Saturday, February 25, 2023

TRIỀU HOA ĐẠI PHỎNG VẤN LÊ CHIỀU GIANG

Triều Hoa Đại

Lê Chiều Giang April 2021
LCG cùng gia đình rời Việt Nam năm 1984.
Hiện sống tại California
 
Triều Hoa Đại:
Lâu lắm rồi, từ những năm 1999, có lẽ là như vậy. Kể từ lúc tạp chí Văn Học của nhà văn quá cố Nguyễn Mộng Giác, rồi Thế Kỷ 21, Văn và Hợp Lưu… cho đăng rải rác những bài thơ của một người cứ tạm coi như là ở một “hành tinh” khác chợt bay vào làng thơ hải ngọai với cái tên “Giang”. [Năm 2014, bút hiệu đổi thành Lê Chiều Giang, khi góp mặt trong tác phẩm “Nguyễn Xuân Hoàng trong và ngoài văn chương” do Da Màu thực hiện].
Độc giả và văn hữu vừa ngạc nhiên, vừa thích thú  đón nhận những hương thơm trong vườn thơ rất lạ.. Thơ của Lê Chiều Giang đọc lên nghe vừa bương bướng, vừa quyết liệt lại xa xót, ngậm ngùi. Thú vị hơn nếu trên tay có một ly rượu chát với chút ánh đỏ của ráng chiều, và rồi hãy nhẩn nha cùng nhau đọc thơ của Lê Chiều Giang. Hoặc với một ly cafe ngát thơm đầu ngày nắng gọi thì mới thấy, thì mới ngấm  đến tận cùng  cái thú của đọc thơ.
Vậy thì Chiều Giang là ai? Bạn bè trong giới thầm hỏi, và rồi biết được rằng Lê Chiều Giang là hiền thê của cố họa sĩ Nghiêu Đề một hoạ sĩ tài hoa, một người mà trái tim luôn luôn mở rộng để chào đón bạn bè.
Những bài thơ của Lê Chiều Giang như những kỷ niệm được cất giấu, như những êm đềm một thuở xa xưa ấp ủ bỗng giờ đây thức giấc với nhân gian, Lê Chiều Giang và cố hoạ sĩ Nghiêu Đề  đã một thời sống với, sống cùng, rất tha thiết với bạn bè. cho nên trong phần mở đầu tập: Không Đứng Mãi Trong Tranh nhà văn Nguyễn Thi Thuỵ Vũ đã viết:” Chúng tôi sẽ đọc Lê Chiều Giang, những dòng chữ chảy lui về quá khứ. Một quá khứ của thời đã “ chết đi, sống lại”.
Trò chuyện với Lê Chiều Giang hôm nay chúng ta sẽ tìm lại những gì đã mất, chúng ta sẽ với nhau (hy vọng) sẽ cùng hát lên những bài ca của Sài Gòn thuở trước với Nguyễn Đình Toàn, với Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, với Nghiêu Đề, với Lê Chiều Giang ở những đêm trăng sáng nơi thuyền trôi tưởng như cùng với Lưu Nguyễn đi vào cõi mộng.
 Nắng đã lên cho một ngày mới. Xin mời mọi người hãy cùng tôi, chúng ta cùng nhau vào chuyện với nhà thơ Lê Chiều Giang.
 
Triều hoa Đại: Thưa chị khởi đầu cho cuộc trò chuyện này cũng như thường lệ là gia chủ vậy thì không gì bằng xin chị tự giới thiệu về mình đôi chút.
 
Lê Chiều Giang:”Tiểu sử”, với tôi là lan man trong những bài tôi đã viết. Những thoáng qua, những nho nhỏ của một đời người. Có khi chính là tôi đó chứ, lại nhiều lúc chẳng rõ nét chút nào. Thôi, anh cứ nhìn tôi như một bức tranh siêu thực. Mông lung và mờ ảo.
 
Thđại: Có đường đột lắm không thưa chị khi mà đọc giả nôn nóng muốn được nghe chị kể về cái thuở xa xưa với những kỷ niệm đầy ắp ở những thuyền trôi mà chị đã cùng với những bạn bè “đi”  dưới ánh trăng đầy thơ, đầy mộng bên dòng sông Thanh Đa của Sài Gòn xưa cũ.
 
LCG: “Ôn bài" thiệt khó, nhất là phải ôn lại những cảm xúc. Anh cho phép tôi trích đoạn nhé:
 
“…Thanh Đa, chúng tôi sống trên một chung cư lầu ba, nơi mà, mỗi sáng nhìn dòng sông với mặt trời soi rọi rất đẹp của bình minh, tôi vẫn cảm nhận ra chút dịu dàng, cho dù đời sống  lúc nào cũng như một chảo lửa đốt cháy hết sự sống của cả một quê hương.
Sông Thanh Đa có chiếc ghe của bà Mười đưa khách từ Làng Báo Chí qua lại. Với chiếc ghe nhỏ xíu đó, chị Nguyễn Thị Thụy Vũ và anh Nguyễn Đình Toàn đến chơi Thanh Đa thường hơn. Mỗi lần chị đứng bên kia sông réo gọi, và anh Toàn đưa tay vẫy...
Chúng tôi luôn có với nhau những bữa cơm rất tội nghiệp, chỉ một tô canh thôi, và tôi thường phải giải thích với chị Thụy Vũ: "Thấy chị qua em đã thêm nước vô cho nó nhiều". Anh Toàn hỏi thêm trước khi cầm muỗng: "Thêm nước thì hiểu được, nhưng rồi Chiều Giang có nấu lại không?" Vậy đó thôi mà cười tung toé.
 
