Monday, May 13, 2024

CHIỀU CHIỀU

Nguyễn Tôn Nhan
 
Nguyễn Tôn Nhan (phải) và Nguyễn Lương Vỵ
dưới bóng Thánh Ca
 
Sáng hôm nay mặt trời xanh
Nàng giữ trên môi bông tuyết nhỏ
Lá trong vườn từng lưỡi dao găm
Nàng giữ trên tay bông tuyết đỏ
Chim không bay đến mái hồn tôi
Nơi cô đơn rêu ngàn năm đã phủ
Nơi vinh diệu những kẻ u buồn
Nơi sáng hôm nay của tôi của nàng
Của hai kẻ đem phơi hồn ủ rũ
Chiều tôi trở về trên đồi cây
Dưới cành khô có bóng nàng treo cổ.
NTN
 

Sunday, May 12, 2024

LẠI CHUYỆN CHIẾN TRANH.

Tố Nghi
 
Israel-Palestine
 
Thinh không chiến tranh do thái-palestien tiến thẳng dô trại bịnh hổng thèm hụ còi nhấp thắng. Tui phải tất tả nhọc nhằn màn giữ hoà bình trị an, tốn sức lao động hết biết. Kết quả: đài phát thanh kiêm hãng thông tấn nội địa sanh tắc tiếng, tới độ chưa kịp khai bút đầu năm, cũng bởi thời giờ công sức đã dồn hết vô cuốn cựu ước kiếm vốn liếng hành nghề... tối cao pháp viện!
Số là... hai tên đồng sự thân tình trong sở, từng thề thốt màn "sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng tình bạn là chơn lý muôn đời". Rồi cái lý có chơn nọ, do phải bước miết đoạn đường dài sỏi đá khấp khuỷu gập gình nên sanh mỏi mệt, chơn bèn quẹo cua tìm hướng đi mới, thế là... hai đứa hai nơi ! Thỉnh thoảng đụng nhau trong ICU intense care unit (có tui đứng thị uy) chúng ngó nhau chằm chằm, hận thù dâng trào khoé mắt. Và ICU đã thành lò lửa chiến tranh cục bộ.
Tại sao ha? Thưa một kép là do thái, kép kia palestine, chung trường lớp, tốt nghiệp chung lượt và chọn chung nhiệm sở, thân thiết còn hơn ruột thịt. Nhưng đây là thuở sách đèn bận bịu, tâm hồn trong trắng chưa vẩn đục gió bụi thời gian và mầm mống chia rẽ tôn giáo chủng tộc. Rồi thì... chiến tranh đang đực cái âm ỉ tận đẩu đâu, thinh không bùng dậy. Chiến tranh từ bển kéo rốc sang, lừng lững tiến thẳng vô trại bịnh để tui vất vả màn canh chừng củi lửa, cũng bởi thằng do thái cô đơn mình ên, lạng quạng dám đi đứt !
Từ ba thập niên nay, di dân đổ qua lập nghiệp sanh sống rất đông. Đâu hổng biết chớ ngay cái-mông (lệ an) này, trong lãnh vực y tế, đám y công hầu như tuyền philippin haitian, còn aid-nurse và nurse tuyền trung đông ả rập - và đây là một trong những sắc thái ngộ nghĩnh dị biệt sắc tộc xã hội. Bởi vậy, chẳng may đụng gươm đụng giáo tại chỗ thì cái thằng bán chúa nọ, bảo đảm bình hổng trầy sứt cũng "rò rỉ". Thủ phạm nếu hổng tên palestine thì cũng đám cháu chít cùng cụ bành tổ ismael của nó.
Dĩ nhiên thằng do thái biết thân biết phận, có chi chỉ kéo Dr nô ra góc bỏ nhỏ than phiền, nhưng vừa nghe rồi là y phép phải day sang nghe tiếp bọn ả rập. Hồi đầu còn sức nên còn hăng, vừa nghe vừa cho ý kiến (... trung lập). Nhưng nghe miết sanh hồi hộp loạn nhịp tim, cạn hứng lẫn cạn sức. Khổ thân cho mệ nhọn mỏ, "hạ quyết tâm" ôm cựu ước chăm chỉ đọc, để còn răn đe cả hai bên. Rồi... teng teng teng tèng... dr nô bổng trở thành chiêng-da cựu ước, rành rẽ lịch sử loài người thời cổ đại, cả ả rập lẫn do thái.  Phải chăm chỉ đọc đăng còn hầu chuyện bọn ruồi bu nọ. Chúng nhứt định đổ lỗi cho nhau, rằng tui là nạn nhơn, bị tui hổng là người... gây hấn trước !
Chiến trận trump-biden còn dang dở chưa xong, thì cuộc chiến israel-palestine ập tới, dữ dội ồn ào gấp bội, hai kép đồng sự do thái-palestine, mỗi bữa thiếu điều mần màn sống mái. Một bữa gây cấn quá, muốn nổ tung trại bịnh, tui tống chúng ra, cho đứa con dao mổ, biểu xáp lá cà ngoài sân cỏ bịnh viện, trong này thuốc men băng ca sẵn sàng, chờ lượm xác đồng nghiệp, tử vì nước lẫn vì đạo. Ban giám đốc hay tin, chúng đuổi tuốt hai thằng, cấm đi làm trở lợi, còn tui chúng làm lơ.
Nay thì... sở cho do thái palestine nghỉ dài hạn thiếu lương đề phòng bất trắc - tuy bị cấm vô sở đi mần, nhưng vẫn có quyền ra phòng mạch tư, tiền vừa nhiều vừa khoẻ re - Kết quả là... tui phải một hơi làm 3 full time jobs, ngày đêm miệt mài. Nạn nhơn trực tiếp trong cuộc chiến do thái palestine tại đất cái-mông ni,  chừ là đôi lứa đang ủ rũ nơi đây. Làm ngày hổng đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm ngày nghỉ. Ngồi miết tới trĩ lòi cả ra ngoài ! Trĩ heng, hổng phải cọng rau muống!
TỔ NGHI
 

CON ĐƯỜNG. LA STRADA

nguyễnxuânthiệp
 
Poster phim La Strada

Con đường nào chúng ta đã đi chung
nàng thơ của tôi. tên bạo chúa. gã khùng ơi
gelsomina. zampano. the fool
ôi. tiếng kèn. đã tắt trên môi em
và biển sẽ xóa hết. dấu chân. những người một thời yêu nhau
cùng đi chung một con đường. la strada
(NXT)
     Đã có nhiều tác giả viết về Con Đường - La Strada: Nguyễn Nam Châu, Lữ KIều, Nguyện Thị Hải Hà, Sâm Thương, Trần Hoài Thư… Thơ trên là của Nguyễn tôi. Sở dĩ nhiều người yêu thích và viết về cuốn phim La Strada vì trước hết đó là một phim hay, cực hay, có dính với nụ cười và nước mắt của một thời trẻ tuổi của mỗi người. Mới đây, khi gặp lại Lữ Kiều, nhân bàn về Ca khúc Les Feuilles Mortes của Joseph Kosma và Jacques Prevert, nhớ lại những năm tháng tuổi trẻ và con đường mà mình và bạn bè đã đi qua. Vậy cho nên Nguyễn tôi về chép lại bài đã viết tự năm nào để tặng bạn mình.
  
