NGÔ THẾ VINH
Dẫn Nhập _ Các dân tộc sống trên lục địa Châu Á ở hạ lưu các dòng
sông từ Tây Tạng và Trung Quốc chảy xuống, trên 1,6 tỉ người này đã phải gánh
chịu hết cả thiệt hại kinh tế nông nghiệp, ngư nghiệp và môi trường các hạ vực
đã bị thoái hóa dần dần suốt nhiều thập niên qua trong khi Trung Quốc hưởng hết
ích lợi nhờ thủy điện vì trên thượng nguồn họ xây hàng trăm con đập, tàng trữ
hàng trăm tỉ mét khối nước, giam hãm 90% phù sa và thay đổi toàn diện dòng chảy
môi sinh trên toàn lưu vực. Nhưng tham vọng Trung Quốc chưa dừng
lại, Trung
Quốc đã bắt đầu xây một đại công trình mang tên Sông Cờ
Đỏ, dài trên 6.180 km để hàng năm chuyển dòng lấy 60 tỉ mét khối nước ngay từ
nguồn không cho xuống hạ lưu sông Mekong, Salween và Brahmaputra. Sông Cờ Đỏ của Trung Quốc là một mối đe doạ tiềm tàng to
lớn, với khả năng gây ra tội ác cho nhân loại – imminent threat to humanity. Trung Quốc tránh không ký bất cứ một
hiệp ước hợp tác sông ngòi quốc tế nào, để họ đơn phương thực hiện những tham
vọng của mình. Không một siêu cường nào trên thế giới ngạo mạn khai thác dòng
nước bất chấp cuộc sống của bao nhiêu triệu cư dân hạ lưu như thế. Việt Ecology Foundation
*
Bắc Kinh có khả năng dùng “vũ khí nước” như một đòn ngoại giao bắt 25% dân
số thế giới làm con tin / holding hostage. Khác với những hồ chứa đập thuỷ
điện, vừa giữ nước vừa xả nước, Sông Cờ Đỏ là một chiến lược đổi dòng lấy nước
– có nghĩa là 100% lượng nước này sẽ bị mất đi – không bao giờ được đền
bù, đối với các quốc gia hạ nguồn. [1]
Hình 1: Quốc gia Tây
Tạng, nơi phát xuất những con sông lớn
của Châu Á: (1) Dương
Tử, (2) Hoàng Hà, (3) Indus, (4) Sutlej, (5) Yarlung Tsangpo
– Brahmaputra, (6) Irrawaddy,
(7) Salween, (8) Mekong.
[nguồn: Bản đồ cập nhật
của Michael Buckley, Meltdown in Tibet, Palgrave MacMillan 2014] [3]
CƠ
THỂ HỌC CÁC CON SÔNG LỚN CHÂU Á
Các con sông lớn như mạch sống của toàn Châu Á đều bắt nguồn từ
Cao nguyên Tây Tạng, còn được mệnh danh là
Cực Thứ Ba của Trái Đất.
_ Đông
Tây Tạng: phía đông là khởi nguồn của hai con sông lớn hoàn toàn
nằm trong lãnh thổ Trung Quốc: (1) sông Dương Tử 6.500 km dài nhất Châu Á chảy về hướng đông theo suốt chiều ngang
lãnh thổ Trung Hoa tới Thượng Hải – Shanghai, (2) sông Hoàng Hà thì chảy về hướng bắc rồi chuyển sang
hướng đông tới Thiên Tân – Tianjin, và cả hai cùng đổ ra biển Trung
Hoa.
_ Tây
Tây Tạng: phía tây bắc, là (3) sông Indus và (4) sông Sutlej chảy về hướng tây nam và giao thoa với ba
con sông khác để hình thành vùng châu
thổ Punjab giữa hai nước Ấn và Hồi. Phía tây nam là (5) sông Yarlung Tsangpo là “con sông cao nhất thế giới”,
với các ghềnh thác xuyên dãy Hy Mã Lạp Sơn, rồi chảy qua Ấn độ, Bhutan và
Bangladesh, con sông đổi tên là sông Brahmaputra trước khi đổ vào Vịnh Bengal, Ấn Độ
Dương.
