĩ phu khởi đi từ thời thịnh của Hán Nho.
 
Một vấn đề khác chúng ta gặp phải khi theo dõi vai trò của tầng lớp trí thức, tức lớp sĩ phu mới, trong xã hội Việt Nam từ thời Pháp thuộc đến nay. Thời Pháp thuộc, người Pháp áp đặt nền cai trị nhằm mục đích khai thác cho quyền lợi và quyền lực của họ, đồng thời xây dựng một chế độ giáo dục dựa trên khuôn mẫu của họ. Nhưng chính trong thời kỳ đó, tầng lớp trí thức được hình thành và có nhiều ảnh hưởng tích cực vào nhiều lãnh vực, làm xã hội trở nên tốt đẹp hơn về văn hóa, dân trí, học thuật, v.v... Họ tạo nên thời cuộc. Nhưng tại sao, khi đất nước chịu sự cai trị của người Pháp, họ tạo nên thời cuộc, và khi không còn sự cai trị đó nữa, thời cuộc chế ngự họ? Lý do, theo tôi, dù dựng nên cho Việt Nam vì nhu cầu cai trị, nền giáo dục của Pháp vẫn là một nền giáo dục tiến bộ, nhân bản và nhằm đào tạo trí thức. Giáo dục của Việt Nam, ở miền Bắc trước 1975 và trên toàn quốc sau 1975 không nhằm mục đích đó. Một lý do khác, như được trình bày tiếp theo đây, liên quan đến định nghĩa chữ Kẻ Sĩ và tinh thần kẻ sĩ.
 
Nhiều dân tộc có mẫu người lý tưởng của họ, mang bản sắc của họ, và mỗi khi nói đến dân tộc đó người ta nghĩ ngay đến mẫu người này. Chẳng hạn, “gentleman” của người Anh hay “samourai” của người Nhật. Có phải “kẻ sĩ” là mẫu người lý tưởng, mang bản sắc của dân tộc Việt Nam và mỗi khi nói đến người Việt Nam thì nghĩ ngay đến tinh thần kẻ sĩ?
 
Trong văn thơ cũ, khi đọc đến chữ “kẻ sĩ” chúng ta dễ liên tưởng đến giới nho sĩ. Chẳng hạn, khi đọc bài Kẻ Sĩ của Nguyễn Công Trứ như đã nêu trên. Và, liên tưởng đến giới trí thức ngày nay. Nhưng một nho sĩ không hẳn là kẻ sĩ và một trí thức cũng không hẳn là kẻ sĩ. Bên cạnh, nếu chúng ta chấp nhận một định nghĩa cho chữ Kẻ Sĩ dựa trên từ nửa Hán nửa Nôm này, thì một sĩ phu cũng không hẳn là một kẻ sĩ.
 
Riêng chữ “trí thức”, chúng ta thường sử dụng nó trong nghĩa rất tương đối. Đa số thuộc tầng lớp mà chúng ta gọi là trí thức trong thời Pháp thuộc chưa tốt nghiệp đại học, nghĩa là còn ở tầm học trò khá thấp trong ngành chuyên môn của họ. Thời đó, ai tốt nghiệp đại học đương nhiên được xem là trí thức. Ngày nay, số tốt nghiệp đại học đông hơn nhiều, tiêu chuẩn cao hơn. Tuy nhiên, cách gọi ai là trí thức vẫn mang giá trị tương đối so với giá trị thực đòi hỏi ở các xã hội có truyền thống giáo dục Tây phương cao, như Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Nhật, v.v... Tạm thời, xin chấp nhận cách nhìn tương đối về trí thức trong bài viết này.
 
Trở lại chuyện sĩ phu, trí thức và kẻ sĩ. Theo tôi, chữ “sĩ” trong “kẻ sĩ” không chỉ có nghĩa là học trò, là người có học mà còn có nghĩa như trong chữ “sĩ khí”. Như vậy, trong xã hội ngày nay, một kẻ sĩ là một trí thức có sĩ khí, có trách nhiệm làm tốt xã hội, quyết liệt bảo vệ sự thật và không chịu khuất phục dưới bất cứ đe dọa, áp lực nào mà mình tin là phản trí thức. “Kẻ Sĩ” cũng không bị giới hạn vào giới tính, như “Sĩ Phu”. Từ quan điểm đó, nhìn lại những giai đoạn lịch sử kể trên, cái mà xã hội chúng ta thiếu không phải là sĩ phu hay trí thức mà chính là kẻ sĩ. Thời thuộc Pháp, Trần Đức Thảo là một trí thức lớn, sau khi về nước, ông chịu bao áp lực, ông không tiếp tục nói, viết ra những suy nghĩ thật nữa, không dám đóng góp cho xã hội, cho nhân loại bằng khả năng trí thức của ông. Ông chịu khuất phục. Hiểu biết cái chính trị của xã hội Việt Nam vào lúc đó, chúng ta thông cảm cho ông, thương tâm ông. Ông vẫn là một trí thức nhưng rõ ràng, không là một kẻ sĩ. Ông không là Tư Mã Thiên. Ông không là Emile Zola. Ông không là Shakarov. Ông là Phùng Quán. Xã hội chỉ thay đổi được cho tốt hơn nếu xã hội đó có nhiều kẻ sĩ.
 
Kẻ Sĩ là một mẫu người lý tưởng. Một vấn đề cần được bàn ở đây là có phải nó biểu trưng cho bản sắc của dân tộc Việt như Gentleman của Anh hay Samourai của Nhật? Câu hỏi rất khó trả lời. Trong đời sống hằng ngày, không phải chỉ người Anh, mà chính chúng ta, người Việt, vẫn thường dùng chữ gentleman để nhận xét về phong cách của một người Anh nào đó. Cách dùng chữ samourai cũng vậy. Chỉ mới đây thôi, nhiều người Việt đã dùng chữ tinh thần samourai để nói về phong cách của một cô công chúa Nhật khi quyết định rời bỏ hoàng cung. Nhưng, trong đời sống hằng ngày, mấy khi chúng ta dùng chữ kẻ sĩ để nói về một người Việt nào đó? Và, ngày nay, trong đời sống hằng ngày, trong các trao đổi giữa giới trẻ với nhau, chúng ta có thường nghe hay thấy chữ kẻ sĩ được dùng trong câu chuyện? Với một hiểu biết, có thể nông cạn, về một thực tế như vậy, tôi chưa dám trả lời câu hỏi trên.
 
Tuy nhiên, Kẻ Sĩ vẫn là một mẫu người lý tưởng. Cho xã hội Việt Nam. Tôi thích câu trả lời của Reginald Johnston, ông thầy người Anh của hoàng đế Phổ Nghi, trong phim The Last Emperor. Trong buổi học đầu tiên, Phổ-Nghi hỏi Johnston: “Ông có phải là một gentleman?” Johnston trả lời: “Thưa ngài, tôi cố gắng làm một gentleman.” Tôi không được đọc cuốn sách của Johnston, nói về thời gian ông làm gia sư cho Phổ Nghi, nhưng sau khi đọc hồi ký của Phổ Nghi, tôi tin Johnston quả thật là một gentleman.[2] Câu chuyện đó có thật sự xảy ra hay chỉ có trong phim, tôi vẫn thích câu trả lời đó. Cho dù, ông có thật sự là một gentleman hay chưa phải.
 