Những đêm trăng, chúng tôi xuống hết chiếc ghe nhỏ với cây guitar của Trần Quang Lộc hát hò tới nửa đêm. Nhạc Nguyễn Đình Toàn được hát bởi Khoa, bạn của Trần Quang Lộc. Anh Duy Trác không bao giờ hát... dưới ghe, nên anh Toàn, Khoa, Lộc và tôi thay nhau hát. Hát say mê dưới trăng sáng mơ màng trên sông, hiu hiu chút gió và tiếng khua nước của ghe chèo…
Bóng trăng có khi bị che khuất bởi những tàn cây ven sông, và bóng tối như đã ôm ấp tiếng hát nghìn trùng của chúng tôi, trải dài những âm vang dặt dìu xuôi theo dòng nước.
[Trích:”Nghĩ với Trần Quang Lộc” KĐMTT]
 
Thđại: Bây giờ chúng ta nói tới KĐMTT, tác phẩm rất mỏng của chị, Nhân Ảnh in với bìa thật đẹp, tranh của anh Nghiêu Đề.
Bác sĩ, nhà văn Đỗ Hồng Ngọc ông cứ thắc mắc:” không biết nên gọi KĐMTT là gì cho đúng?, Tuỳ bút? Không phải. Tản mạn? không phải. Viết ngắn? không phải. Thơ…ừ, thơ “Đúng là thơ rồi”, nó cuốn hút, nó xao xuyến, nó ray rứt…“ [Trích Đỗ Hồng Ngọc]. Đọc mãi tìm hoài, cuối cùng ông đã tìm ra KĐMTT là thơ. Còn chị thì mọi người nên gọi thế nào cho chính danh?
 
LCG:
Họa sĩ  Trịnh Cung hay anh Phan tấn Hải khi viết bài điểm sách về cách tôi viết. Thiên hạ cứ nhất định cho rằng tôi viết gần như một bài thơ dài.
Chữ nghĩa, với tôi tự nó muôn đời đã lả thơ. Như đôi khi dù tôi đã gửi bài cho những tạp chí cả tuần rồi, tôi vẫn hay gửi lại chỉ vì muốn sửa một chữ nào đó, cùng một nghĩa, nhưng âm giai khi đọc nó không bị gượng ép. Vậy mà tôi vẫn không nghĩ mình đã viết như thơ, hình như nó lại là như…hát.
 
Thđại: “Không Đứng Mãi Trong Tranh”, tại sao lại thế được nhỉ, độc giả thắc mắc là bởi những bức tranh mà cố hoạ sĩ Nghiêu Đề đã vẽ ra và hiện nay còn được cất giữ từ những người yêu mến ông thì ở trong đó không một bức tranh nào không có bóng dáng của chị thì sao lại bảo là: KĐMTT?
 
LCG:
Như một sự phải “Bước ra với đời", nên tôi “Không đứng mãi trong tranh". Trong bài thơ “Đầu hàng”, tôi tâm sự rằng: Sau những năm dài, vai góa phụ tôi đã “diễn” xong. Hăng hái lắm, tôi trở lại với đời, nhưng tôi lạc lõng, và khi nhìn chung quanh chỉ còn là những úa tàn, khô héo, nên tôi lại phải:
 
“...Bước lại trong tranh. Và
Diễn tiếp.
Hỡi thế gian. Ta
Bỏ cuộc chơi.”
[Trích “Đầu Hàng”. KĐMTT]
 
Thđại:Thơ chị dọc lên thiên hạ bảo là: sao nghe như có những tiếng thở dài, những nuối tiếc, những muộn phiền cam chịu của một hạnh phúc, một số phận, những mặn nồng chưa thoả chị có đồng ý thế không?
 
LCG: Dạ, có thở dài, có tiếc nuối…Nhưng tôi không “cam chịu", bởi thật phi lý nếu tôi cứ nhất định ngồi hết với “Tiết hạnh” xong rồi lại tới “khả phong”.
 
“…Vai “Đào thương” ta đóng
Đã xong.
Thì đi bước nữa. Rồi
bước nữa.
Bảy tỷ!
Nhân gian chẳng thiếu ai
Chợt nghe trong gió lời bạt mạng
Chẳng thiếu ai, vẫn thiếu …
Một người.”
[Trích:”Cinema" KĐMTT]
 
Thđại: Là vợ của một họa sĩ tiếng tăm chị nghĩ sao khi mỗi lần bán được tranh thì Nghiêu Đề cho rằng: “ cứ như là một sự “lường gạt”  khi ông trả lời với nhà văn Nguyễn Ngu Í là bởi tiền nhiều quá “Tôi thấy số tiền đó như từ trời rơi xuống”, công sức của Nghiêu Đề và cả của Người Đứng Mãi Trong Tranh thì sao lại bảo là “lường gạt”, lại bảo là “từ Trời rơi xuống”?
 