_ Nam
Tây Tạng: phía nam là ba con sông (6) sông
Irrawaddy và (7) sông Salween chảy
xuống Miến Điện theo hướng bắc nam trước khi đổ vào Biển Andaman. Riêng con (8) sông
Mekong chảy qua nhiều quốc gia với nhiều tên khác nhau, từ Tây Tạng: có tên Dza-Chu có nghĩa “nguồn nước của đá”, tiếp tục chảy về hướng nam băng qua
những hẻm núi sâu của tỉnh Vân Nam với tên Trung Hoa là Lan
Thương Giang / Lancang
Jiang “con sông
xanh cuộn sóng”, qua đến
biên giới Lào Thái mang một tên khác Mae
Nam Khong “con sông
mẹ”, xuống
Cam Bốt lại mang một tên khác nữa Tonle
Thom “con sông lớn”, cuối cùng chảy qua Việt Nam mang tên Cửu Long với hai nhánh chính là sông Tiền và sông Hậu đổ ra Biển Đông trước kia bằng chín cửa sông, nhưng nay chỉ còn bảy. [Hình
1]
TÂY
TẠNG KHÔ HẠN CHÂU Á CHẾT
Và cũng dễ hiểu tại sao, bằng mọi giá Trung
Quốc phải chiếm cho bằng được Tây Tạng – vùng cao nguyên chiến lược vô cùng
quan trọng, giàu có về nguồn nước, phong phú về tài nguyên thiên nhiên – đó
cũng là “định mệnh sinh học – biological
destiny” của Tây Tạng, một quốc gia nhỏ bé với chưa tới 1,5 triệu dân bản
địa (thống kê 1965, dân số gốc Tây Tạng 1,321,500; Leo A. Orleans, The China Quarterly Jul-Sep, 1966) và đang bị
Hán hoá, người Tây Tạng nay đã trở thành thiểu số ngay trên đất nước mình.
Phải chứng kiến tốc độ tàn phá sinh cảnh
Tây Tạng, ngay nơi đầu nguồn, các con sông lớn Châu Á đang bị
Trung Quốc khai thác một cách triệt để với
những đập thuỷ điện, cùng với nạn phá rừng tự sát /
suicidal deforestation, tới các kế hoạch khai thác hầm mỏ đại quy mô, gây ô
nhiễm nguồn nước. Hiện tượng biến đổi khí hậu với khí
thải từ các nhà máy đốt nhiên liệu hoá
thạch đang gây hiệu ứng nhà kính khiến khối băng tuyết tưởng như vô tận nơi cực thứ ba trái đất đang nhanh
chóng bị đẩy lùi và tan rã.
Cũng để thấy rằng, những
con sông Châu Á từng nguyên sinh trong thế
kỷ trước thì nay đã biến dạng suy thoái
và không còn như xưa nữa.
Cảnh tượng ấy khiến Đức Dalai Lama đang lưu
vong phải thốt lên lời kêu cứu và ông đã chọn ưu tiên bảo vệ môi sinh thay vì những vấn đề
chính trị nóng bỏng. Trong một
lần gặp gỡ với Đại sứ Hoa Kỳ Timothy
Roemer ở New Delhi, thủ đô Ấn Độ vào
tháng 8/2009, Đức Dalai Lama nói rằng:
"Lịch trình chính trị có thể hoãn lại 5 -10 năm nhưng cộng đồng quốc tế
cần tập trung quan tâm tới biến đổi khí hậu trên Cao nguyên Tây Tạng: khối băng
tuyết đang tan rã, nạn phá rừng, và ô nhiễm nguồn nước do những dự án khai thác
hầm mỏ, là những vấn đề cấp thiết, không thể chờ đợi." [nguồn: Wikileaks Cables, the Guardian 10
Aug. 2009]
Bắc Kinh
xác nhận là sẽ xây thêm các con
đập thuỷ điện lớn trên
thượng nguồn sông Yarlung Tsangpo – Brahmaputra, trước
khi con sông xuyên quốc gia ấy chảy
sang Ấn Độ, Bhutan và Bangladesh. Brahmaputra
là dòng sông huyết mạch của ba quốc gia này.