Kẻ Sĩ là một mẫu người lý tưởng. Tôi xin mượn câu trả lời của Reginal Johnston trong phim để kết thúc bài viết này: “Cố gắng làm một kẻ sĩ”. Nhất là, trong học thuật, trong văn học, và trong nghệ thuật.
 
TRƯƠNG VŨ
Virginia, tháng 2 năm 2022.
 
(1] Hoàng Tụy, “Để có lớp trí thức xứng đáng”, Tạp chí Tia Sáng, (2008).
[2] Pu Yi, Paul Kramer biên-tập, The Last Manchu: The Autobiography of Henry Pu Yi, the Last Manchu Emperor of China [Người Mãn-châu cuối cùng: Tự-truyện của Henry Phổ-Nghi, Hoàng-đế Mãn-châu cuối cùng của Trung-quốc], Kuo Ying Paul Tsai dịch (London: Weidenfeld and Nicolson, 1987).

 

  

Friday, February 25, 2022

HUY PHUƠNG ƠI

nguyễnxuânthiệp

Chân dung Huy Phương
 
huy phương ơi
kính ơi
bạn ra đi
bỏ lại vợ con. bạn bè
những cuốn sách một đời
ở đâu
khu vườn tuổi nhỏ. trái chin cây
mái trường. ngói xưa
nơi đâu
con sông. chiếc cầu. nghiêng. cánh chim
những con đường. mây trắng
chiều nay
tôi nghe. tiếng còi tàu. từ sân ga cuối
xin chào nhau. chào nhau. ở cuối đường
nơi có cây magnolia. bông tím
 
NXT
Ngày Huy Phương đi 25.2.2022 



Thursday, February 24, 2022

KHÁNH TRƯỜNG VỚI TIỂU THUYẾT ‘NẮNG QUA ĐÈO’

Phan Tấn Hải
 
Tác phẩm ‘Nắng Qua Đèo’
 
Đôi khi tôi tự hỏi về hành vi viết của chính mình, đặc biệt là viết truyện. Truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài, tiểu thuyết, trường thiên, và vân vân. Thực sự, tôi không viết nhiều như thế để rồi phải tự thắc mắc. Nhưng thói quen tự xem xét tâm mình đã dẫn tới các câu hỏi như thế. Dĩ nhiên, có khi vì cần bài cho Báo Xuân. Có khi vì trong lòng có điều muốn nói, nhưng không thể nói thẳng như văn chính luận. Có khi chỉ để cho lòng vui, vì không thể không viết, vì ngồi vào bàn là phải viết. Đôi khi viết vì có lời muốn gửi cho đời sau. Thực sự, bản thân mình không là cái gì để phải nói cho nghiêm trọng. Ngày xưa, các cụ làm thơ có khi vì thấy bút mực có sẵn trên bàn, trước mặt… nếu không viết thì mực sẽ sớm khô, giấy sẽ sớm sầu muộn, và hoa nơi hiên nhà sẽ sớm vàng úa. Và có khi, cầm bút lên viết chỉ vì không nỡ đề thêm buồn đè nặng trên vạt nắng chiều còn vương bên thềm.
 
Hiển nhiên Khánh Trường viết không phải để vinh danh chữ nghĩa, vì hầu hết những người tôi có giao tình thân thiết đều không ưa trầm trọng hóa vấn đề. Chơi thôi mà, như kiểu nhà văn Mai Thảo ưa nói. Trong tiểu thuyết Nắng Qua Đèo của Khánh Trường cũng nhắc mấy câu thơ của Mai Thảo, nói rằng bệnh ở trong thân lâu ngày cũng thành bạn thôi:
Bệnh ở trong người thành bệnh bạn
Bênh ở lâu dài thành bệnh thân
Gối tay lên bệnh nằm thanh thản
Thành một đôi ta rất đá vàng
 
À… đó là chuỵện gối tay lên bệnh. Viết cũng là một hành vi gối tay lên chữ, lên mực. Vì tất cả đều trở thành đá vàng cả rồi. Trong phần Mở trước khi vào tiểu thuyết, Khánh Trường viết: “… hai chữ vô thường lại hiển lộng. Đồng thời gợi ý cho tôi khởi đầu những trang chữ này.” Tiểu thuyết của Khánh Trường mở đầu bằng hình ảnh nhân vật tên là Nhân, có bệnh nặng, có lúc được chẩn bệnh là ung thư gan. Trang cuối tiểu thuyết là cái chết trên giường bệnh của Nhân, lúc sắp từ trần đã thoáng nhìn thấy hình ảnh một người phụ nữ thân thương năm xưa bước vào, và anh nhắm mắt ra đi. Hiển nhiên không phải là tự truyện, vì tác giả vẫn còn sống, không như nhân vật trong tiểu thuyết. Nhưng, một vài phần, có lẽ vẫn không lìa nhân vật chính.
 
Toàn bộ tiểu thuyết Nắng Qua Đèo là những hình ảnh rất là tội nghiệp của tất cả các nhân vật – họ là chúng sanh rất tội nghiệp — đang trôi trên dòng sông cuộc đời. Tội nghiệp, cõi này là như thế. Từ tội nghiệp, dẫn tới xót thương. Nếu chúng ta dùng chữ có vẻ nghiêm trọng theo ngôn phong nhà Phật, có phải tiểu thuyết này là một ý thức về Khổ Đế? Mở đầu bằng bệnh, và kết thúc bằng cái chết. Hiển nhiên, đó là sự thật: cuộc đời không lìa được bệnh và chết.
 
Ngay nơi đoạn văn đầu của Chương I, tác giả Khánh Trường viết từ dòng thứ ba là hình ảnh có thể làm các Phật Tử quen đọc Kinh sẽ giựt mình, trích:
 
“… Mùa lũ, nước sông dâng cao, cuồn cuộn chảy xiết, những thân gỗ lớn từ thượng nguồn trôi về, phóng nhanh. Nhân nhìn bầu trời thấp, mây đen phủ kín và dòng sông hung dữ. Sắp mưa ư, Nhân tự hỏi, làm cách nào qua sông? Phải qua được sông vào thị trấn nếu không muốn chết cóng giữa đồng không mông quạnh này. Nhân nhìn suốt phải trái bờ, không một bóng thuyền…”
 
Có phải đây là dòng sông của nghiệp, dòng sông sinh tử cuồn cuộc chảy xiết? Đức Phật trong rất nhiều kinh đã nói là phải qua bờ kia, rằng bờ này là khổ, bờ kia là giải thoát. Tác giả lại kể về hình ảnh những thân gỗ từ thượng nguồn trôi về… đó cũng là một hình ảnh của Kinh Phật.
 