     Phim La Strada của đạo diễn lừng danh người Ý Federico Fellini đã ám ảnh tôi những năm trẻ tuổi. Hồi đó, Nguyễn này vừa mới rời trường Quốc Học bước chân vào Sài Gòn mê những hàng me đường Catinat và phố xá rực rỡ, bước chân qua các giảng đường đại học. Tuổi mới đôi mươi, lòng còn trong trắng, yêu đời như yêu những giấc mộng. Thế rồi bỗng bàng hoàng rơi lệ khi cùng người xem phim La Strada.
 
     Ôi, Federico Fellini người nghệ sĩ bi thảm của thời đại chúng ta. Người đã mở ra dòng phim mới với những tuyệt phẩm: La strada (1954), Le notti di Cabiria (1957), La Dolce Vita (1960), Amarcord (1973) -số lớn trong đó đã đoạt Oscars. Riêng bản thân Fellini đã giành giải Oscar về sự nghiệp thành tựu trọn đời vào năm 1993. Là một trong những thiên tài điện ảnh, Federico Fellini đã từng ảnh hưởng đến nhiều đạo diễn Âu Mỹ như Stanley Kubrick, Martin Scorsese, David Lynch hay Pedro Almodovar. Hôm 20/01/2020 vừa qua đánh dấu 100 năm ngày sinh của đạo diễn Fellini, từng được các điện ảnh gia người Mỹ mệnh danh là ‘bậc thầy’ Maestro.
      Mà không riêng kẻ này ngưỡng mộ Fellini và mê La Strada, còn có những cây bút khác như đã nhắc trên. Nguyễn Nam Châu, Lữ Kiều, Nguyễn Thị Hải Hà, Sâm Thương… Và giờ đây, Trần Hoài Thư đang chuẩn bị Thư Quán Bản Thảo ra số chủ đề về Fellini và tuyệt phẩm La Strada. Lữ Kiều: “Bài viết của NNC về Fellini với phim LA STRADA vẫn còn làm tôi xao xuyến mỗi lần nhớ lại. Hình như tôi đã nhiều lần nhắc đến nàng Gelsomina trong những bài văn thời trẻ của mình, nhờ NNC đó.” Trần Hoài Thư: “Vừa đánh máy mà vừa rưng rưng. Con đường của Fellini là con đường mang ý nghĩa triết lý của kiếp nhân sinh: Con đường cũng như cuộc đời, tự nó không biết khởi điểm từ đâu, mà cũng không rõ sẽ ngừng lại chỗ nào. Nó bắt đầu từ cuộc đời của những kiếp người. Người ta vào cuộc đời như người ta khởi sự lên đường. Có lần ta tạm biết mơ hồ mục-đích của cuộc hành-trình và thoáng thấy mình sẽ có ngừng lại ở điểm nào đó trên con đường, nhưng người ta không biết hết được những điều mình sẽ gặp gỡ trên nẻo đường muôn hướng đó, bởi vì Con Đường cũng có nghĩa là sự Gặp Gỡ giữa muôn vàn ngả đường. Cuộc đời cũng thế: Cuộc đời là sự gặp gỡ giữa các tâm hồn. (trích từ bài viết của NNC)
 
      Bây giờ, xin về với nội dung phim La Strada: Câu chuyện được Federico Fellini kể lại bằng một bút pháp điện ảnh đặc biệt. Nhân vật chính trong phim là Gelsomina do nữ diễn viên Ý, Giulietta Masina, thủ vai. Ôi, đôi mắt cô bé tròn xoe, luôn mở lớn, dễ thương quá. Nhất là khi cô buồn và khóc, khiến người xem se thắt lòng. Gelsomina là một cô gái chân chất, thật thà, quê mùa, nhạy cảm. Và nhân vật kia là Zampano, do nam diễn viên nổi tiếng của Mỹ Anthony Quinn đóng. Zampano, là tay nát rượu một người nóng nảy, hung bạo. Gã cao lớn vạm vỡ trong khi Giulietta Masina nhỏ bé để đứng gần Quinn cô như một cô bé mười hai mười ba tuổi.
     Mở màn, anh chàng hát xiệc giang hồ Zampano (Anthony Quinn) quay trở lại miền biển nghèo nước Ý điều đình với mẹ của Gelsomina, để có nàng thay thế Rosa, chị nàng đã qua đời. Để nuôi đàn con sót lại, mẹ nàng bằng lòng trao Gelsomina cho Zampano.
     Thế là Gelsomina theo Zampano rày đây mai đó trên chiếc xe ba bánh cà tàng. Nàng không biết làm gì khác hơn là đánh trống, nhảy múa, mỗi khi Zampano diễn trò bứt sợi xích sắt trước đám đông, nhưng nàng khờ khạo quá, đến nỗi thường bị  Zampano hành hạ đánh đập và chửi mắng. Đã có lần gặp người đàn bà đẹp, sexy hơn ở quán rượu, trong cơn say bỉ tỉ hắn liền kéo người đàn bà này đi bỏ Gelsomina ở lại bên lề đường giữa đêm khuya.  Tuy vậy hắn không thể xa nàng, nàng được dùng để sưởi ấm và thỏa mãn xác thịt những đêm đông không nhà. Nàng nhiều lần bỏ trốn, nhưng không được, nàng không biết đi đâu và không thể sống với ai khác, nên lại tiếp tục sống bên cạnh Zampano, trong gánh xiếc của hắn. 
      Thế rồi, định mệnh run rủi, hai người gặp The Fool Gã Khùng (Richard Baschart), một kẻ làm công cho một gánh xiệc giang hồ khác. Gã có tài đi trên dây cao: một trò chơi điên rồ. Gã lấy hiểm nguy đổi sự sống ư, e cũng không hẳn vậy, vì gã mắc bệnh lao, thấy mình gần với cái chết, nên muốn đùa giỡn với cái chết, mua vui cho người. Ở trên dây cao, chỉ cần một chút xúc động là gã có thể ngã xuống tan xương nát thịt. The Fool tử tế, có cảm tình với Gelsomina nên săn sóc nàng. Cử chỉ này làm Zampano bực mình. Đã thế hắn còn bị The Fool trêu chọc mãi nên ghét The Fool thậm tệ. Một lần nọ, gặp The Fool bị hư xe, Zampano ngừng lại chửi mắng. Kết quả là anh ta giết The Fool rồi vùi xác bên đường. Chứng kiến cái chết của The Fool, Gelsomina rất đau lòng, đến độ ngã bệnh tâm thần, trở nên điên loạn, mất trí. Và trong giấc ngủ mê sảng nàng gọi tên gã khùng làm Zampano sợ hãi, lo bị tù tội. Zampano muốn trả nàng về nhà nhưng nàng không chịu, vì nàng không thể sống thiếu Zampano. Phần Zampano, vì muốn yên thân đã bỏ Gelsomina lại dọc đường với một số tiền và cây kèn, hy vọng nàng có thể tự mình bươn chải. Nhưng Zampano đâu biết, xa chàng Gelsomina không sống được. Khi Zampano nhận thức được nàng là cần thiết, thực sự quan tâm đến nàng và mong muốn gặp lại nàng thì nàng đã không còn nữa.
 