Khi các công trình hoàn tất, tổng công suất / total capacity của những con đập thủy điện trên Cao nguyên Tây Tạng sẽ “nhiều lần lớn hơn”
công suất con đập Tam Hiệp (Three Gorges Dam): 22.500 megawatts, lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử.
Hình 2:
Bích chương của Hội Phụ nữ Tây Tạng: Hâm Nóng Toàn Cầu
trên Cao nguyên Tây
Tạng; Nếu Tây Tạng khô hạn, Châu Á chết. [3]
Cho dù đang có những mối lo âu về sự tồn vong của quê hương Tây
Tạng nhưng Đức Dalai Lama rất quan tâm tới những vấn đề chung của nhân loại.
Ông nói tới vấn đề môi sinh rất sớm với tầm
nhìn xa và trong mối tương quan toàn cầu và “phải làm sao giữ
xanh hành tinh” này, qua thông điệp nhân Ngày Môi Sinh Thế Giới / World Environment Day [ngày
05.06.1986]:
“Hòa bình và sự sống trên trái đất đang bị đe dọa bởi những hoạt
động của con người thiếu quan tâm tới những giá trị nhân bản. Hủy hoại thiên
nhiên và các nguồn tài nguyên thiên nhiên là do hậu quả của lòng tham lam và
thiếu tôn kính đối với sự sống trên hành tinh này... Chúng ta dễ dàng tha thứ
cho những gì đã xảy ra trong quá khứ do bởi u minh. Nhưng ngày nay do hiểu biết
hơn, chúng ta phải duyệt xét lại với tiêu chuẩn đạo đức là phần gia tài nào mà
chúng ta thừa hưởng, phần nào chúng ta có trách nhiệm sẽ truyền lại cho thế hệ
mai sau." [3]
SÔNG CỜ ĐỎ / HỒNG KỲ HÀ 红旗河
MỘT
KHỦNG LONG CỦA BẮC KINH
Từ mấy thập niên qua, ai cũng đã biết Trung Quốc đã và đang xây thêm hàng trăm đập thủy điện trên khắp các dòng sông với những hồ chứa nước khổng lồ,
ngăn chặn phù sa làm đảo lộn toàn hệ sinh thái, tác động
đến sinh kế của bao nhiêu triệu cư dân dưới
nguồn.
Nay tiến
thêm một bước đột phá nữa, Trung
Quốc đang có thêm một kế hoạch vĩ mô / mega project, vô cùng táo
bạo – khai mở
một con sông nhân tạo: Sông Cờ Đỏ / Red Flag River, lớn nhất thế giới xuyên lưu vực, kết nối
với mạng
lưới sông thiên nhiên của Châu Á, nhằm chuyển nước về hướng Bắc củng cố nền an ninh
nguồn nước – cũng là nguồn an ninh lương thực của Trung Quốc. Với dự án Sông Cờ Đỏ dài 6.180 km này, Trung Quốc hàng năm sẽ giành thêm được 60 tỉ mét khối nước –
có nghĩa là các quốc gia khác sẽ mất đi lượng nước sinh hoạt
thiết yếu này.
Không tham khảo với các quốc gia láng giềng, có thể nói Trung Quốc với hơn 1.4 tỉ dân đã đơn phương khai mào một trận chiến môi sinh không tiếng súng và sẽ gieo hoạ cho 1,6 tỉ người thuộc các dân tộc lân bang chung sống với họ trên lục địa Châu Á.
Sông Cờ Đỏ có tham vọng chuyển 60 tỉ mét khối nước hàng
năm tương đương với 21% lượng nước đầu nguồn hàng năm tại ba con sông xuyên
quốc gia / transnational rivers: Mekong, Salween và Brahmaputra. Lượng nước quý
giá này chính là nguồn sống, sinh kế của các dân tộc Nam Á, và Đông Nam Á vẫn
phải dựa vào số nước ấy sẽ được chuyển tới vùng Tân Cương – Xinjiang phía bắc và
tây bắc Trung Quốc.