Trong Kinh SN 35.241, Đức Phật nói: “… Này các Tỷ-kheo, nếu khúc gỗ không đâm vào bờ bên này, không đâm vào bờ bên kia, không chìm giữa dòng, không mắc cạn trên miếng đất nổi, không bị loài Người nhặt lấy, không bị phi nhân nhặt lấy, không bị mắc vào xoáy nước, không bị mục bên trong; như vậy, này các Tỷ-kheo, khúc gỗ ấy sẽ hướng về biển, sẽ xuôi theo biển, sẽ nghiêng nhập vào biển...” Biển, nơi đây là Niết Bàn, là giải thoát.
 
Hình như Khánh Trường không có ý viết tiểu thuyết kiểu chú giải Kinh Phật, nhưng sẽ có một số người chợt nhận ra những hình ảnh rất ẩn dụ tình cờ đó. Thế rồi, nhân vật tên Nhân (Nhân còn có nghĩa là người, là con người, là nhân loại) đã nhìn suốt phải trái bờ, không một bóng thuyền… Cõi này buổn vậy ư? Chúng ta, con người, đứng bơ vơ, đứng cô đơn, nhìn dòng nước lũ, và không một bóng thuyền. Chúng ta sinh ra và chết đi đều bơ vơ, đơn độc như thế.
 
Thế rồi, nơi vài trang sau, tác giả Khánh Trường kể rằng nhân vật tên Nhân lên ghe cùng với anh Nông dân và anh Tư râu chèo đò để qua sông. Thế rồi, một thanh gỗ lớn đâm vào con đò, đụng dữ dội tới mức ghe lật chìm. May mắn, Nhân bám vào thân gỗ, thoát chết.
 
Trong truyện cũng nói rằng Nhân bị bệnh nan y, kể như sẽ chết sớm. Thế là, Nhân đi bụi đời.
 
Tác giả giải thích: “Đã ba tháng rồi kể từ ngày Nhân bỏ việc lên đường giang hồ, nhiều vùng đất Nhân đã đến. Nhanh, vài ba hôm. Chậm, một tuần, mươi ngày, nhưng không nơi nào giữ chân Nhân lâu hơn. Chẳng phải các địa danh mới không hấp lực, trái lại, nhiều nơi lắm quyến rũ mạnh mẽ, thế nhưng lòng Nhân vẫn nguội lạnh. Kể cả những cuộc tình, những quan hệ gái trai, vốn ngày trước là một đam mê luôn khiến Nhân bận tâm. Lý do nào gây nên sự dửng dưng này? Giản dị thôi, kể từ lúc Nhân biết tin, qua vài xét nghiệm y khoa, mầm ung thư trong người Nhân đã đến giai đoạn cuối. Lúc đầu mới nhận tin này, Nhân có cảm tưởng đang rơi vào một vực thẳm không đáy, Nhân đau đớn, tuyệt vọng.”
 
Nghĩa là, đi để chờ chết. Tất cả các diễn biến đều là những hình ảnh tội nghiệp của người trong cõi này. Thế rồi Nhân cũng tới thăm một cổ tự trên núi Miền Trung. Tác giả ghi rằng dân chúng kể lại rằng một Ni sư ban đầu tới vùng núi này ngồi thiền, tụng kinh. Thế rồi một con trăn lớn hiền lành ra cuộn tròn gần bên. Dĩ nhiên, chuyện kể lại của người dân từ thế hệ này qua thế hệ kia, có thể đã biến đổi theo kiểu riêng từng người kể lại.
 
Tuy nhiên, tiểu thuyết Khánh Trường vẫn có một nét độc đáo (hay một thói quen?) là những cuộc làm tình. Bất kể bị bệnh ung thư, nhân vật tên Nhân trong khi lang thang đã dan díu vào một vài chuyện giường chiếu. Với nhiều người. Có khi trả tiền, có khi chỉ là tình cảm, là dan díu. Nỗi buồn theo đuổi trong cõi rất tội nghiệp này là, theo tác giả Khánh Trường, sau một đêm dan díu với một cô tiếp viên: “Xác thịt no đủ bao nhiêu thì tâm hồn khánh kiệt bấy nhiêu.”  Không vui, thực sự cõi này đầy bất trắc, không vui.
 
Bất trắc. Không ai biết những gì chờ đợi mình trong khoảnh khắc kế tiếp. Tác giả ghi lại suy nghĩ của Nhân: “Căn bệnh nan y bất ngờ đẩy Nhân xuống vực sâu tuyệt vọng. Làm sao biết trước được chuyện gì sẽ xảy ra? Cuộc đời con người luôn diễn ra theo một hướng nào đó nằm ngoài dự kiến.”
 
Những chi tiết cũng trải dài với lịch sử. Cũng một thời hậu chiến, với những tan tác, đổ vỡ. Cũng có chuyện vượt biên. Cũng nhắc tới chiếc cầu Hiền Lương, nối hai bờ đất nước một thời ngăn cách.
 
Tiểu thuyết Nắng Qua Đèo cũng kể về một mối tình, ban đầu rất say đắm, giữa nàng Tâm và chàng Luân. Tội nghiệp, vì chuyện tình không bình an. Luân đã có vợ con, và giấu biệt khi gặp và say mê Tâm. Thế rồi Tâm có thai, Luân bỏ chạy về với vợ con. Không vui tí nào. Tâm sinh con xong, một bé trai, rồi vùi đầu vào việc làm thiện nguyện. Tâm chợt có ý nghĩ muốn đi tu, nên xin Sư Bà cho xuất gia. Dĩ nhiên, cho tới khép truyện, Tâm vẫn chưa trở thành ni cô. Chi tiết này hẳn nhiên là tiểu thuyết, rất là truyền thống dân gian. Thực sự, đi tu là chuyện hy hữu, khó lắm. Nhưng đời thường vẫn nghĩ rằng, hễ có chuyện buồn là xin đi tu.
 
Tất cả các nhân vật trong tiểu thuyết Khánh Trường đều là các hình tượng rất mong manh, dễ dàng hư vỡ. Ngay cả những lúc vui, cũng đã hàm ẩn những gì rất buồn. Các chi tiết rải khắp cuộc đời của các nhân vật trong Nắng Qua Đèo là những gì rất buồn: bệnh, đau đớn, tan vỡ, và rồi chết. Rất tội nghiệp, và đó là bản chất cuộc đời. Những hình ảnh bình an trong truyện, như ngôi cổ tự, vẫn là hiếm hoi và như dường là những gì ngoài tay với của chúng sinh.
 
Chúng ta quen thuộc với hình ảnh của Khánh Trường nổi tiếng như một họa sĩ, trong khi nhiều phương diện khác của ông vẫn rất nổi bật, nổi tiếng. Khánh Trường làm báo. Khánh Trường làm thơ. Khánh Trường viết truyện. Lĩnh vực nào cũng xuất sắc. Trong khi nét vẽ Khánh Trường trong quá khứ từng có lúc rất Thiền, từng có lúc rất lãng mạn, từng có lúc rất dữ dội. Riêng bây giờ, trong tác phẩm mới nhất của Khánh Trường — tiểu thuyết Nắng Qua Đèo từ trang đầu tới trang cuối là những gì rất buồn, đầy những tan vỡ.
 