LCG: Tự cười cợt, chế nhạo mình là cách sống của anh Nghiêu Đề. Như khi Nguyễn Đức Quang phàn nàn, hoạ sĩ mà sao nhà không treo bức tranh nào của chính mình? Anh giải nghĩa:” Lừa gạt để thiên hạ treo tranh mình đã là quá đủ, phỉnh phờ chi nữa với vợ với con?”.
 Đặc biệt nhất anh thường nói với bạn bè, không ai nhận xét tranh Nghiêu Đề đúng bằng Bé Búp. Khi cô con gái 3 tuổi của chúng tôi nửa đêm dụi mắt, chập chững ngang qua chỗ anh Nghiêu Đề đang vẽ, buông lời phê phán:” Bố vẽ con Ma,…”. Và anh nhận ra Bé Búp mới là người phê bình tranh Nghiêu Đề chân thực nhất, đúng nhất.
Thú vị hơn nữa, khi anh được Medal cho giải Hội Hoạ năm 1962. Một bạn thân từ Huế lang thang vô Saigon, Nghiêu Đề đã tặng để bạn bán đi cho những bữa Cơm Xã hội và những ly nước mía. Với anh, sống là một cuộc vui chơi cùng bè bạn, Medal hay gì gì đi nữa, cũng chỉ là những   phù phiếm, bọt bèo.
 
Thđại: Cố hoạ sĩ Nghiêu Đề đã từng vẽ ra hằng trăm bức tranh nhưng ông ấy lại nói : “ tôi thích nhất bức”Chân dung của Lê”. Của Lê? Chắc là Lê Chiều Giang phải thế không nào?
 
LCG: Ngày anh Nghiêu Đề, mang” Chân dung của Lê" tới phòng triển lãm năm 1962, tôi còn là một cô bé nhỏ xíu, mới học lớp một. Thưa Anh.
“Định mệnh” là những gì rất lạ lùng, và vô cùng khó hiểu.
 
Thđại: “Hội họa là thi ca được nhìn thay vì cảm, và thi ca là hội hoạ được cảm thay vì nhìn” do đó “ thi sĩ và hội hoạ chỉ khác nhau về phương tiện và chất liệu sáng tạo nhưng cứu cánh là một” người ta cho là như thế vậy còn với nhà thơ Lê Chiều Giang?
 
LCG: Tôi rất đồng ý với anh về: Tranh là một bài thơ để đọc và thơ là một bức tranh để xem.
Nhưng để sáng tạo ra một bức tranh, bên cạnh tài năng, Họa sĩ còn phải là người kiên nhẫn.
Anh Nghiêu Đề khi vẽ xong tranh, nếu không bằng lòng chi tiết nào đó, có khi Anh cần cả tháng hay lâu hơn thế để vẽ lại. Thơ thì dễ hơn nhiều lắm, dù như anh nói “cứu cánh” đều như nhau.
 
Thđại: Một bức tranh đẹp là “hôn lễ của trần gian” thế còn một bài thơ hay theo chị là gì?
 
LCG: Bức tranh xấu, đẹp được đánh giá qua chủ quan của từng người khi thưởng lãm nó. Tôi hiểu câu hỏi của anh hoàn toàn theo nghĩa đen, nên với tôi Van Gogh, Michael Angelo…Dù tranh, tượng rất đẹp, nhưng họ đã chẳng có một “Hôn lễ” nào như anh định ví von.
Thơ “hay"? Thôi, tôi đành coi là…Hôn lễ của trần gian như ý của anh vậy.
 
Thđại: “ Văn chương hải ngoại rẻ như trứng gà” nhà văn Tuý Hồng bảo thế, là một nhà thơ chị có cho đó là một điều xúc phạm?
 
LCG: Nếu người viết trang trọng đủ với “chữ” và “nghĩa", họ sẽ thấy Chị Túy Hồng không hề xúc phạm và không thể xúc phạm gì đến họ. Thưa anh.
 
Thđại: Cũng vẫn theo nhà văn Tuý Hồng thì:” Ở hải ngoại nhiều người viết văn kiêm làm thơ. Tài không? …tuy đáng yêu, thơ hải ngoại không khỏi vấp phải một khuyết điểm chung: chữ nhiều nhưng nghĩa ít…” là nhà thơ chị có ý kiến gì về vấn đề này?
 
LCG: Đó là khi tôi làm thơ, rất ngắn. Tôi viết cũng không bao giờ dài hơn điều cần diễn tả.
Có thể tôi không có khả năng làm thơ dài, hay viết ra những truyện kể lê thê bất tận…Tôi thích sự vừa đủ.
 