Dự án Sông Cờ Đỏ xuyên lưu vực này sẽ gây chấn động dư luận nơi các quốc
gia lân bang – đặc biệt là Ấn Độ, quốc gia có dân số đông thứ hai chỉ sau Trung
Quốc.
Những nước dưới hạ nguồn sẽ phải rất quan
tâm trước một viễn tượng có thể khó lường. Do Tây Tạng có nước chảy xuống là nhờ
mưa và tuyết tan khi trời ấm, mức nước và lưu lượng sẽ cao nhất từ tháng hai
cho đến tháng bảy, cho 70% tổng số nước cả năm, khi đó là thời gian tối ưu cho
con Sông Cờ Đỏ dựa vào thế năng và động năng cao để chuyển dòng và chiếm đoạt
nhiều nước nhất. Các nước hạ lưu cùng lúc đó lại đang vào mùa khô, vì thế sau
khi Sông Cờ Đỏ hoạt động, hạn hán giáng xuống hạ lưu chắc chắn sẽ khắc nghiệt
hơn nữa. Lúc đó họ chỉ còn biết dựa vào lòng tử tế của Trung Quốc, điều mà
người Tây Tạng, Ngô Duy Nhĩ, Việt Nam đã từng được nếm trải.
Vì thế Sông Cờ Đỏ của Trung Quốc đã tiềm
tàng một mối đe doạ to lớn, gần như tội ác cho nhân loại – imminent threat to
humanity. Trung Quốc đã tránh không ký bất cứ một hiệp ước hợp tác sông ngòi
quốc tế nào, để họ không bị ràng buộc có thể đơn phương thực hiện những tham
vọng của mình. Không một siêu cường nào trên thế giới ngạo mạn khai thác dòng nước
bất chấp cuộc sống của bao nhiêu triệu cư dân hạ lưu như thế.
Riêng Việt Nam thì sao?
Vẫn là sự im ắng “truyền thống” cho dù Sông Cờ Đỏ sẽ lấy nước sông
Mekong từ ngay nơi đầu nguồn.
Trung Quốc “vĩ đại” theo nhiều ý nghĩa, thể hiện cho tinh thần Đại Hán ấy
trong quá khứ đã có Vạn Lý Trường Thành, là một trong bảy kỳ quan của thế giới.
Nay với tiến bộ khoa học kỹ thuật, Trung Quốc còn thực hiện thêm những công
trình mới có tầm vóc thế giới: đập thuỷ điện Tam Hiệp trên sông Dương Tử lớn
nhất thế giới, và nay Sông Cờ Đỏ sẽ là
con sông nhân tạo chuyển dòng lấy nước cũng lớn nhất thế giới với chi phí tốn
kém nhất thế giới. Đây là một đại công trình làm thay đổi cả diện mạo của lục
địa Châu Á. Với sẵn nguồn nhân lực, với quyết tâm và có khả năng kỹ thuật
cao, Bắc Kinh có thể dư sức thực hiện Dự án Sông Cờ Đỏ này. Nhưng với cái giá
nào phải trả của các quốc gia lân bang thì không được Bắc Kinh quan tâm tới.
Hình 3a: Sông Cờ Đỏ với Dự án chuyển nước vĩ mô
“tam tung, tứ hoành / ba dọc, bốn
ngang”; (a) đường đen mỏng: các dòng sông lớn;
(b) đường đen đậm: Sông Cờ Đỏ và
hai nhánh chính nối với các con sông thiên nhiên trong dự án
chuyển nước nối lưu vực nam-bắc của Trung Quốc; (c) đường đen đậm đứt quãng gần:
đường dẫn nước nam-bắc trong Dự án
Chuyển Nước Nam-Bắc / SNWTP /
South-North
Water Transfer Project; (d) đường đen đậm đứt quãng xa: trong kế hoạch thực hiện.