Vâng, nỗi buồn bất tận, đó là bản chất của cuộc đời này. Ngòi bút Khánh Trường nơi đây đã nêu lên được những gì rất buồn, rất mong manh, rất dễ hư vỡ đó. Có phải bây giờ nắng đã nghiêng bóng chiều rồi. Khi gấp lại những trang cuối tiểu thuyết Nắng Qua Đèo của Khánh Trường, bạn có để ý thấy vài tia nắng rời ban chiều vẫn còn hiu hắt vương lại, chưa chịu rời trang giấy? Cũng như là những nỗi buồn của chúng ta trong cõi này, như đôi mắt của một người chúng ta đã từng yêu thương và rồi trở thành những ký ức nuối tiếc khi tóc đã bạc và chiều đã tới. Nơi đó, vạt nắng chiều đã nhạt, còn vương gì trong đôi mắt người xưa. Nắng kìa. Nơi lưng đèo. Ai biết nắng tới vì đâu. Tiểu thuyết Nắng Qua Đèo của Khánh Trường cũng như thế. Đó là những tia nắng còn vương, vì còn thương mãi đời này.
 
PHAN TẤN HẢI
California, tháng 12/2021
 
GHI CHÚ:
Bài trên dùng làm Lời Bạt, in nơi các trang 201-209, cho tiểu thuyết Nắng Qua Đèo của nhà văn Khánh Trường. Sách do nxb Mở Nguồn ấn hành năm 2022. Độc giả cần liên lạc, xin email về Hân Lê: han.le359@gmail.com  hay Khánh Trường: khtruong@gmail.com .

  

Tuesday, February 22, 2022

THƠ LÀM LÚC NỪA ĐÊM

Trần Hoài Thư
 
Chân dung Trần Hoài Thư. Đinh Cường vẽ

1.
Mừng ta còn đến tuổi này
Vẫn còn giòng máu của thời dại ngu
Ngày xưa làm lính đi đầu
Ngày nay, in sách tặng bầu bạn chơi
 
2.
Mừng ta, không hủi không cùi
Đêm đêm xuống viếng mả mồ nghĩa trang
Cả bọn nằm giữa mộ hàng
Tránh mưa tránh gió tránh tràng A K
Trời mù khí độc mù sa
Đây là cõi sống hay là âm ty?
 
3.
Nửa khuya lục đục mình ên
Tuổi già ngủ thức trong đêm bao lần
Ngày xưa canh đám chuột đồng
Bây giờ " chuột rút " sao điên cuồng kêu la
 
4.
Này đây ghế bố nhà binh
Này đây áo ấm màu xanh da trởi
Nằm ghế bố, đắp áo người
Sao lòng lại lạnh, tủi đời phải không?
THT

Nhà văn Trần Hoài Thư. Ký sách

  

Tuesday, February 15, 2022

VIỄN CẢNH 2022: TUNG HOÀNH VỚI SÔNG CỜ ĐỎ: TRUNG QUỐC ĐANG VẮT KIỆT NGUỒN NƯỚC CỦA CHÂU Á

NGÔ THẾ VINH
 
Dẫn Nhập _ Các dân tộc sống trên lục địa Châu Á ở hạ lưu các dòng sông từ Tây Tạng và Trung Quốc chảy xuống, trên 1,6 tỉ người này đã phải gánh chịu hết cả thiệt hại kinh tế nông nghiệp, ngư nghiệp và môi trường các hạ vực đã bị thoái hóa dần dần suốt nhiều thập niên qua trong khi Trung Quốc hưởng hết ích lợi nhờ thủy điện vì trên thượng nguồn họ xây hàng trăm con đập, tàng trữ hàng trăm tỉ mét khối nước, giam hãm 90% phù sa và thay đổi toàn diện dòng chảy môi sinh trên toàn lưu vực. Nhưng tham vọng Trung Quốc chưa dừng lại, Trung Quốc đã bắt đầu xây một đại công trình mang tên Sông Cờ Đỏ, dài trên 6.180 km để hàng năm chuyển dòng lấy 60 tỉ mét khối nước ngay từ nguồn không cho xuống hạ lưu sông Mekong, Salween và Brahmaputra. Sông Cờ Đỏ của Trung Quốc là một mối đe doạ tiềm tàng to lớn, với khả năng gây ra tội ác cho nhân loại – imminent threat to humanity. Trung Quốc tránh không ký bất cứ một hiệp ước hợp tác sông ngòi quốc tế nào, để họ đơn phương thực hiện những tham vọng của mình. Không một siêu cường nào trên thế giới ngạo mạn khai thác dòng nước bất chấp cuộc sống của bao nhiêu triệu cư dân hạ lưu như thế.  Việt Ecology Foundation
*
Bắc Kinh có khả năng dùng “vũ khí nước” như một đòn ngoại giao bắt 25% dân số thế giới làm con tin / holding hostage. Khác với những hồ chứa đập thuỷ điện, vừa giữ nước vừa xả nước, Sông Cờ Đỏ là một chiến lược đổi dòng lấy nước – có nghĩa là 100% lượng nước này sẽ bị mất đi – không bao giờ được đền bù,  đối với các quốc gia hạ nguồn. [1]
 
Hình 1: Quốc gia Tây Tạng, nơi phát xuất những con sông lớn
của Châu Á: (1) Dương Tử, (2) Hoàng Hà, (3) Indus, (4) Sutlej, (5) Yarlung Tsangpo
– Brahmaputra, (6) Irrawaddy, (7) Salween, (8) Mekong.
[nguồn: Bản đồ cập nhật của Michael Buckley, Meltdown in Tibet, Palgrave MacMillan 2014] [3]
 
CƠ THỂ HỌC CÁC CON SÔNG LỚN CHÂU Á
 
Các con sông lớn như mạch sống của toàn Châu Á đều bắt nguồn từ Cao nguyên Tây Tạng, còn được mệnh danh là Cực Thứ Ba của Trái Đất.
_ Đông Tây Tạng: phía đông là khởi nguồn của hai con sông lớn hoàn toàn nằm trong lãnh thổ Trung Quốc: (1) sông Dương Tử 6.500 km dài nhất Châu Á chảy về hướng đông theo suốt chiều ngang lãnh thổ Trung Hoa tới Thượng Hải – Shanghai, (2) sông Hoàng Hà thì chảy về hướng bắc rồi chuyển sang hướng đông tới Thiên Tân – Tianjin, và cả hai cùng đổ ra biển Trung Hoa.
  
_ Tây Tây Tạng: phía tây bắc,(3) sông Indus(4) sông Sutlej chảy về hướng tây nam và giao thoa với ba con sông khác để hình thành vùng châu thổ Punjab giữa hai nước Ấn và Hồi. Phía tây nam(5) sông Yarlung Tsangpo là “con sông cao nhất thế giới”, với các ghềnh thác xuyên dãy Hy Mã Lạp Sơn, rồi chảy qua Ấn độ, Bhutan và Bangladesh, con sông đổi tênsông Brahmaputra trước khi đổ vào Vịnh Bengal, Ấn Độ Dương. 
 