-Ta?
-...Tố!
-Ta tố hết:
Đời.
Canh bạc cuối
Người dám cùng ta. Chấp?
cuộc chơi.
Hay thôi,
ngồi lại ta cùng uống
Bàn chuyện nhân gian vá đất trời
Nói về trăng tan và
Tuyết nguyệt
Một chút hoàng hôn
Chút mưa bay..
Chỉ xin đừng nhắc thêm gì nữa
Chuyện ta yêu người hay
Yêu ai?
[Trích:”Poker” KĐMTT]
 
 
Thđại: Chị làm thơ có dễ không, tôi biết có nhiều người khi sáng tác họ cần một không gian tĩnh lặng, một chút cafe, một chút âm nhạc, một chút…chị có cần những chuyện như thế để giúp đẩy đưa trong lúc “với thơ”?
 
LCG: Tôi không làm thơ trong những giây phút mơ màng, cũng chẳng phải ngay lúc khổ đau.
Chữ nghĩa chợt đến, như một sáng ngồi trên cỏ mướt xanh, với nắng vàng rực rỡ:
 
Ta chôn chồng ta
Một lần.
Duy nhất.
Ở giữa rừng gai
Không hoa trái mọc
Đất.
Đá.
rực cháy những lửa
Điêu tàn.
Ta đứng giữa trời
Lặng thinh.
Không khóc…”
[Trích” 1998” KĐMTT]
 
Thđại: Hãy kể thêm về những kỷ niệm êm đềm của Sài Gòn năm xưa, những sáng, những chiều trốn lễ nhà thờ, trốn trường lớp để được ở gần CHÀNG và ở gần những bức tranh chưa ráo nước sơn?
 
LCG: “... Những lần trốn học, bỏ nhà thờ, tôi hay tìm đến với Tranh, hít hà mùi sơn dầu chưa khô và trầm ngâm bên cạnh những màu sắc, bố cục mà tôi chẳng hiểu chút gì.
Những khi hò hẹn, phở chỉ một tô, nước mía lề đường có mỗi một ly. Anh Nghiêu Đề ngồi nhìn tôi uống hồn nhiên như tôi khát đâu đã từ tháng trước…Dễ thương nhất là có một chiều, chúng tôi và anh Trần Tuấn Kiệt ngồi ở La Pagode. Anh TTKiệt màu mè hỏi nếu tôi muốn uống thêm? Thích sữa tôi “dạ”. Đến lúc tôi hối anh Nghiêu Đề cho về, vì giờ hẹn hò của tôi phải chấm dứt khi Thánh lễ hết, và nhà thờ sắp đóng cửa. Anh chần chờ, lần khân…Sau này tôi mới hiểu chỉ tại ly sữa uống thêm của tôi, mà anh Nghiêu Đề phải ngồi chờ để anh TTKiệt hớt hải qua bên Khai Trí tìm xem có Văn nhân Thi sĩ nào lảng vảng, hỏi mượn vài đồng trả thêm cho ly sữa… Và nạn nhân hôm đó là Ngọc Thứ Lang, dịch giả đang giàu có với “Bố Già”.
 
Thđại: Có nên không nhờ chị đưa chúng tôi vào “thăm” lại nơi chốn mà CHÀNG cùng những người hoạ sĩ tài danh của hội hoạ sĩ trẻ đã trưng bày tranh của họ, nhưng nay mọi sự đã trễ tràng duy chỉ có một mình chị lả có thể giúp ôn lại “sau, xưa” nơi chốn ấy, chị có thể vẽ” lại cái khung cảnh trước và sau mỗi kỳ triển lãm mà chị hằng có mặt?
 