[nguồn: Bản đồ của Genevieve Donnellon-May và Mark Wang trên The Diplomat
Oct. 7, 2021,
với thêm ghi chú tiếng Việt của người viết]
Hình 3b: GS Vương Hạo (Wang Hao),
Chủ tịch Nhóm Chuyên gia trong cuộc Hội thoại
về “Sông Cờ Đỏ” – một dự án vĩ đại của Trung Quốc – đã ngạo mạn phát biểu:
“Ít nhất trên quy mô ngàn năm /
thiên niên kỷ, Dự án Sông Cờ Đỏ sẽ đem lại
những lợi ích vượt xa hơn là những
tác hại.”
LỊCH
SỬ SÔNG CỜ ĐỎ VỚI “TAM TUNG TỨ HOÀNH”
Dự án này được soạn thảo bởi “nhóm nghiên cứu S4679” của Đại học Thanh
Hoa / Tsinghua ở Bắc Kinh – được so sánh như một Harvard của Đông phương; do
giáo sư Vương Hạo / Wang Hao là kỹ sư trưởng của Viện Nghiên Cứu Tài nguyên
Nước và Thuỷ điện của Trung Quốc.
Sông Cờ Đỏ là một hệ thống thuỷ lợi với dòng chảy trọng lực / gravity flow water
diversion system, lấy nước từ các con sông trên cao nguyên Tây Tạng [được
mệnh danh là “nóc của thế giới” với độ cao trung bình 4.500 m trên mặt biển],
dẫn vào một đường kênh chính / main channel đưa nước tới vùng Tân Cương /
Xinjiang khô cằn – có khả năng “biến Tân
Cương thành một California Made in China xanh tươi trù phú”, đồng thời cũng
dùng con sông nhánh Chunfeng dẫn một lượng nước khổng lồ vào lưu vực Turpan tới
vùng bắc Tân Cương. [Hình 3a,b]
Công trình thuỷ lợi Sông Cờ Đỏ còn đem nước
tới Tân Cương và các tỉnh phía tây
bắc như Cam Túc / Gansu, Ninh Hạ / Ningxia. Các tỉnh này nếu có
nguồn nước sẽ trở thành một vùng sản xuất nông nghiệp lớn nhất nước. Ước tính
là lượng nước cung cấp cho các tỉnh tây bắc sẽ nhiều hơn lưu lượng nước hàng
năm của con sông Hoàng Hà / Yellow River đổ ra biển. Dự án này sẽ tạo thêm được
13,3 triệu hectares diện tích canh tác ở Tân Cương và thêm 130.000 km2
các ốc đảo / oasis xanh tươi ở vùng tây bắc Trung Quốc.
Ngoài những lợi ích về canh nông kể trên,
Sông Cờ Đỏ còn bảo đảm an toàn nguồn nước cho Trung Quốc. Với Kế hoạch Dự án Chuyển Nước Nam-Bắc / SNWTP / South-North Water Transfer Project,
Trung Quốc tạo được một mạng lưới nước /
water grid system có tên là “tam
tung tứ hoành / 三纵四横 / ba dọc bốn ngang”:
_ Tam
tung / sanzhong / ba dọc: là 3 tuyến dẫn nước từ nam lên bắc; 2 tuyến trung
và đông đã hoàn thành, tuyến tây đang triển khai. Khi tuyến phía tây này hoàn
tất, sẽ có 17 tỉ mét khối nước được chuyển từ thượng nguồn sông Dương Tử sang
sông Hoàng Hà ngay từ trên cao nguyên Tây Tạng, có khả năng phục sinh con sông Hoàng
(Hà) đang bị cạn kiệt.
_ Tứ
hoành / siheng / bốn ngang: là 4 dòng sông chảy từ tây sang đông là: Hoàng Hà
(Yellow river), Hoài Hà (Huai river), Dương Tử (Yangtze river) và Hải Hà (Haihe
river)
Hệ thống “Tam Tung Tứ Hoành” này sẽ bảo đảm cung cấp nguồn nước cho thủ đô Bắc Kinh và
các thị trấn lớn vùng bình nguyên phía bắc Trung Quốc.