      Nhiều năm sau, hắn đi ngang một làng nhỏ, nghe một cô gái huýt sáo một bài mà ngày xưa Gel thường hay lẩm nhẩm hát một mình. Ngạc nhiên Zampano đến hỏi thăm thì cô gái ấy bảo rằng ngày xưa, bố của cô bắt gặp một cô gái điên, bị ốm nặng sắp chết. Ông mang cô gái điên về cho trú ngụ, chăm sóc cho đến khi cô khỏe lại. Cô chìm vào trong cõi riêng không chú ý đến ai, lang thang trong xóm thường hay hát bài hát này vì thế cô bé con chủ nhà học thuộc bài hát. Một thời gian sau cô gái điên qua đời.
      Đêm đó, Zampano ra bờ biển, trong cơn say túy lúy ông ta gục xuống kêu lên một tiếng thét xé lòng. Rồi im lặng. Im lặng. Chỉ còn tiếng sóng biển.
 
      Ôi con đường. La Strada. Như bao cuộc đời khác, tôi cũng có một con đường với buồn vui sướng khổ, hội ngộ rồi chia ly. Và có Thơ. A, những bài thơ tôi viết cho người cho đời, và tặng những bông phù dung trong vườn chiêm bao ngày nọ. Rồi còn không, mai sau?
(Tổng hợp)
NXT

TƯỞNG NHỚ CHỊ YẾN

Phố Văn
 
Chị Nguyễn Ngọc Yến

Chị Yến, Nguyễn Ngọc Yến, vợ anh Trần Hoài Thư, ra đi ngày 27 tháng 4 vừa qua. Chị đã cùng với Trần Hoài Thư đi chung một đoạn đường dài, với hoa và trái, hạnh phúc và cả nhọc nhằn gian khó. Nay chị đã chu toàn thế nghiệp trần gian và ra đi. Để tưởng nhớ chị Yến, Phố Văn xin đặng lại một bài thơ chân tình của Đinh Cường viết khi Cường từ bệnh viện về.
 
 
8 GIỜ TỐI PHONE THĂM CHỊ YẾN Ở NEW JERSEY
 
Mừng và vui quá nghe giọng chị Yến
rất khỏe rất trong bên kia đầu giây
tám giờ tối nay, chị nói không đâu bằng mái nhà
vẫn đọc Theo Em trên blog Trần Hoài Thư
 
chị nói tôi nói ảnh đừng viết kỳ lắm, tôi nói hay
chứ chị sau này in ra tập sách kỷ niệm
khi chị đã đi lại được - chắc chắn như vậy -
chị và tôi chúng ta đều ở hiền gặp lành
 
khi ở bệnh viện về được nhà tôi cũng mừng lắm
không đâu bằng cái góc quen thuộc của mình
dù được sự chăm sóc chu đáo rất dễ thương
của mấy cô nurse ngày đêm thay phiên
 
nghe lại giọng nói thanh trong của chị
như nghe lại một thuở Cần Thơ
nghe lại cả tiếng phà qua sông Cửu Long
bao nhiêu chùm lục bình tím trôi
phone thăm chị Yến thấy lòng vui
chị sẽ lại về Virginia cho thêm bánh tráng
 
Virginia, March 6, 2013
ĐC
 

Friday, May 10, 2024

MỸ HỌC CỦA HƯ VỠ

Nguyên Giác
 
Đức Phật ngồi trong hư vỡ, vô thường. Hình: Pexels.com.
 
Hư vỡ là đặc tính bất biến của cuộc đời, của tất cả những gì có mặt trong vũ trụ này. Nghĩa là những gì hợp lại, thì sẽ tan; những gì sinh ra, rồi sẽ biến mất. Không có gì kiên cố, bất biến trên đời. Đức Phật đã chỉ ra sự thật đó, và biến những thái độ sống không vui thành sự kham nhẫn mỹ học: cái đẹp chính là vô thường. Bởi vì vô thường, nên có hoa mùa xuân nở, có những dòng suối chảy từ tuyết tan mùa hè, có những trận lá mùa thu lìa cành, và có những trận mưa tuyết mùa đông vương vào gót giày. Bởi vì sống hoan hỷ với hư vỡ là tự hoàn thiện chính mình, hòa hài làm bạn với hư vỡ là sống với sự thật, và cảm nhận toàn thân tâm trong hư vỡ từng khoảnh khắc là hòa lẫn vào cái đẹp của vũ trụ. Và sống với chân, thiện, mỹ như thế tất nhiên sẽ đón nhận được cái chết bình an.
 
Thân người chính là một bình gốm mong manh, dễ hư vỡ, và rồi sẽ một ngày tất nhiên phải hư vỡ. Đức Phật nói trong Kinh Pháp Cú, bài Kệ 40, qua bản dịch của Thầy Minh Châu là:
 
40. “Biết thân như đồ gốm,
Trú tâm như thành trì,
Chống ma với gươm trí;
Giữ chiến thắng không tham.”
 