LCG: “…Không khí phòng triển lãm Alliance Française, tràn đầy những tinh hoa, thoát bay và ấm áp.
Khói thuốc Haft & Haft thơm tho, Basto nặng nồng, hay Lucky mờ mịt. Mắt tôi bốc cay với khói mà tưởng như có thêm cả chút nồng nàn, sướt mướt.
Những bức tranh với tên gọi bàng bạc như Thơ.
Anh Trịnh Cung với “Vương Hương”; “Trăng, Chim, Hoa và Nàng” của anh Đinh Cường; Nghiêu Đề với “Vùng Thanh Thoát”; và Nguyễn Trung của “Đêm Chân Không” …
Tôi mê những bức tranh cổ điển của anh Đỗ Quang Em. Ánh sáng và bóng tối, lạnh toát hay vắng tanh, anh đã làm ấm lại trong tranh chỉ với chút ánh đèn dầu le lói.
Và tranh Cù Nguyễn đẹp như một thinh lặng, gắn bó cùng nỗi chết, đâu đó mãi tận cuối chân trời.
Sàigòn, những ngày xao xác cùng chiến tranh, những lửa đạn kinh hoàng Khe Sanh, Quảng Trị...
Đạn lạc tên bay tận những nơi xa vời để bảo vệ cho Sàigòn. Một Sàigòn không tiếng súng.
Và tôi, trốn hết học hành trường lớp. Tôi mê muội theo những hương thơm ngát của sơn dầu, tôi bàng hoàng bên những nét cọ sắc sảo. Nét cọ mà khi dào dạt cùng tranh, đã phải óng ánh hơn những nét bút rời rạc; chữ nghĩa lơ mơ chợt quên, chợt nhớ của tôi trong trường thi, lớp học.
Tôi bị cuốn theo những chiều rực rỡ La Pagode, những đêm Givral hoa đèn lấp lánh.
Và cả với những sáng khi Sàigòn còn mờ hơi sương, lúc phòng tranh chưa mở cửa. Nơi đó, có năm bảy chàng họa sĩ trong Hội Họa Sĩ Trẻ, ngồi nghi ngút cùng café bên góc hè của Continental Hotel, ngay cạnh phòng triển lãm Alliance Française.
Hình ảnh mà sau này tôi xem trong phim tài liệu về những Họa sĩ thuộc thế kỷ 19th: Claude Monet, Rodin, Degas, Renoir, Cezanne… Họ đã có những sáng vang vang bốc khói cùng café, những đêm rượu đổ đầy đường trên phố Montmartre. Họ cũng đã ngồi cùng nhau bên những câu chuyện đầy màu sắc, ấm áp và chan chứa nhiệt tình, không khác gì những vị trong Hội Họa Sĩ Trẻ.
Từ The Boulevard Montmartre tới Đại Lộ Tự Do Sàigòn.
Trăm giấc mơ đã cùng với khói thuốc mịt mù bay, họ say sưa bàn bàn, nói nói về những tác phẩm tinh khôi, nhằm sáng tạo ra nhiều nét khác biệt hẳn với những tàn dư cũ.
Những bước chân reo cho một ước mơ dài: Làm mới, làm thăng hoa thêm cho nền hội họa của Miền Nam Việt Nam…
“...Tôi cafe mỗi sáng, rượu đỏ mỗi tối bên những tranh của Đỗ Quang Em, Nguyễn Trung, Đinh Cường, Nguyễn Lâm, Ngy Cao Uyên, Nguyễn Phước…Những xanh mượt mà. Những vàng ánh xôn xao. Những đỏ thắm như mặt trời, trắng xóa như chẳng còn thấy gì, những âm u lạnh toát trong tranh Nghiêu Đề…
Bắt chước La Dolce Vita, tôi thắp sáng những ánh đèn, tôi tạo ra một không gian ấm áp và bừng lửa. Ánh sáng trầm như nhạc, sắc như gươm đã như ngàn tiếng hét hò trong đời sống tôi: Lặng im.
Ánh sáng như giục giã, như gọi mời, để lắm khi dù đêm đã sắp tàn, những nhân vật vẫn lặng lẽ, vẫn mơ hồ bước ra từ tranh. Họ điềm đạm ngồi uống với tôi, nhắc lại cùng tôi những điều rất xa xôi từ trăm năm cũ.”
[Trích: Nhớ Về Hội hoạ sĩ trẻ. KĐMTT]
 
Thđại: Có lúc chị đã thử cầm cọ như CHÀNG (Nghiêu Đề) nhưng xem ra khung bố cũng như sơn có vẻ như không thích hợp nên chị đành vứt bỏ và chị đã quay sang “thơ”  có phải thế không nào?
 
LCG: Cái ngây ngô rất dễ thương của tôi khi ghi danh học hội họa, chỉ là vì nhớ như điên cái mùi hăng hăng của sơn dầu, chút hương mà tôi đã hít thở suốt 25 năm dài. Đến khi vẽ tôi mới hiểu ra rằng, để có một bức tranh đẹp, Họa sĩ không thể vẽ bằng khứu giác. Họ cần rất nhiều tài năng, những điều mà tôi chẳng hề có.
 
Thđại: Chị nói nhiều về TRĂNG tôi chắc là chị “mê” Trăng lắm, “ Lune, quel esprit sombre/ Promène au bout d’un fil, /Dans l’ombre..” , vậy ngoài trăng, ngoài những bức tranh còn ướt mực sơn ra chị còn thích những thứ gì khác nữa?
 
LCG: Tôi vẫn muôn đời chỉ mê Trăng. Trăng như thời thơ ấu, vàng soi trên cánh đồng mênh mông sáng. Trăng như dấu chấm trên đầu chữ I của Alfred De Musset, với giọng đọc mơ màng từ người Thày cũ. Trăng vời vợi như một đêm trên cầu Charles Bridge Tiệp Khắc, với tiếng Violin tuyệt vời của người hát rong mà tôi suýt mơ để đi hát dưới chân cầu, góc phố như một Bohemian. Và Trăng thảm thương như nước mắt tôi rơi suốt trên đường về nhà, nơi có anh Nghiêu Đề thoi thóp đợi.
Người ta chọn lớp học, trường thi, chọn người để yêu thương và ngay cả chọn nhà, chọn phố…
Nước mắt tôi rơi như sông như suối, khi tôi đã vừa chọn xong chiếc quan tài. Tôi đứng chơ vơ giữa chồng chất áo quan, chọn lựa rất lâu trong kinh hoàng, khiếp sợ. Và cuối cùng tôi đã “chọn” xong. Đêm đó, trăng sáng một cách lạ lùng. Trăng của nỗi chết.
Nhưng mới đây thôi, tuần trước. Trăng đỏ như lửa. Khi nhìn trăng đỏ như máu ai, cũng là lúc tôi nghiệm ra nhiều điều thay đổi, là lúc tôi tập sống với một vầng trăng mới. Chỉ vì, thưa anh: Cũng có khi trăng đỏ.
 