Ngoài ra, Sông Cờ Đỏ còn có thêm hai kênh
sông Hồng Duyên / Hongyan Hà dẫn
nước đến Diên An / Yan’an phía bắc tỉnh Thiểm Tây / Shaanxi, và sông Mạc Bắc / Mobei dẫn nước vào Nội Mông
và cả Bắc Kinh. Cũng qua kênh sông Mạc
Bắc, Sông Cờ Đỏ cung cấp nguồn nước cho vùng đồng bằng phía bắc Trung Quốc,
và qua nhánh sông Hồng Duyên cung
cấp nước cho lưu vực Tứ Xuyên / Sichuan Basin. [Hình 3a,b]
Đây là một bức tranh quy hoạch
thuỷ lợi cực lớn – không chỉ tạo ra một hệ thống cấp
nước mới cho vùng tây bắc
Trung Quốc mà còn kết nối với hệ thống mạng lưới
nước quốc gia để có "bảo đảm kép" về mặt chiến lược
cung cấp nguồn nước cho
Bắc Kinh và vùng bắc Trung Quốc. [1]
VẪN
BIỆN HỘ CHO TRUNG QUỐC
Rồi ra, chúng ta sẽ không ngạc nhiên nếu vẫn
có một số vị tiến sĩ hay trí thức khoa bảng trong và cả ngoài nước – sẽ hành xử
như những luật sư tự nguyện bào chữa cho Bắc Kinh rằng: Đừng đổ lỗi cho Trung Quốc. Họ vẫn chỉ biết dựa vào một con số đơn
giản, cho rằng chỉ có 16% số lưu lượng sông Mekong đổ xuống từ Trung Quốc. Và
nay, Sông Cờ Đỏ có lấy thêm đi mấy phần trăm % của con số 16% ấy thì nạn hạn
hán nếu có xảy ra cũng không phải lỗi Trung Quốc.
Thực tế vào mùa khô khi nước khan hiếm nhất,
lượng nước từ Trung Quốc xuống Mekong lên tới 40% và 70%, gấp hai tới bốn lần
hơn con số họ cố ý trích dẫn. [nguồn: https://www.lowyinstitute.org/the-interpreter/china-eyes-its-next-prize-mekong]
Và người ta vẫn có thể
tự ru ngủ mà bảo rằng: tranh chấp nước
“trên nguồn – dưới nguồn / upstream – downstream” bấy lâu vẫn là chuyện bình
thường, ngay cả giữa các địa phương trong cùng một quốc gia.
Có cần nhắc với họ không là năm 2016, nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng của
Việt Nam đã phải lên tiếng cầu cứu xin Trung Quốc xả nước từ con đập Cảnh Hồng
/ Jinhong để cứu đại hạn nơi ĐBSCL lúc đó, và cuối cùng cũng không đạt hiệu quả
nào!
Hình 4: trái, Hạn hán khắc nghiệt nơi ĐBSCL năm 2016, khiến Thủ
Tướng
Nguyễn Tấn
Dũng lúc đó phải lên tiếng cầu cứu Trung Quốc cho xả nước từ hồ chứa
đập thuỷ điện
Cảnh Hồng nhưng không đạt hiệu quả nào; phải, Cái bắt tay “hữu nghị” của
Tập Cận Bình –
lúc đó là Phó Chủ tịch TQ và TT Nguyễn
Tấn Dũng tháng 12/2011.
[nguồn: trái,
VN Express 3/11/2016]
SÔNG CỜ ĐỎ VỚI TRÁI TIM
BIỂN HỒ VÀ ĐBSCL
Tuy dự án Sông Cờ Đỏ
S4678 không được công bố chính thức nhưng chắc chắn sẽ gây ra sự quan tâm rộng
rãi. Cao nguyên Tây Tạng vốn được coi là một vùng sinh thái trù phú nhưng cũng
rất mong manh và dễ bị tổn thương.
Sông Cờ Đỏ chắc chắn làm
giảm thêm nguồn nước của các con sông xuyên quốc gia – trong đó có sông Mekong.
Rõ ràng, Sông Cờ Đỏ sẽ đem lại cho Trung Quốc một
thứ “siêu quyền lực” bá chủ về nguồn nước
/ hydro-hegemony trên toàn Châu Á, với “quyền sinh sát tắt mở vòi nước” theo ý mình
– nhất là khi Bắc Kinh muốn cho các nước nhỏ “một bài học” – vẫn nói theo ngôn
từ của Đặng Tiểu Bình.