Bài kệ trên nói rằng, thường trực biết thân mình, biết cơ thể mình mong manh như đồ gốm, là tâm sẽ khởi lên cái thấy của trí huệ, là tất nhiên lìa tham. Hiểu biết như thế, khi thấy đồ gốm quý tan vỡ, cũng sẽ tất nhiên không sân hận. Câu chuyện sau là dịch từ Thiền sử Nhật Bản.
 
Đồ gốm hư vỡ, đó là quy luật có sinh, có diệt.
 
Thiền sư Ikkyu, khi còn là thiếu niên đã lộ ra trí thông minh, nhanh nhẹn, và là một chú tiểu biết ứng biến. Thầy của Ikkyu có một tách trà quý giá, đó cũng là một cổ vật quý hiếm. Chú tiểu Ikkyu vô ý làm vỡ chiếc tách trà này và rất mực bối rối. Nghe tiếng bước chân của thầy, Ikkyu ôm những mảnh tách vỡ ra sau lưng. Khi thầy xuất hiện, Ikkyu hỏi: “Tại sao người ta phải chết?”
 
Vị thiền sư già giải thích, ““Đó là tự nhiên, vì mọi thứ có sinh thì phải có tử. Đó là luật vô thường, mọi thứ đều phải hư vỡ.”
 
Bấy giờ, chú tiểu Ikkyu lấy chiếc tách vỡ ra và nói với thầy: “Bạch thầy, đã đến lúc cái tách của thầy phải chết rồi.” Dĩ nhiên, vị thầy không giận.
 
Tất cả chúng ta trong đời đều phần nào chấp nhận mỹ học của sự hư vỡ. Nhiều người trong chúng ta, tại Việt Nam và cả tại Hoa Kỳ, đã từng đi lang thang trong các tiệm bán đồ cũ, vào các chợ trời, nhìn những thứ hư vỡ, và đôi khi mua những thứ còn có thể sử dụng được. Đôi khi, có những thứ không còn sử dụng được, nhưng mua về chỉ vì nó là đồ cũ, nó có giá trị của hư vỡ, cho dù hoàn toàn không có giá trị hiệu năng so với đời sống của thế kỷ 21 nữa, thí dụ, chiếc đèn dầu hột vịt, đồng hồ quả lắc…
 
Đức Phật đã lấy nhận thức về hư vỡ và thái độ sống hoan hỷ với hư vỡ thành một lộ trình giải thoát. Riêng chúng ta đã sống với hư vỡ theo một cách đơn giản đời thường, nhiều khi chỉ vì không có lựa chọn để được sống sang trọng, xa hoa. Trong khi đó, dân tộc Nhật Bản đã nâng tầm sống với hư vỡ, với sứt mẻ, với gãy đổ… thành một nghệ thuật. Đó là nghệ thuật Kintsugi, còn gọi là kintsukuroi, chữ này tiếng Anh dịch là “golden repair” – nghĩa là, sửa chữa bằng vàng.
 
Theo Wikipedia, Kintsugi là nghệ thuật sửa chữa đồ gốm bị nứt, bị vỡ của Nhật Bản bằng cách vá những chỗ bị vỡ bằng sơn mài urushi phủ bụi, hoặc trộn với bột vàng, bột bạc hoặc bột bạch kim. Về mặt triết lý, nghệ thuật này coi sự hư vỡ và việc sửa chữa như một phần lịch sử của một đồ vật, chứ không phải là thứ gì đó để ngụy trang, để che giấu. Phần lớn tập trung vào đồ gốm, vì dân Nhật Bản xem uống trà như một nghệ thuật.
 
Khi uống trà, tất nhiên là phải dùng tới những cái tách làm bằng đồ gốm. Thử hình dung, nếu uống trà bằng ly thủy tinh trong suốt, hay bình nhựa học trò… thì chẳng còn gì là nghệ thuật, và cũng không ai bận tâm sửa chữa những hư vỡ bằng bột vàng. Do vậy, uống trà phải là dùng tách làm bằng đồ gốm, hoặc với các vương triều, là tách làm bằng gốm tráng sơn mài. Kỹ thuật sơn mài, Nhật Bản gọi là maki-e, cũng là một nghệ thuật lâu đời tại Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn… 

Dùng vàng để vá đồ gốm hư vỡ là truyền thống Nhật Bản.
 
Nhưng các thiền sư Nhật Bản chỉ uống trà trên các tách làm bằng đồ gốm trông có vẻ như thô, nhám. Và khi nâng tách trà lên, bên cạnh hương trà, là hai bàn tay cảm nhận chất thô, nhám của đồ gốm, của đất sét nung, của đất nước gió lửa… Trà đạo đối với Thiền Tông Nhật Bản không chỉ là lá trà, bột trà, chất trà, vị trà, mà là toàn bộ thân tâm hành giả trong từng cử chỉ nâng tách trà lên, nếm chút trà, tay xúc chạm vào đồ gốm, cảm nhận thế giới và thân tâm tan trong từng cử chỉ và cảm thọ.
 
Theo truyền thuyết Nhật Bản ghi lại, vào thế kỷ 15, Tướng quân Ashikaga Yoshimasa từng làm vỡ một bát trà Trung Quốc. Bát trà này là của hiếm, do từ nghệ nhân thủ công Trung Quốc gửi tặng, nghĩa là không có bát trà nghệ thuật thứ nhì giống như thế. Sau đó, Tướng quân gửi bát trà về Trung Quốc để sửa chữa, nhưng nó lại bị gửi lại bằng cách vá gốm, nhìn không vừa ý Tướng quân này. Yoshimasa sau đó đã yêu cầu các nghệ nhân của mình tìm cách vá gốm cho đẹp hơn, từ đó phát minh ra nghệ thuật vá đồ gốm bằng vàng của Nhật Bản.
 
Lịch sử ghi rằng, hồi thế kỷ 15, Nhật Bản vẫn còn chịu ảnh hưởng của Trung Quốc, nhưng sự tinh tế của văn hóa Nhật Bản vẫn tiếp tục phát triển… Dưới ảnh hưởng của Tướng quân Ashikaga Yoshimasa và những người kế vị ông, Nhật Bản đã phát minh ra một lối sống mới: văn hóa Higashiyama. Bắt nguồn từ dòng tư tưởng Thiền Tông, bầu không khí văn hóa này đã thúc đẩy sự phát triển của trà đạo, nghệ thuật cắm hoa (ikebana), kịch Nô và tranh thủy mặc vẽ bằng mực Tàu.
 