Thđại: Sau cùng một câu hỏi chót muốn được nghe chị cho biết dự tính về những ngày phía trước, những ước mơ và mơ ước chắc là đã có nhưng chưa kịp đơm mầm?
 
LCG: Tới một giai đoạn nào đó của đời người, phải chăng chúng ta đã chẳng còn can đảm nào cho một ước mơ? Tôi không còn nghĩ đến, nhưng biết đâu anh Nghiêu Đề vẫn còn nấn ná với nhiều mơ ước, dù rất lâu rồi đã bỏ đời ra đi.
Kể với anh chút chuyện gia đình. Khi anh Ngô Thế Vinh xuống thăm, nhắn nhủ 3 đứa nhỏ của chúng tôi: đừng theo nhau học ngành thuốc men, như gia đình người bạn trên San Francisco. Gia đình mà 7 người đều là Bác sĩ. Mỹ nó đã chẳng thể nào hiểu nổi. Lập tức anh Nghiêu Đề buông lời bông đùa:” Thôi ông Vinh, 7 đứa bác sĩ trong một nhà thì rất khó hiểu. Nhưng nếu tôi nói rằng:” Thưa bạn, gia đình chúng tôi tổng cộng có 7 Thi sĩ, hay 7 Họa sĩ !”. Thì chắc cả thế giới này sẽ đều không hiểu…
Mang trong tâm thức một đời sống nhiều tai ương, nhọc nhằn. Anh Nghiêu Đề chỉ muốn con cái đừng nối điêu theo lối sống đầy va vấp như chính mình. Nhưng cô út của chúng tôi. Sau khi tốt nghiệp Stanford rồi PHD ở Berkeley… Lại chẳng thiết tha gì với những thứ đã học. Khải Thư nghe theo lời kêu gọi của Art. Ngành Đạo diễn!
Art. Âm vang của những gì đẹp nhất, thanh thoát nhất. Nhưng Art là tiếng nói của một đời sống bấp bênh với rất nhiều bất trắc. Và chắc là ở nơi xa xăm kia, anh Nghiêu Đề đang lo lắng, đang sợ hãi… Anh đành phải thuận theo để cùng mơ ước, mong  Khải Thư Nguyễn thành công trong sự lựa chọn đầy thơ mộng này. Thưa Anh.
 
 
Thđại: Xin cám ơn chị, nhà thơ Lê Chiều Giang đã dành cho chúng tôi có được buổi trò chuyện thân mật này, kính chúc mọi điều tốt đẹp ở mãi cùng chị và gia đình.
 
LCG: Cám ơn anh Triều Hoa Đại. Nhưng vẫn thắc mắc sao anh nhất định cứ cho tôi thành “Thơ"? Trong “Không đứng mãi trong Tranh”, tôi còn có 20 bài viết về “Mơ" nữa chứ. Hay anh nghĩ như anh Đỗ Nghê rằng: Tôi viết như thơ, những bài thơ dài lắm…
Và để kết thúc cho có hậu với cuộc phỏng vấn của anh hôm nay, tôi đọc anh nghe một bài thơ ngắn nhất.
 
“ Ta mê người
Trái tim liều mạng
Dốc hết giang san:
Một môi cười
Thế giới?
Nhỏ.
Như vài chiếc lá.
Giật mình. Ta
Chắc phải yêu thôi.
[Trích:”Liều mạng”] 
 
*Phỏng vấn nhà thơ Lê Chiều Giang do Triều Hoa Đại thực hiện.

 
Tranh Nghiêu Đ
 
 
 

Thursday, February 23, 2023

MÙA ĐÔNG CỦA TÔI

nguyễnxuânthiệp
 
Chim mùa đông
 
đêm mùa đông
ngồi đốt một ngón nến
nhớ
bình trà. mùi hương hoa hồng
và những chiếc lá. trên bàn
giấc mơ
của tranh tĩnh vật
ngoài trời
tuyết chưa tan. những mái nhà. im lặng
con chim. đậu trên cây. sáng nay
đã bay chưa
dường như
không còn ai
không còn ai
về lại
con đường của mùa thu trước. dưới lá khô
 
Thành phố Garland, mùa đông 2012
NXT
 
 

Tuesday, February 21, 2023

VÀ NẾN NHỎ GIỌT LÊN MẶT BÀN. CHÁY BỎNG…

Nguyễn Thị Khánh Minh
 
Ukraine pic
 
 
Ngọn nến cháy trên bàn
Ngọn nến cháy.
 