Ngoài nước lớn là Ấn Độ,
có đủ sức đối trọng với Trung Quốc, hầu như chưa có các quốc gia hạ nguồn nào
khác chính thức lên tiếng – Riêng với Uỷ
Ban Mekong Việt Nam – 23 phố Hàng Tre Hà Nội, cách ĐBSCL hơn 1.600 km, thì
vẫn là sự im lặng hay hoàn toàn bị động.
Vẫn với một khuôn mẫu
hành xử bấy lâu, chưa bao giờ Bắc Kinh muốn chia sẻ thông tin / hay muốn thực
lòng tham khảo với các quốc gia hạ nguồn về dự án Sông Cờ Đỏ S4679, chắc chắn
sẽ có ảnh hưởng huỷ hoại lâu dài đối các dòng sông xuyên quốc gia này.
Theo ước tính của hai tác giả Genevieve Donnellon-May
/ Đại Học Singapore và Mark Wang / Đại học
Melbourne, thì Bắc
Kinh có khả năng dùng “vũ khí nước” như một đòn ngoại giao bắt 25% dân số thế
giới làm con tin / holding hostage. Khác với những hồ chứa đập thuỷ điện, vừa
giữ nước vừa xả nước, Sông Cờ Đỏ là một chiến lược đổi dòng lấy nước – có nghĩa
là 100% lượng nước này sẽ bị mất đi – không bao giờ được đền bù, đối với các quốc gia hạ nguồn. [1]
_ Tình
trạng “đói lũ” ở ĐBSCL đã xảy ra thường xuyên hơn trong những năm gần đây. Lũ – mùa nước nổi xuống ĐBSCL, phụ thuộc
chính vào lượng nước mưa từ thượng nguồn sông Mekong. Nếu mưa ít ở lưu vực
trên / upper basin, kéo theo nạn thiếu nước trong hàng trăm các hồ chứa thuỷ
điện, thì khi tới mùa mưa nước sẽ bị chặn lại trong các hồ chứa – thay vì lượng
nước mưa ấy ồ ạt theo dòng sông xuôi chảy xuống hạ lưu. Hậu quả là sông Mekong
sẽ thiếu nước, gây tình trạng hạn hán trên toàn hệ thống sông rạch.
_ Do đó sẽ rất ngây thơ
để bảo rằng 16% lưu lượng nước từ Trung Quốc là không đáng kể, và cho rằng các
hồ thuỷ điện không tiêu thụ nước. Nhưng khi các hồ thuỷ điện thiếu nước, phải
cần thời gian lâu để tích trữ lại lượng nước thiếu vào chuỗi các hồ chứa, những hồ chứa đập thuỷ điện đã “phá vỡ cả
một chu kỳ điều hợp thiên nhiên kỳ diệu” của con sông Mekong. Không còn lũ
cao / hay đỉnh lũ trong mùa mưa để con sông Tonle Sap có thể chảy ngược dòng
vào Biển Hồ, tăng diện tích Biển Hồ lên gấp 5 lần (từ 2.700 km2 mùa
khô tới 16.000 km2 mùa mưa). Biển Hồ được ví như một biển dự trữ
nước ngọt thiên nhiên khổng lồ tiếp nước cho cả hai vùng châu thổ Tonle Sap /
Cam Bốt và ĐBSCL / Việt Nam trong cả hai mùa mưa nắng.
_ Một con sông sinh thái / river ecosystem không đơn giản chỉ có nước
mà phải là một dòng chảy bao gồm các sinh vật / biotic (như cây cỏ, rong tảo, sò
ốc tôm cá), những vi sinh vật / microorganisms cùng với những vật thể phi sinh khác
/ abiotic (như cát sỏi phù sa), tất cả cùng tương tác với nhau như một cơ thể
sống.