Trong nền văn hóa đầy Thiền vị này, nghệ thuật vá đồ gốm bằng vàng đã phát triển nhanh chóng… Đến mức một số nhà sưu tập bị thu hút bởi vẻ đẹp và triết lý của Kintsugi, đã cố tình đập vỡ một số đồ gốm cổ của nghệ thuật Nhật Bản để sửa chữa bằng vàng. Nghĩa là, làm thành một hóa thân mới, một kiếp sau của sản phẩm nghệ thuật. Thực tế, không phải ai cũng có điều kiện để sống huy hoàng như thế. Nhiều Thiền sư không cần vá gì, chỉ đơn giản sử dụng các chén, tách, tô… đã bị sứt mẻ. Và trong sứt mẻ đó, trong hư vỡ đó cũng là một thế giới mới được hình thành: sống hoan hỷ với hư vỡ. Đó cũng là ý nghĩa của Phật giáo.
 
Phong thái sống của các Thiền sư Nhật Bản là sống với hồn nhiên, đơn giản, khổ hạnh, tinh tế, lìa thói quen, tĩnh lặng, từ bi… Trong khi đó, giới nghệ nhân, từ nghệ thuật Kintsugi lấy vàng nấu chảy để vá gốm đã hòa lẫn với phong thái Thiền để hình thành một cách nhìn gọi là Wabi-sabi. Chữ này thịnh hành từ thế kỷ thứ 16, một chữ không còn mang ý nghĩa “lấy vàng vá gốm” nữa, mà là một nhận thức nhắc nhở chúng ta rằng tất cả chúng ta đều là những sinh vật nhất thời trên hành tinh này – rằng cơ thể chúng ta cũng như thế giới vật chất xung quanh chúng ta đang trong quá trình trở về cát bụi. Chu kỳ sinh trưởng, mục nát và xói mòn của tự nhiên được thể hiện ở các cạnh bị sờn, rỉ sét, đốm gan. Thông qua wabi-sabi, chúng ta học cách đón nhận cả niềm vui và nỗi buồn được tìm thấy trong những dấu vết của thời gian trôi qua.
 
Theo truyền thuyết Nhật Bản, một chàng trai trẻ tên là Sen no Rikyu đã tìm cách học hỏi những phong tục phức tạp được gọi là Trà Đạo. Anh ta đến gặp trà sư Takeeno Joo, người đã thử thách chàng trai trẻ bằng cách yêu cầu anh ta chăm sóc khu vườn. Rikyu dọn dẹp những rác vụn và cào đất cho đến khi nó thật hoàn hảo, sau đó xem xét kỹ lưỡng khu vườn sạch sẽ. Trước khi trình bày tác phẩm của mình với vị trà chủ, anh đã rung chuyển một cây anh đào khiến một vài bông hoa rơi ngẫu nhiên xuống đất. Chính cái bất toàn đó, những nụ hoa rơi trên nền cát trắng cho thấy cái đẹp của vô thường, của hư vỡ. Sách ghi rằng, cho đến ngày nay, người Nhật tôn kính Rikyu như một người hiểu rõ cốt lõi của sợi dây văn hóa sâu sắc được gọi là wabi-sabi.
 
Theo tự điển, Wabi là những thứ tươi mới, đơn giản và mang vẻ đẹp mộc mạc. Và Sabi là những rung động, cảm xúc trước vẻ đẹp của lớp gỉ đã cũ theo thời gian.
 
Chỉ có những người thấm đượm văn hóa Wabi-sabi mới hiểu được vẻ đẹp dịu dàng, nguyên sơ của những ngày tháng 12 xám xịt bao trùm lên một tòa nhà hoặc nhà kho bị bỏ hoang. Nó tôn vinh những vết nứt, kẽ hở, chỗ mục nát và tất cả những dấu vết khác mà thời gian, thời tiết và quá trình sử dụng để lại. Khám phá wabi-sabi là nhìn thấy vẻ đẹp đặc biệt ở một thứ mà thoạt nhìn có thể trông như là bất toàn và hư vỡ.
 
Theo dòng thời gian, tới thế kỷ 17, xuất hiện một Thiền sư được xem là sống trọn vẹn theo phong cách wabi-sabi.
 
Đó là Thiền sư Baisaō (1675-1763). Ông thuộc dòng thiền Ōbaku (Hoàng Bá). Thiền sử ghi rằng Hoàng Bá học từ Bách Trượng Hoài Hải. Hoàng Bá để lại một tác phẩm nổi tiếng là Hoàng Bá truyền tâm pháp yếu. Trong môn đồ của Hoàng Bá, nổi tiếng nhất là Lâm Tế. Baisaō nổi tiếng như một Thiền sư học giả, một nhà thơ, một nhà thư pháp… nhưng đã từ chối tất cả các lời mời trụ trì khi các tướng quân dâng cúng chùa, rồi cuối đời lang thang, ra đời làm một ông già lang thang Kyoto để bán trả. Một đời sống cực kỳ hồn nhiên, khổ hạnh, tĩnh lặng, từ bi… Tâm không vướng một niệm, nhưng toàn bộ thân tâm sống với cõi vô thường, lặng lẽ nghe hư vỡ từng ngày.
 
Để có thể hiểu về cách sống của Baisaō, chúng ta có thể dẫn ra tông yếu Thiền qua lời Hoàng Bá, trích theo bản dịch của Thầy Thanh Từ:
 
“… Người học Đạo hễ có một niệm vọng tâm là xa Đạo, ấy là điều tối kị. Hết thảy mọi niệm đều vô tướng, đều vô vi, tức là Phật. Người học Đạo nếu muốn thành Phật thì hết thảy Phật pháp đều không cần phải học, chỉ cần học cái không mong cầu, không chấp trước là đủ. Không mong cầu thì tâm không sinh, không chấp trước thì tâm không diệt.” (ngưng trích)
 
Thiền sử ghi rằng Baisaō là một Thiền sư nổi tiếng khi đi du lịch khắp Kyoto để bán trà. Quán trà của ông có ảnh hưởng rất lớn ở Kyoto, đặc biệt là với các nghệ sĩ và triết gia. Baisaō có nghĩa là, ông cụ bán trà. Nhưng tên trong nhà thiền ông là Gekkai Genshō (月海元昭, Nguyệt Hải Nguyên Chiêu). Sau này, ông về đời, sử dụng tên cư sĩ là Kō Yūgai (高遊外, Cao Du Ngoại).
 