_ Nam Tây Tạng: phía nam là ba con sông (6) sông Irrawaddy(7) sông Salween chảy xuống Miến Điện theo hướng bắc nam trước khi đổ vào Biển Andaman. Riêng con (8) sông Mekong chảy qua nhiều quốc gia  với nhiều tên khác nhau, từ Tây Tạng: có tên Dza-Chu có nghĩa “nguồn nước của đá”, tiếp tục chảy về hướng nam băng qua những hẻm núi sâu của tỉnh Vân Nam với tên Trung Hoa là Lan Thương Giang / Lancang Jiang “con sông xanh cuộn sóng”, qua đến biên giới Lào Thái mang một tên khác Mae Nam Khong “con sông mẹ”, xuống Cam Bốt lại mang một tên khác nữa Tonle Thom “con sông lớn”, cuối cùng chảy qua Việt Nam mang tên Cửu Long với hai nhánh chính là sông Tiền và sông Hậu đổ ra Biển Đông trước kia bằng chín cửa sông, nhưng nay chỉ còn bảy. [Hình 1] 
 
TÂY TẠNG KHÔ HẠN CHÂU Á CHẾT
Và cũng dễ hiểu tại sao, bằng mọi giá Trung Quốc phải chiếm cho bằng được Tây Tạng – vùng cao nguyên chiến lược vô cùng quan trọng, giàu có về nguồn nước, phong phú về tài nguyên thiên nhiên – đó cũng là “định mệnh sinh học – biological destiny” của Tây Tạng, một quốc gia nhỏ bé với chưa tới 1,5 triệu dân bản địa (thống kê 1965, dân số gốc Tây Tạng 1,321,500; Leo A. Orleans, The China Quarterly Jul-Sep, 1966) và đang bị Hán hoá, người Tây Tạng nay đã trở thành thiểu số ngay trên đất nước mình.
 
Phải chứng kiến tốc độ tàn phá sinh cảnh Tây Tạng, ngay nơi đầu nguồn,  các con sông lớn Châu Á đang bị Trung Quốc khai thác một cách triệt để với những đập thuỷ điện, cùng với nạn phá rừng tự sát / suicidal deforestation, tới các kế hoạch khai thác hầm mỏ đại quy mô, gây ô nhiễm nguồn nước. Hiện tượng biến đổi khí hậu với khí thải từ các nhà máy đốt nhiên liệu hoá thạch đang gây hiệu ứng nhà kính khiến khối băng tuyết tưởng như vô tận nơi cực thứ ba trái đất đang nhanh chóng bị đẩy lùi và tan rã.
Cũng để thấy rằng, những con sông Châu Á từng nguyên sinh trong thế kỷ trước thì nay đã biến dạng suy thoái và không còn như xưa nữa.
Cảnh tượng ấy khiến Đức Dalai Lama đang lưu vong phải thốt lên lời kêu cứu và ông đã chọn ưu tiên bảo vệ môi sinh thay vì những vấn đề chính trị nóng bỏng. Trong một lần gặp gỡ với Đại sứ Hoa Kỳ Timothy Roemer ở New Delhi, thủ đô Ấn Độ vào tháng 8/2009, Đức Dalai Lama nói rằng:  
"Lịch trình chính trị có thể hoãn lại 5 -10 năm nhưng cộng đồng quốc tế cần tập trung quan tâm tới biến đổi khí hậu trên Cao nguyên Tây Tạng: khối băng tuyết đang tan rã, nạn phá rừng, và ô nhiễm nguồn nước do những dự án khai thác hầm mỏ, là những vấn đề cấp thiết, không thể chờ đợi." [nguồn: Wikileaks Cables, the Guardian 10 Aug. 2009]
Bắc Kinh xác nhận là sẽ xây thêm các con đập thuỷ điện lớn trên thượng nguồn sông Yarlung Tsangpo – Brahmaputra, trước khi con sông xuyên quốc gia ấy chảy sang Ấn Độ, Bhutan và Bangladesh. Brahmaputra là dòng sông huyết mạch của ba quốc gia này. 
Khi các công trình hoàn tất, tổng công suất / total capacity của những con đập thủy điện trên Cao nguyên Tây Tạng sẽ “nhiều lần lớn hơn” công suất con đập Tam Hiệp (Three Gorges Dam): 22.500 megawatts, lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử.

Hình 2: Bích chương của Hội Phụ nữ Tây Tạng: Hâm Nóng Toàn Cầu
trên Cao nguyên Tây Tạng; Nếu Tây Tạng khô hạn, Châu Á chết. [3]
 
Cho dù đang có những mối lo âu về sự tồn vong của quê hương Tây Tạng nhưng Đức Dalai Lama rất quan tâm tới những vấn đề chung của nhân loại. Ông nói tới vấn đề môi sinh rất sớm với tầm nhìn xa và trong mối tương quan toàn cầu và “phải làm sao giữ xanh hành tinh này, qua thông điệp nhân Ngày Môi Sinh Thế Giới / World Environment Day [ngày 05.06.1986]:
“Hòa bình và sự sống trên trái đất đang bị đe dọa bởi những hoạt động của con người thiếu quan tâm tới những giá trị nhân bản. Hủy hoại thiên nhiên và các nguồn tài nguyên thiên nhiên là do hậu quả của lòng tham lam và thiếu tôn kính đối với sự sống trên hành tinh này... Chúng ta dễ dàng tha thứ cho những gì đã xảy ra trong quá khứ do bởi u minh. Nhưng ngày nay do hiểu biết hơn, chúng ta phải duyệt xét lại với tiêu chuẩn đạo đức là phần gia tài nào mà chúng ta thừa hưởng, phần nào chúng ta có trách nhiệm sẽ truyền lại cho thế hệ mai sau." [3]
 
SÔNG CỜ ĐỎ / HỒNG KỲ HÀ 旗河
MỘT KHỦNG LONG CỦA BẮC KINH
 
Từ mấy thập niên qua, ai cũng đã biết Trung Quốc đã và đang xây thêm hàng trăm đập thủy điện trên khắp các dòng sông với những hồ chứa nước khổng lồ, ngăn chặn phù sa làm đảo lộn toàn hệ sinh thái, tác động đến sinh kế của bao nhiêu triệu cư dân dưới nguồn.
Nay tiến thêm một bước đột phá nữa, Trung Quốc đang có thêm một kế hoạch vĩ mô / mega project, vô cùng táo bạo – khai mở một con sông nhân tạo: Sông Cờ Đỏ / Red Flag River, lớn nhất thế giới xuyên lưu vực, kết nối với mạng lưới sông thiên nhiên của Châu Á, nhằm chuyển nước về hướng Bắc củng cố nền an ninh nguồn nước – cũng là nguồn an ninh lương thực của Trung Quốc. Với dự án Sông Cờ Đỏ dài 6.180 km này, Trung Quốc hàng năm sẽ giành thêm được 60 tỉ mét khối nước – có nghĩa là các quốc gia khác sẽ mất đi lượng nước sinh hoạt thiết yếu này.
 Không tham khảo với các quốc gia láng giềng, có thể nói Trung Quốc với hơn 1.4 tỉ dân đã đơn phương khai mào một trận chiến môi sinh không tiếng súng và sẽ gieo hoạ cho 1,6 tỉ người thuộc các dân tộc lân bang chung sống với họ trên lục địa Châu Á.
 