Tác hại của chuỗi đập thủy điện và nay với thêm Con
Sông Cờ Đỏ không chỉ cướp nguồn
nước mà còn huỷ hoại hệ sinh thái của con sông: chặn nguồn phù sa trong các hồ
chứa – mà phù sa là yếu tố bấy lâu bồi đắp tạo dựng nên vùng đồng bằng châu thổ
từ hàng bao ngàn năm. Nay cũng nguồn nước ấy khi xuống tới ĐBSCL do “bị đói phù sa”, đã dẫn tới một tiến trình đảo nghịch: thay vì
bồi đắp, thì nay lại “ăn đất” gây sạt lở không chỉ các bờ sông mà cả suốt chiều
dài 800km vùng ven biển.
_ Rồi còn phải kể tới
nạn đất lún do lạm dụng khai thác tầng nước ngầm, cùng với ảnh hưởng của “biến
đổi khí hậu” hâm nóng toàn cầu, nước biển dâng, với các hiện tượng El Niño và
La Niña khiến các vùng châu thổ là dễ bị tổn thương nhất – trong đó có ĐBSCL, và
tất cả đã làm đảo lộn mọi dự đoán về thời tiết thuỷ văn để có thể kịp thời đối
phó!
TRUNG
QUỐC VẪN LỐI HÀNH XỬ CÔN ĐỒ
Tháng 2 năm 1972, khi TT
Nixon viếng thăm Bắc Kinh, bắt tay với Mao Trạch Đông dọn đường cho một Trung
Quốc mở cửa; rồi tiếp theo đó với chính sách “Đổi Mới” của Đặng Tiểu Bình,
Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng vươn lên như một siêu cường, theo cái nghĩa
“nước lớn bá quyền”, và chính Đặng Tiểu Bình đã từng giáng cho Việt Nam một bài
học bằng trận chiến tranh đẫm máu nơi biên giới phía bắc (1979).
Và rồi như một chính
sách nhất quán, Bắc Kinh đã có một lối hành xử rất côn đồ từ Biển Đông (với
Hoàng Sa Trường Sa và với Đường Lưỡi Bò), vào tới đất liền chiếm đoạt nguồn
nước, luôn luôn hăm doạ và bắt nạt các “tiểu quốc / nước bé”, bất chấp mọi trật
tự và luật pháp quốc tế.
Bằng chứng là mới đây vào tháng 10/2021 Trung
Quốc đã ngang nhiên từ chối ký một “hiệp
ước chia sẻ nước / water sharing treaty” với các quốc gia hạ nguồn. [1]
Chia sẻ thông tin, chấp nhận đối thoại chân
thành, điều mà các chuyên gia thuỷ học Trung Quốc có thể dễ dàng làm nhưng đối
lại vẫn là sự vô cảm. Không đối thoại,
không có tham khảo, trên mọi dự án lớn liên quan tới toàn vùng, cho dù Bắc Kinh
biết rằng cách hành xử ấy sẽ tạo nên những mối quan hệ căng thẳng nhưng họ vẫn
bất chấp. Với Trung Quốc ngày nay, chỉ
có một tiếng nói của sức mạnh. Cuộc đấu tranh để sinh tồn có thể dẫn tới cuộc
chiến tranh vì nước ngay trong thế kỷ 21 này.
NGÔ
THẾ VINH
Mekong Delta 1995 – 2022
1/ _ What’s Behind China’s Latest Mega Hydro-Engineering Project. Genevieve
Donnellon-May, Mark Wang. The Diplomat Oct 07, 2021.
_ Red Flag River and China Downstream
Neighbors. Genevieve Donnellon-May, Mark Wang. The Diplomat Oct 23, 2021.
2/ Đồng Bằng Sông Cửu Long và Những Bước Phát Triển Tự Huỷ Hoại. Ngô Thế
Vinh. Việt Ecology Foundation May 01, 2018
vietecology.org/article/article/299
3/ Mùa Xuân Tây Tạng và Câu Chuyện Những Dòng Sông. Ngô Thế Vinh. Việt
Ecology Foundation. Jan 20, 2017
vietecology.org/article/article/197
4/ Thoi Thóp Trái Tim Biển Hồ, Miền Tây Đau Thắt Ngực. Ngô Thế Vinh. Việt
Ecology Foundation. Nov 7, 2015
vietecology.org/article/article/122
No comments:
Post a Comment