Baisaō là một nhà thơ và là một tu sĩ Phật giáo, nhưng đã bỏ lại đằng sau những ràng buộc của cuộc sống chùa chiền và ở tuổi 49 du hành đến Kyoto, nơi ông bắt đầu kiếm sống bằng cách bán trà trên đường phố và tại các địa điểm có danh lam thắng cảnh xung quanh thành phố. Tuy nhiên, Baisaō còn pha chế nhiều thứ hơn là trà – khách hàng của ông, bao gồm các nghệ sĩ, nhà thơ và nhà tư tưởng có ảnh hưởng vào thời đó: họ xem việc tới gánh trà của ông có tầm quan trọng về mặt tôn giáo. Những chiếc giỏ đan bằng tre lớn chứa đầy dụng cụ pha trà của ông đã mang đến cho Baisaō và các khách hàng của ông cơ hội trò chuyện và làm thơ cũng như những loại trà đặc biệt.
 
Thiền sư Baisaō. Hình trái do Ito Jakuchu vẽ. Hình phải do Tanomura Chikuden vẽ.
 
Baisaō sinh năm 1675 tại đảo Kyushu phía nam Nhật Bản. Là con trai của một trong những tầng lớp trí thức ưu tú trong vùng, anh nhận được một nền giáo dục sâu rộng và khi lên 11 tuổi, trở thành tu sĩ trong thiền phái Ōbaku, lấy tên là Gekkai Genshō. Năm 1687, ông cùng sư phụ Kerin Dōryū du hành đến Mampuku-ji, trụ sở của Ōbaku Zen. Một trong những nơi hai thiền sư đến thăm là Kōzan-ji, ở ngoại ô Kyoto, nơi trồng những vườn trà đầu tiên ở Nhật Bản.
 
Giống như nhiều thiền tăng khác, Baisaō trải qua nhiều nhiệm vụ khác nhau tại ngôi chùa riêng của mình, Ryūshin-ji. Sự nghiệp tôn giáo Baisaō có thể chia thành ba thời kỳ: thời kỳ rèn luyện trong trường thiền hơn hai thập niên, thời kỳ thứ hai, ông quản trị tăng chúng trong chùa và sau đó trên thực tế giữ chức quyền trụ trì tại Ryushin-ji ở Hasuike; và giai đoạn thứ ba, lang thang bụi đời ở Kyoto với tư cách là Ông già bán trà. Khi sư phụ qua đời, chức vụ trụ trì được chuyển giao cho một nhà sư trẻ hơn. Khi Baisaō được hỏi tại sao không nhận được chức trụ trì này, ông khiêm tốn trả lời “vì tôi không có trí tuệ hay đức hạnh.” Mặc dù nhiều lần được đề nghị tiếp quản ngôi chùa nhưng ông đều từ chối và ông lên đường về kinh đô Kyoto, nơi ông sẽ sống phần đời còn lại của mình.
 
Kyoto lúc đó là nơi tự do, phóng khoáng nhất Nhật Bản, nơi cho phép sự sáng tạo và nghệ thuật phát triển. Các nhà văn, nghệ sĩ và học giả rủ nhau đến thành phố, phá vỡ chủ nghĩa bảo thủ còn bao vây nhiều nơi ở Nhật Bản. Được bao quanh ba mặt bởi những ngọn đồi phủ đầy cây xanh rất đẹp và với dân số khoảng nửa triệu người, Kyoto là một trong những thành phố đẹp nhất trên trái đất (lúc đó, và cả bây giờ, khi trở thành cố đô Nhật Bản).
 
Vào thời điểm xã hội Nhật Bản chuyển đổi, Baisaō nổi bật nhờ kỹ năng của mình với tư cách là một nhà thơ và nhà thư pháp với kiến thức sâu rộng về văn học Trung Quốc, những kỹ năng được đánh giá cao ở Kyoto. Baisaō được tất cả những người tiếp xúc với ông đánh giá cao vì tâm hồn rộng rãi, từ bi, dịu dàng và cuộc sống dường như vô tư của ông, như dường từ chối hệ thống cấp bậc Phật giáo đã được thiết lập. Theo thời gian, ông trở thành một trong những nhân vật nổi tiếng nhất trong một thành phố đầy những nghệ sĩ và lập dị. Có rất nhiều nhân vật độc đáo ở Kyoto vào thời điểm này đến nỗi vào năm 1788, một cuốn sách đã được xuất bản, “Eccentric Figures of Recent Times” (Những dị nhân của thời đại gần đây), trong đó Baisaō đóng một vai trò nổi bật.
 
Ở tuổi sáu mươi, Baisaō mở một cửa hàng nhỏ hoặc có lẽ chỉ là một quầy hàng (ông gọi nó là “ngôi nhà ốc sên”) trên một cây cầu đông đúc bắc qua sông Kamo của Kyoto. Vào thời điểm đó, những người bán trà lưu động thuộc tầng lớp thấp nhất trong xã hội và bán loại trà bột kém chất lượng. Tuy nhiên, Baisaō đã giới thiệu sencha, một loại trà lá rời được đun trong nồi và được coi là loại trà cao cấp hơn nhiều; một loại trà mà chỉ cần “một ngụm, bạn sẽ vĩnh viễn thức dậy khỏi giấc ngủ trần tục.” Ngày nay chúng ta gọi loại trà này là trà xanh Nhật Bản. Trên thực tế, Baisaō không thực sự bán trà của mình mà chỉ nhận tiền quyên góp, nguyên tắc là miễn phí, nói rằng “Giá của loại trà này là từ một trăm đồng vàng đến nửa xu. Nếu bạn muốn uống miễn phí cũng không sao. Tôi chỉ tiếc là tôi không thể để bạn có nó với giá rẻ hơn.” Sau đó, Baisaō từ bỏ ‘cửa hàng’ nhỏ của mình và đi lang thang ở Kyoto và những ngọn đồi xung quanh, mang theo dụng cụ pha trà trên một chiếc sào tre và lập nghiệp ở bất cứ nơi nào có phong cảnh thu hút ông.
 