Và nến nhỏ giọt lên mặt bàn. cháy bỏng…
Đó là câu kết một bài thơ của nhà thơ Iya Kiva, là một trong nhiều nhà thơ trẻ Ukraine hiện nay. Bà đã dùng câu thơ “Tháng hai. Lấy mực ra và khóc” của thi hào Nga Boris Pasternak (February. Get ink and weep!) để làm tựa đề cho ba bài thơ của bà. Cùng với các nhà thơ Ukraine khác như, Taras Shevchenko, Pavlo Vyshebaba, Oksana Zabuzhko, chúng ta thấm thía hơn thân phận dân tộc Ukraine, máu và nước mắt họ làm cháy bỏng trái tim thế giới.
 
Trước hết xin đọc bài thơ của Boris Pasternak, được viết vào năm 1913, lúc Liên Xô đang đối mặt với chiến tranh, nạn đói, để hiểu rằng vì sao Iya Kiva đã dùng câu thơ ấy để mở ra không khí “nước mắt và mực tan trong mưa…” cho ba bài thơ của mình.
Trong bi thương của đổ vỡ, chết chóc, trong bi hùng chia lìa, hy sinh, trong kiên định nuôi dưỡng niềm tin và hy vọng, xin chia sẻ nỗi thống khổ của dân Ukraine qua các bài thơ của: Mạc Văn Trang, Nguyễn Đức Tùng, Trần Hạ Vỵ, Trần Mộng Tú, và ngậm ngùi cùng Bertolt Brecht, Pháp Hoan thương tích của chiến tranh, và dĩ nhiên, cả niềm hy vọng của sống sót.
NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH
 
*
 
BORIS PASTERNAK
 
Tháng Hai. Lấy mực ra và khóc!
viết thật nhiều – ùa vỡ những niềm đau
tháng Hai, sấm rung tuyết tan dữ dội
như mùa xuân tăm tối cháy thiêu mau
 
Với nửa rúp, thuê một chuyến xe ngựa
xuyên qua những hồi chuông cùng bánh xe buồn
nơi cơn mưa dầm tối thui trút xuống
nước mắt và mực tan trong mưa tuôn
 
Dường như nơi này ngàn cây lê đã cháy
những con quạ trở về than khóc hàng cây
trong vũng nước có dòng tuyết lở
nỗi buồn đau khô đôi mắt quanh đây
 
Những đốm đen lộ ra trên đất,
gió xới tung trong tiếng thét gào,
bài thơ của tôi – ngẫu nhiên chân thực
như nỗi buồn ùa vỡ những dòng đau
 
– Boris Pasternak
(Mộc Nhân dịch từ bản Anh ngữ – vanchuongviet.org)
 
*
 
IYA KIVA (1984-)
 
THÁNG 2. LY MC RA MÀ KHÓC
 
Quan tài này cho bé, này cậu bé, đừng sợ, hãy nằm xuống,
Một viên đạn có tên là đời sống được nắm chặt trong bàn tay bé.
 
Chúng ta không tin vào sự chết, hãy nhìn – những thánh giá đầy nghịch lý
Bé có nghe chăng – tất cả các tháp chuông đã cắt đứt lưỡi của chúng?
 
Chúng ta không quên bé, hãy tin thế, hãy tin thế, hãy…
Niềm tin chảy máu dọc theo lằn chỉ bên trong tay áo của bé,
 
Thánh ca, kinh nguyện, thánh vịnh phồng lên trong cổ họng bé
giữa mùa đông buốt giá này, tất cả đều mặc vải quân phục,
 
Và Tháng Hai, lấy mực ra, đang khóc sụt sùi.
Và nến nhỏ giọt lên mặt bàn, cháy bỏng và cháy bỏng…
 
(Phan Tấn Hải dịch từ Anh sang Việt, Amelia Glaser và Yuliya Ilchuk dịch từ tiếng Nga sang tiếng Anh.)
 
*
 
TARAS SHEVCHENKO (1814-1861)
 
TARAS SHEVCHENKO, Nhà thơ Ukraine. Tập thơ đầu của Shevchenko là Người Hát Rong (Kobzar) xuất bản năm 1840. Di sản văn học của Taras Shevchenko được coi là nền tảng của văn học, ngôn ngữ Ukraine hiện đại.
 
GI N. N
 
Khi chiều tà phủ bóng những ngọn đồi
khi chim thôi hót ca và những cánh đồng yên tĩnh
khi mọi người cười và tìm chốn nghỉ ngơi
Tôi lặng ngắm khung cảnh này.
Trái tim tôi vội tìm về những khu vườn rực rỡ của Ucrana.
Và tôi vội vã.
Ôi, tôi vội vã biết bao với những ý nghĩ của mình
khi trái tim tôi khao khát được nghỉ ngơi.
Khi những cánh đồng tối dần,
khi những lùm cây tối dần,
khi những quả đồi tối dần,
tôi nhìn một vì sao.
Và tôi ứa nước mắt.
Này vì sao ơi!
Ngươi có chiếu rọi đến Ucraina không?
Những đôi mắt đen có thau rửa trời xanh để tìm ngươi?
Hay chúng chẳng thèm nhìn?
Thôi mặc chúng ngủ nếu chúng không nhìn.
Thôi mặc chúng chẳng biết gì về số phận tôi.
(1847)
 
(Ngân Xuyên dịch theo bản tiếng Anh của Alexander J. Motyl dịch từ tiếng Ukraina.)
 