Sông Cờ Đỏ có tham vọng chuyển 60 tỉ mét khối nước hàng năm tương đương với 21% lượng nước đầu nguồn hàng năm tại ba con sông xuyên quốc gia / transnational rivers: Mekong, Salween và Brahmaputra. Lượng nước quý giá này chính là nguồn sống, sinh kế của các dân tộc Nam Á, và Đông Nam Á vẫn phải dựa vào số nước ấy sẽ được chuyển tới vùng Tân Cương – Xinjiang phía bắc và tây bắc Trung Quốc.
Dự án Sông Cờ Đỏ xuyên lưu vực này sẽ gây chấn động dư luận nơi các quốc gia lân bang – đặc biệt là Ấn Độ, quốc gia có dân số đông thứ hai chỉ sau Trung Quốc.
Những nước dưới hạ nguồn sẽ phải rất quan tâm trước một viễn tượng có thể khó lường. Do Tây Tạng có nước chảy xuống là nhờ mưa và tuyết tan khi trời ấm, mức nước và lưu lượng sẽ cao nhất từ tháng hai cho đến tháng bảy, cho 70% tổng số nước cả năm, khi đó là thời gian tối ưu cho con Sông Cờ Đỏ dựa vào thế năng và động năng cao để chuyển dòng và chiếm đoạt nhiều nước nhất. Các nước hạ lưu cùng lúc đó lại đang vào mùa khô, vì thế sau khi Sông Cờ Đỏ hoạt động, hạn hán giáng xuống hạ lưu chắc chắn sẽ khắc nghiệt hơn nữa. Lúc đó họ chỉ còn biết dựa vào lòng tử tế của Trung Quốc, điều mà người Tây Tạng, Ngô Duy Nhĩ, Việt Nam đã từng được nếm trải.
Vì thế Sông Cờ Đỏ của Trung Quốc đã tiềm tàng một mối đe doạ to lớn, gần như tội ác cho nhân loại – imminent threat to humanity. Trung Quốc đã tránh không ký bất cứ một hiệp ước hợp tác sông ngòi quốc tế nào, để họ không bị ràng buộc có thể đơn phương thực hiện những tham vọng của mình. Không một siêu cường nào trên thế giới ngạo mạn khai thác dòng nước bất chấp cuộc sống của bao nhiêu triệu cư dân hạ lưu như thế.  
Riêng Việt Nam thì sao?  Vẫn là sự im ắng “truyền thống” cho dù Sông Cờ Đỏ sẽ lấy nước sông Mekong từ ngay nơi đầu nguồn.
Trung Quốc “vĩ đại” theo nhiều ý nghĩa, thể hiện cho tinh thần Đại Hán ấy trong quá khứ đã có Vạn Lý Trường Thành, là một trong bảy kỳ quan của thế giới. Nay với tiến bộ khoa học kỹ thuật, Trung Quốc còn thực hiện thêm những công trình mới có tầm vóc thế giới: đập thuỷ điện Tam Hiệp trên sông Dương Tử lớn nhất thế giới, và nay Sông Cờ Đỏ sẽ là con sông nhân tạo chuyển dòng lấy nước cũng lớn nhất thế giới với chi phí tốn kém nhất thế giới. Đây là một đại công trình làm thay đổi cả diện mạo của lục địa Châu Á. Với sẵn nguồn nhân lực, với quyết tâm và có khả năng kỹ thuật cao, Bắc Kinh có thể dư sức thực hiện Dự án Sông Cờ Đỏ này. Nhưng với cái giá nào phải trả của các quốc gia lân bang thì không được Bắc Kinh quan tâm tới.
 
Hình 3a: Sông Cờ Đỏ với Dự án chuyển nước vĩ mô
“tam tung, tứ hoành / ba dọc, bốn ngang”; (a) đường đen mỏng: các dòng sông lớn;
(b) đường đen đậm: Sông Cờ Đỏ và hai nhánh chính nối với các con sông thiên nhiên trong dự án
chuyển nước nối lưu vực nam-bắc của Trung Quốc; (c) đường đen đậm đứt quãng gần:
đường dẫn nước nam-bắc trong Dự án Chuyển Nước Nam-Bắc / SNWTP / South-North
Water Transfer Project; (d) đường đen đậm đứt quãng xa: trong kế hoạch thực hiện.
[nguồn: Bản đồ của Genevieve Donnellon-May và Mark Wang trên The Diplomat Oct. 7, 2021,
với thêm ghi chú tiếng Việt của người viết] 
 
Hình 3b:  GS Vương Hạo (Wang Hao), Chủ tịch Nhóm Chuyên gia trong cuộc Hội thoại
về “Sông Cờ Đỏ” – một dự án vĩ đại của Trung Quốc – đã ngạo mạn phát biểu:
“Ít nhất trên quy mô ngàn năm / thiên niên kỷ, Dự án Sông Cờ Đỏ sẽ đem lại
những lợi ích vượt xa hơn là những tác hại.”
 