Những năm cuối đời của Baisaō đầy khó khăn khi tuổi già và bệnh tật ập đến. Mùa đông lạnh giá ở Kyoto tỏ ra đặc biệt khó khăn đối với một ông già ít tiền. Đói và lạnh là bạn đồng hành. Mặc dù ông được công nhận là một thiền sư nổi tiếng, nhưng chỉ trong những năm cuối đời ông mới nhận một số ít đệ tử. Trong suốt cuộc đời dài của mình, ông vẫn tiếp tục làm thơ và sáng tạo ra những tác phẩm thư pháp được đánh giá cao. Ngay trước khi ông qua đời ở tuổi tám mươi tám, bạn bè ông đã tặng ông một tuyển tập các tác phẩm in của ông, Baisaō Gego (“Những câu thơ và văn xuôi của người bán trà già”), khẳng định tầm quan trọng của ông trong đời sống văn hóa của Kyoto thế kỷ 17-18.
 
Ông đã sống lang thang trên những hư vỡ của đời. Gánh trà, vừa bán, vừa tặng. Viết thư pháp để tặng người hữu duyên. Làm thơ khi vào giữa cuộc đời xôn xao để hoằng pháp. Trong cái hư vỡ của vô thường, không thấy gì để mong cầu, không thấy gì để chấp trước. Thiền sư đã lấy vàng của chánh pháp để vá những mảnh gốm hư vỡ của thân tâm chúng sinh.
 
Nơi đây. xin trích từ mấy dòng thơ của Baisaō:
Đừng nghĩ tôi là một ông già
với tình yêu say đắm dành cho trà.
Mục đích của tôi là đánh thức bạn
ra khỏi giấc ngủ trần gian của bạn.
 
Và cũng từ mấy dòng thơ khác, cũng của ông già bán trà, người đã lấy vàng của chánh pháp để vá những mảnh đời hư vỡ ở Kyoto:
 
tuyệt đối không còn gì
chỉ còn lại duy nhất
một vầng trăng sáng và lạnh
nơi cửa sổ, lúc nửa đêm
chiếu sáng rực tâm Thiền
trên đường trăng về nhà.
 
Thiền sư Baisaō qua một đời sống dị thường đã trở thành một hóa thân của nghệ thuật Kintsugi, tự biến cuộc đời Thiền sư của mình trở thành chất vàng để nối kết những mảnh đời người hư vỡ vào với đường trăng giải thoát.
 
NGUYÊN GIÁC
California, cuối tháng 4/2024. 

Thursday, May 9, 2024

CHIỀU THU CAO NGYÊN. CHƯA TÀN PHAI ĐÂU. ÁNH MẮT NĂM XƯA BÊN HOA DÃ QUỲ.

Nguyễn Đức Nhân
 
Dã quỳ Đà Lạt
 
hoàng hôn phố núi
ly cà-phê nóng vỉa hè rất thơm. không thể ngăn
mùi nước hoa bốc hơi từ người đàn bà đi ngang qua
 
hoàng hôn phố núi
 
những chiếc lá vàng gởi tin cấp báo
mùa mưa dầm. những ngày sắp tới. sẽ
cư trú trong cơn ho tóc bạc qua đường. và
cơn mưa sẽ ngủ
trên cây đòn gánh cong mệt mỏi áo cơm
dựng bên hông cao nguyên nắng chiều
 
hoàng hôn phố núi
 
hồ Than Thở. vẫn mây trắng
chẳng hề thở than
Đà Lạt mơ màng
im hơi
chiều thu
hoàng hôn phố núi
 
ánh mắt phố núi long lanh
dường như có ai đang gặm nhấm kỷ niệm
trên ngọn thông thắp sáng nắng vàng ấp ủ tiếng chim
 
chiều rớt lạnh
dưới bóng hoàng hôn
 
từ Đà Lạt quay về Phi Nôm. Cầu Đất
những đoá hoa dã quỳ vàng rực được gió chiều ngợi ca
còn nhớ không
mắt cao nguyên long lanh
chiều thu
dưới bóng hoàng hôn
 
dõi theo sắc màu cao nguyên
Phi Nôm. Cầu Đất trải lòng. mây trắng bay
tôi. mỉm cười
không thể níu giữ đời ai
nơi vòng tay hữu hạn
phận người
nụ cười cao nguyên năm xưa
nghiêng nghiêng bên hoa dã quỳ
chưa tàn phai đâu
 
dưới bóng hoàng hôn
 
dọc đương gió bụi. bầu trời xanh lơ tâm tưởng. hơn một lần ảo ảnh
mái tóc cao nguyên. hay
mái tóc chiều thu xưa. bay
bay trên phố thị. ruộng đồng. sa mạc. trùng dương. buồn vui óng ả
mái tóc cao nguyên. hay
mái tóc chiều thu xưa. bay về đâu
làm sao biết mái tóc bay về nơi đâu là
tận cùng. chiều thu
 
dưới bóng hoàng hôn
 
những ngọn đồi ấy. đang
bận rộn chuẩn bị đón tiếp mùa hoa vàng. một thuở. thu xưa
đâu cần thiết phải để lại lời nhắn cho cỏ mọc hoang
phải thế không
 
dưới bóng hoàng hôn cao nguyên
 
tôi - bụi đường nhiệt đới
tôi - vỉa hè lang thang. khét mồ hôi Châu Á
tôi - chiếc lá rơi nghiêng chưa chạm đáy mùa
vẫy chào cao nguyên bao la. huyền ảo tâm tư chiều thu
tôi ra đi
không níu giữ đời ai nơi vòng tay hữu hạn
phận người
trên nền trời cao nguyên xanh lơ. hôm nay. ngày mai. mai sau
ánh mắt cao nguyên năm xưa. bên hoa dã quỳ
chưa tàn phai đâu
còn nhớ không. chiều thu
Đà-lạt, 01/6/2021
NĐN

Wednesday, May 8, 2024

Ở MỘT NƠI KHÔNG PHẢI QUÊ NHÀ

Huỳnh Liễu Ngạn

Huỳnh Liễu Ngạn, 1984
 
tôi đến thành phố vào hai giờ sáng lạnh lẽo vô hồn
cơn mưa rơi ngoài hàng hiên có con chim bồ câu trú ẩn
ánh điện vàng như thây ma bên mái chái
người homeless nằm co quắp dưới gầm cầu
đưa tay xin điếu thuốc
trời về khuya lặng lẽ như vì sao băng
tôi nhập vào hư không để thở
để ngó vào bóng đêm mong chờ một tiếng động
để không lạc đường vào cô quạnh hẩm hiu
 
hai giờ sáng ở một nơi không phải quê nhà
sao lại nhớ ai rao bánh mì khuya khoắt
tôi dựa vào chiếc ghế từ đời ông cố ông sơ
của một ngày dài hơn lịch sử
dù cây lộc vừng đã mấy lần hờn dỗi chẳng ra hoa
hàng thùy dương bờ cát trắng chan hòa
những chiều sóng xô cát đuổi
tóc tôi dài hai nhánh sông khép lại
tình ái như đám rong nằm phơi khô giữa bãi
không hề hay biết từng đoàn người
đã chìm sâu dưới đáy biển
vào một ngày biến động xa xưa
 
tôi đến thành phố vào hai giờ sáng
trời cuối năm như hấp hối lạnh lùng
làm cành cây trơ giống mặt người thiếu tuổi
người homeless lại xin thêm điếu thuốc
ở bên kia đường cây xăng còn thức
đứa con gái mặc áo ấm xuống xe
đi về phía bình minh mái tóc
rối bù theo cơn gió ẩn hiện giữa đôi chân
bước trên sỏi đá u buồn
từ xa có tiếng còi tàu xe lửa xuyên bang
gợi nhớ lại bài hát tiếng còi trong sương đêm
đã nghe đã nghe và đã nghe
từ sâu thẳm của thế kỷ dại khờ
 
bốn ngàn năm tôi vẫn đi một mình
qua năm mươi tiểu bang nước mỹ
và đêm nay tôi trở về thành phố
mà ngày đầu tiên mới đến
ăn lát bánh mì
uống lon coke
nhìn lỗ đen trên bầu trời khép lại
khi nỗi cô đơn là giọt nước bên thềm
của người homeless nằm co chân chờ bản tin thời tiết
mà chiến sự vẫn tiếp diễn nơi chúa ra đời
chẳng có phép màu nào làm ngừng lại được
khi máy bay không người lái vẫn vần vũ trên trời
 
hai giờ sáng như hai nỗi đời không gặp lại
ngày mai tôi sẽ quay ngược giờ theo ý thích của tôi
để mùa đông đừng đến muộn cùng giọt mưa
ngoài hàng hiên xẩm tối
cho mắt tôi thôi thở dài khi ngày tháng cứ trôi qua
để lại vết nhăn lên đám mây không còn vì sao cuộn lại
như khi đưa tay lục tìm một điều gì không rõ
phải bật lên ánh lửa giữa đêm trường
 
ngày mai con đường có chia ra nhiều hướng
nơi đồng bằng thấp thoáng màu áo của người xưa
như màu xanh của tỉnh thành phía bắc
chưa một lần về thăm dãy núi cao
nghe tiếng con vượn hú
cho lòng trôi từ vượn lên người
của thời sơ khai mà mẹ tôi quấn lá
đẻ ra tôi bên bụi cỏ hoang đường
 
tôi đến thành phố vào hai giờ sáng
tiếng chuông nhà thờ còn ngủ ở trên cây
thế giới bây giờ vẫn im lìm như thời đại dịch
tôi vẫn đeo khẩu trang đón chuyến xe về
vùng tuyết trắng ban sơ khi mới tìm ra châu mỹ
cùng đàn gà tây mà đến lễ tạ ơn
người ta làm thịt để ăn
hai giờ sáng của một đời người
chỉ là nỗi phù du dâu bể.
 
20.2.2024
HUỲNH LIỄU NGẠN
 

Tuesday, May 7, 2024

HÔM QUA. VÀO XẾ TRƯA

Vương Ngọc Minh
 
Tranh Khánh Trường
 
..đi từ đường lincoln
góc 22ave
về chúng cư-tôi có cảm giác một con cóc ghẻ đang trượt trên
sóng lưng/và
thực kỳ lạ
hễ định thần
thì cái cảm giác đấy của con cóc ghẻ
chứ không phải của tôi..
 
quái
mọi điều đang nghĩ
trong đầu-kể cả về những bước chân chạy rầm rập
mơ hồ
những kẻ cùng khốn bị nước cuốn trôi
cũng của nó nghĩ nốt
 
tình cảm như thế
bấu chặt hai bàn chân
khiến mặt đường xính (dính!) hồi chiến tranh tương tàn
ngày nào
nhác thấy tôi
ai ngó trước-liền cho
giống người từ sao hỏa rớt xuống/nghe
thấy
câu đó
mọi người đồng kêu lên i hệt
 
nhưng phải nói
-ở đây
mọi con đường men theo bờ sông
không có chỗ để nhảy xuống cứu nạn
tôi là người lớn
chỉ biết chạy la
 
cầu khẩn..
-ối
con cóc ghẻ đời nay
giống như đúc con cóc ghẻ đời trước
 
thoạt nhìn
hồi lâu
thiên hạ thảy đều cho-tôi
giống hệt một bản sao méo mó
của lũ cóc ghẻ(!) mẹ kiếp
có nói cạn lời
chả thấm/điều oái oăm
khi nhìn kĩ thêm
cấp kì
tôi lại phải cố đuổi kịp tốc độ phóng
từ dòng chảy thời gian
hòng sống sót
và cảm giác có con cóc ghẻ trượt trên sóng lưng
sẽ gợi lên nỗi nhớ tổ tông..
 
tôi không biết
mình tìm gì nơi những người đàn bà
"sự thủy chung" chăng ? và
chỉ vì điều đó
nó khiến tôi tắt tiếng
phải vận quần/áo-của lính thủy đánh bộ
dài
rộng-đi đâu về đều nằm co quắp trên sô- pha
sao nhãng hết mọi việc
 
chỉ gẫm tới "xì căng đan" lớn
tỉ như: Putin chết
chiến tranh với Ukraine mới chấm dứt
 
mặc dù đéo bằng chứng
thuyết phục
nhưng tôi vẫn tin chắc rằng-vừa rồi
mình có
các hành động tỉ như: nói
viết
gõ xuống các mặt chữ triền miên
chẳng qua
còn vô số thời giờ
 
nghe
thực tức cười
 
với một nhà thơ
luôn bị trầm cảm/chứng bệnh vẫn mắc phải
với mọi người
tôi chăm chú nhìn các nhà thơ
hội nhà văn VN
bảo "mấy ông nên bắt đầu làm trường ca
chả việc chi kinh hãi.."
 
vậy rồi
tôi liên tục buồn nôn
nôn ra tuyền niềm tin
một cách hết sức kỳ cục!
..
VƯƠNG NGỌC MINH.