LỊCH SỬ SÔNG CỜ ĐỎ VỚI “TAM TUNG TỨ HOÀNH”
Dự án này được soạn thảo bởi “nhóm nghiên cứu S4679” của Đại học Thanh Hoa / Tsinghua ở Bắc Kinh – được so sánh như một Harvard của Đông phương; do giáo sư Vương Hạo / Wang Hao là kỹ sư trưởng của Viện Nghiên Cứu Tài nguyên Nước và Thuỷ điện của Trung Quốc.
Sông Cờ Đỏ là một hệ thống thuỷ lợi với dòng chảy trọng lực / gravity flow water diversion system, lấy nước từ các con sông trên cao nguyên Tây Tạng [được mệnh danh là “nóc của thế giới” với độ cao trung bình 4.500 m trên mặt biển], dẫn vào một đường kênh chính / main channel đưa nước tới vùng Tân Cương / Xinjiang khô cằn – có khả năng “biến Tân Cương thành một California Made in China xanh tươi trù phú”, đồng thời cũng dùng con sông nhánh Chunfeng dẫn một lượng nước khổng lồ vào lưu vực Turpan tới vùng bắc Tân Cương. [Hình 3a,b]
Công trình thuỷ lợi Sông Cờ Đỏ còn đem nước tới Tân Cương và các tỉnh phía tây bắc như Cam Túc / Gansu, Ninh Hạ / Ningxia. Các tỉnh này nếu có nguồn nước sẽ trở thành một vùng sản xuất nông nghiệp lớn nhất nước. Ước tính là lượng nước cung cấp cho các tỉnh tây bắc sẽ nhiều hơn lưu lượng nước hàng năm của con sông Hoàng Hà / Yellow River đổ ra biển. Dự án này sẽ tạo thêm được 13,3 triệu hectares diện tích canh tác ở Tân Cương và thêm 130.000 km2 các ốc đảo / oasis xanh tươi ở vùng tây bắc Trung Quốc.
Ngoài những lợi ích về canh nông kể trên, Sông Cờ Đỏ còn bảo đảm an toàn nguồn nước cho Trung Quốc. Với Kế hoạch Dự án Chuyển Nước Nam-Bắc / SNWTP / South-North Water Transfer Project, Trung Quốc tạo được một mạng lưới nước / water grid system có tên là “tam tung tứ hoành / 四横 / ba dọc bốn ngang”:
_ Tam tung / sanzhong / ba dọc: là 3 tuyến dẫn nước từ nam lên bắc; 2 tuyến trung và đông đã hoàn thành, tuyến tây đang triển khai. Khi tuyến phía tây này hoàn tất, sẽ có 17 tỉ mét khối nước được chuyển từ thượng nguồn sông Dương Tử sang sông Hoàng Hà ngay từ trên cao nguyên Tây Tạng, có khả năng phục sinh con sông Hoàng (Hà) đang bị cạn kiệt.  
_ Tứ hoành / siheng / bốn ngang: là 4 dòng sông chảy từ tây sang đông là: Hoàng Hà (Yellow river), Hoài Hà (Huai river), Dương Tử (Yangtze river) và Hải Hà (Haihe river)
Hệ thống “Tam Tung Tứ Hoành” này sẽ bảo đảm cung cấp nguồn nước cho thủ đô Bắc Kinh và các thị trấn lớn vùng bình nguyên phía bắc Trung Quốc.
Ngoài ra, Sông Cờ Đỏ còn có thêm hai kênh sông Hồng Duyên / Hongyan Hà dẫn nước đến Diên An / Yan’an phía bắc tỉnh Thiểm Tây / Shaanxi, và sông Mạc Bắc / Mobei dẫn nước vào Nội Mông và cả Bắc Kinh. Cũng qua kênh sông Mạc Bắc, Sông Cờ Đỏ cung cấp nguồn nước cho vùng đồng bằng phía bắc Trung Quốc, và qua nhánh sông Hồng Duyên cung cấp nước cho lưu vực Tứ Xuyên / Sichuan Basin. [Hình 3a,b]
Đây là một bức tranh quy hoạch thuỷ lợi cực lớn – không chỉ tạo ra một hệ thống cấp nước mới cho vùng tây bắc Trung Quốc mà còn kết nối với hệ thống mạng lưới nước quốc gia để có "bảo đảm kép" về mặt chiến lược cung cấp nguồn nước cho Bắc Kinh và vùng bắc Trung Quốc. [1]
 
VẪN BIỆN HỘ CHO TRUNG QUỐC
Rồi ra, chúng ta sẽ không ngạc nhiên nếu vẫn có một số vị tiến sĩ hay trí thức khoa bảng trong và cả ngoài nước – sẽ hành xử như những luật sư tự nguyện bào chữa cho Bắc Kinh rằng: Đừng đổ lỗi cho Trung Quốc. Họ vẫn chỉ biết dựa vào một con số đơn giản, cho rằng chỉ có 16% số lưu lượng sông Mekong đổ xuống từ Trung Quốc. Và nay, Sông Cờ Đỏ có lấy thêm đi mấy phần trăm % của con số 16% ấy thì nạn hạn hán nếu có xảy ra cũng không phải lỗi Trung Quốc.
 
Thực tế vào mùa khô khi nước khan hiếm nhất, lượng nước từ Trung Quốc xuống Mekong lên tới 40% và 70%, gấp hai tới bốn lần hơn con số họ cố ý trích dẫn. [nguồn: https://www.lowyinstitute.org/the-interpreter/china-eyes-its-next-prize-mekong]
 
Và người ta vẫn có thể tự ru ngủ mà bảo rằng: tranh chấp nước “trên nguồn – dưới nguồn / upstream – downstream” bấy lâu vẫn là chuyện bình thường, ngay cả giữa các địa phương trong cùng một quốc gia.
Có cần nhắc với họ không là năm 2016, nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng của Việt Nam đã phải lên tiếng cầu cứu xin Trung Quốc xả nước từ con đập Cảnh Hồng / Jinhong để cứu đại hạn nơi ĐBSCL lúc đó, và cuối cùng cũng không đạt hiệu quả nào!
 
Hình 4: trái, Hạn hán khắc nghiệt nơi ĐBSCL năm 2016, khiến Thủ Tướng
Nguyễn Tấn Dũng lúc đó phải lên tiếng cầu cứu Trung Quốc cho xả nước từ hồ chứa
đập thuỷ điện Cảnh Hồng nhưng không đạt hiệu quả nào; phải, Cái bắt tay “hữu nghị” của
Tập Cận Bình – lúc đó là Phó Chủ tịch TQ và TT  Nguyễn Tấn Dũng tháng 12/2011.
[nguồn: trái, VN Express 3/11/2016]
 
SÔNG CỜ ĐỎ VỚI TRÁI TIM BIỂN HỒ VÀ ĐBSCL
 
Tuy dự án Sông Cờ Đỏ S4678 không được công bố chính thức nhưng chắc chắn sẽ gây ra sự quan tâm rộng rãi. Cao nguyên Tây Tạng vốn được coi là một vùng sinh thái trù phú nhưng cũng rất mong manh và dễ bị tổn thương.
Sông Cờ Đỏ chắc chắn làm giảm thêm nguồn nước của các con sông xuyên quốc gia – trong đó có sông Mekong.
Rõ ràng, Sông Cờ Đỏ sẽ đem lại cho Trung Quốc một thứ “siêu quyền lực” bá chủ về nguồn nước  / hydro-hegemony trên toàn Châu Á, với “quyền sinh sát tắt mở vòi nước” theo ý mình – nhất là khi Bắc Kinh muốn cho các nước nhỏ “một bài học” – vẫn nói theo ngôn từ của Đặng Tiểu Bình.
Ngoài nước lớn là Ấn Độ, có đủ sức đối trọng với Trung Quốc, hầu như chưa có các quốc gia hạ nguồn nào khác chính thức lên tiếng – Riêng với Uỷ Ban Mekong Việt Nam – 23 phố Hàng Tre Hà Nội, cách ĐBSCL hơn 1.600 km, thì vẫn là sự im lặng hay hoàn toàn bị động.
Vẫn với một khuôn mẫu hành xử bấy lâu, chưa bao giờ Bắc Kinh muốn chia sẻ thông tin / hay muốn thực lòng tham khảo với các quốc gia hạ nguồn về dự án Sông Cờ Đỏ S4679, chắc chắn sẽ có ảnh hưởng huỷ hoại lâu dài đối các dòng sông xuyên quốc gia này.
Theo ước tính của hai tác giả Genevieve Donnellon-May / Đại Học  Singapore và Mark Wang / Đại học Melbourne, thì Bắc Kinh có khả năng dùng “vũ khí nước” như một đòn ngoại giao bắt 25% dân số thế giới làm con tin / holding hostage. Khác với những hồ chứa đập thuỷ điện, vừa giữ nước vừa xả nước, Sông Cờ Đỏ là một chiến lược đổi dòng lấy nước – có nghĩa là 100% lượng nước này sẽ bị mất đi – không bao giờ được đền bù,  đối với các quốc gia hạ nguồn. [1]
_ Tình trạng “đói lũ” ở ĐBSCL đã xảy ra thường xuyên hơn trong những năm gần đây. Lũ – mùa nước nổi xuống ĐBSCL, phụ thuộc chính vào lượng nước mưa từ thượng nguồn sông Mekong. Nếu mưa ít ở lưu vực trên / upper basin, kéo theo nạn thiếu nước trong hàng trăm các hồ chứa thuỷ điện, thì khi tới mùa mưa nước sẽ bị chặn lại trong các hồ chứa – thay vì lượng nước mưa ấy ồ ạt theo dòng sông xuôi chảy xuống hạ lưu. Hậu quả là sông Mekong sẽ thiếu nước, gây tình trạng hạn hán trên toàn hệ thống sông rạch.
 
_ Do đó sẽ rất ngây thơ để bảo rằng 16% lưu lượng nước từ Trung Quốc là không đáng kể, và cho rằng các hồ thuỷ điện không tiêu thụ nước. Nhưng khi các hồ thuỷ điện thiếu nước, phải cần thời gian lâu để tích trữ lại lượng nước thiếu vào chuỗi các hồ chứa, những hồ chứa đập thuỷ điện đã “phá vỡ cả một chu kỳ điều hợp thiên nhiên kỳ diệu” của con sông Mekong. Không còn lũ cao / hay đỉnh lũ trong mùa mưa để con sông Tonle Sap có thể chảy ngược dòng vào Biển Hồ, tăng diện tích Biển Hồ lên gấp 5 lần (từ 2.700 km2 mùa khô tới 16.000 km2 mùa mưa). Biển Hồ được ví như một biển dự trữ nước ngọt thiên nhiên khổng lồ tiếp nước cho cả hai vùng châu thổ Tonle Sap / Cam Bốt và ĐBSCL / Việt Nam trong cả hai mùa mưa nắng.  
 
_ Một con sông sinh thái / river ecosystem không đơn giản chỉ có nước mà phải là một dòng chảy bao gồm các sinh vật / biotic (như cây cỏ, rong tảo, sò ốc tôm cá), những vi sinh vật / microorganisms cùng với những vật thể phi sinh khác / abiotic (như cát sỏi phù sa), tất cả cùng tương tác với nhau như một cơ thể sống.  
 
Tác hại của chuỗi đập thủy điện và nay với thêm Con Sông Cờ Đỏ không chỉ cướp nguồn nước mà còn huỷ hoại hệ sinh thái của con sông: chặn nguồn phù sa trong các hồ chứa – mà phù sa là yếu tố bấy lâu bồi đắp tạo dựng nên vùng đồng bằng châu thổ từ hàng bao ngàn năm. Nay cũng nguồn nước ấy khi xuống tới ĐBSCL do “bị đói phù sa”, đã dẫn tới một tiến trình đảo nghịch: thay vì bồi đắp, thì nay lại “ăn đất” gây sạt lở không chỉ các bờ sông mà cả suốt chiều dài 800km vùng ven biển.  
 
_ Rồi còn phải kể tới nạn đất lún do lạm dụng khai thác tầng nước ngầm, cùng với ảnh hưởng của “biến đổi khí hậu” hâm nóng toàn cầu, nước biển dâng, với các hiện tượng El Niño và La Niña khiến các vùng châu thổ là dễ bị tổn thương nhất – trong đó có ĐBSCL, và tất cả đã làm đảo lộn mọi dự đoán về thời tiết thuỷ văn để có thể kịp thời đối phó!
 
 
TRUNG QUỐC VẪN LỐI HÀNH XỬ CÔN ĐỒ
Tháng 2 năm 1972, khi TT Nixon viếng thăm Bắc Kinh, bắt tay với Mao Trạch Đông dọn đường cho một Trung Quốc mở cửa; rồi tiếp theo đó với chính sách “Đổi Mới” của Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng vươn lên như một siêu cường, theo cái nghĩa “nước lớn bá quyền”, và chính Đặng Tiểu Bình đã từng giáng cho Việt Nam một bài học bằng trận chiến tranh đẫm máu nơi biên giới phía bắc (1979).
Và rồi như một chính sách nhất quán, Bắc Kinh đã có một lối hành xử rất côn đồ từ Biển Đông (với Hoàng Sa Trường Sa và với Đường Lưỡi Bò), vào tới đất liền chiếm đoạt nguồn nước, luôn luôn hăm doạ và bắt nạt các “tiểu quốc / nước bé”, bất chấp mọi trật tự và luật pháp quốc tế.  
Bằng chứng là mới đây vào tháng 10/2021 Trung Quốc đã ngang nhiên từ chối ký một “hiệp ước chia sẻ nước / water sharing treaty” với các quốc gia hạ nguồn. [1]
Chia sẻ thông tin, chấp nhận đối thoại chân thành, điều mà các chuyên gia thuỷ học Trung Quốc có thể dễ dàng làm nhưng đối lại vẫn là sự vô cảm.  Không đối thoại, không có tham khảo, trên mọi dự án lớn liên quan tới toàn vùng, cho dù Bắc Kinh biết rằng cách hành xử ấy sẽ tạo nên những mối quan hệ căng thẳng nhưng họ vẫn bất chấp. Với Trung Quốc ngày nay, chỉ có một tiếng nói của sức mạnh. Cuộc đấu tranh để sinh tồn có thể dẫn tới cuộc chiến tranh vì nước ngay trong thế kỷ 21 này.
 
NGÔ THẾ VINH
Mekong Delta 1995 – 2022
 
 
 
1/ _ What’s Behind China’s Latest Mega Hydro-Engineering Project. Genevieve Donnellon-May, Mark Wang. The Diplomat Oct 07, 2021.
   _ Red Flag River and China Downstream Neighbors. Genevieve Donnellon-May, Mark Wang. The Diplomat Oct 23, 2021.  
 
2/ Đồng Bằng Sông Cửu Long và Những Bước Phát Triển Tự Huỷ Hoại. Ngô Thế Vinh. Việt Ecology Foundation May 01, 2018
vietecology.org/article/article/299
 
3/ Mùa Xuân Tây Tạng và Câu Chuyện Những Dòng Sông. Ngô Thế Vinh. Việt Ecology Foundation. Jan 20, 2017
vietecology.org/article/article/197
 
4/ Thoi Thóp Trái Tim Biển Hồ, Miền Tây Đau Thắt Ngực. Ngô Thế Vinh. Việt Ecology Foundation. Nov 7, 2015
vietecology.org/article/article/122