*
 
PAVLO VYSHEBABA
 
Pavlo Vyshebaba là chiến sĩ đang cầm súng bảo vệ đất nước Ukraine. Từ tiền tuyến Pavlo gửi về ba bài thơ cho vợ cho con cho người bạn đã hy sinh. Dù từng giây đối diện với cái chết, tâm của ngưới lính-thi sĩ này vẫn toát lên lòng nhân ái qua những bài thơ sau.
 
1. THƯ CHO CON GÁI
 
Đừng viết cho cha về chiến tranh
Thay vào đó hãy kể: có cái vườn nào cạnh chỗ con?
Có nghe thấy tiếng hát của châu chấu, của ve sầu?
Và những con sên, chúng nó có bò trên bìm bịp?
họ gọi những con mèo như thế nào?
ở nơi xứ xa xăm con đang ở
cái mà cha khao khát nhất
rằng trong dòng thư con không có não sầu
đào và mơ đã nở hoa chưa ở nơi đó?
và có ai tặng cho con một bó hoa?
đừng kể với họ con đã phải trốn chạy hỏa tiễn như thế nào?
Thay vào đó nói rằng thật tốt biết bao khi còn sống nơi quê cũ
Hãy mời họ sau này sang Ukraine
và tất cả những ai con sẽ gặp nơi xứ lạ
Sau chiến tranh ta sẽ cho mọi người thấy
biết bao ơn nghĩa chúng ta mang với họ
từng là hòa bình và trú ẩn cho con em ta.
 
2. THƯ CHO V
 
Tới khi tất cả súng liên thanh im tiếng
Và kết cuộc ta sẽ nghe được mùa xuân
Hai đứa mình sẽ yêu nhau như kẻ chết khát
để tự gột sạch chiến tranh
ta sẽ đánh tan mùi khốn kiếp của nó
trong mồ hôi mặn muối của đôi ta
qua những nốt ruồi của em, bản đồ của những tinh tú
anh sẽ ngắm kỹ em toàn diện như lúc Chúa tạo em
và đến khi các đại bác đã nguội tanh
sẽ thật ấm nóng biết bao trong giường ngủ
anh sẽ hôn em đến gần như cắn
để xóa đi sự kinh hãi trong trí anh
để những lời rên rỉ của em đuổi đi sự im lặng
Trước một giấc ngủ vì mệt nhoài
anh sẽ ghì ôm em bất tận
và buổi sáng anh sẽ lại yêu em
và nếu định mệnh tha cứu chúng ta
và nếu chúng ta sống sót được cái mùa xuân độc ác này
hai đứa mình sẽ yêu nhau như kẻ chết khát
để tự gột sạch chiến tranh.
 
3. BÀI THƠ T TIN TUYN
 
có những hình ảnh chiến tranh ta làm ngơ chúng từ đâu tới
tựa như một haiku mà chủ đề tạo sự ngạc nhiên
những hoa trắng của cây anh đào non trẻ
đang chùng xuống trên chiếc súng bắn liên thanh
những vụ bùng nổ bất thần tựa dàn nhạc tiếp đón
ném đẩy mặt anh xuống chạm sát đất bùn
giữa những con kiến chìm ngập yêu thương
con cò bay lượn trên những dòng thác đổ
để thoát xa khỏi những trái bom lân tinh
tất cả bị chia cách và chẳng có gì tụ tập
nhưng bất chợt trong phút chốc lại hợp nhau
và thật sáng rõ, xuyên qua những mảnh vụn của bức tường
ở đây là đời sống – chìm đắm trong mùa hạ
ở đây một con người – chìm đắm trong chiến tranh
(Đặng Vũ Vương dịch)
 
*
 
OKSANA ZABUZHKO
 
Oksana Zabuzhko (sinh năm 1960) là một trong những nhà văn Ukraine đương đại.
 
LI T T GIA CÁC VÌ SAO
 
Giản đơn thôi, tôi chẳng thể là ai khác ngoài chính mình.
Rồi cũng sẽ đến lúc phải chết.
Và cũng chẳng thoát khỏi sự phán xét
Tất cả những gì gắn với tên tôi
Cũng sẽ bị thổi bay như bụi thời gian
Khỏi mọi tài sản, bài vở, địa chỉ của mình
(Đang rải rác khắp một bán cầu)
Nhưng, có thể bỗng một đêm
Trong tương lai, một người anh chưa rõ tên
Bật khóc trong giấc ngủ: “Giờ này em ở đâu?”
Và thế là quá đủ.
Hãy nhìn xem: Những dấu vân tay như bụi phấn
Từ những ngón tay chạm vào tấm gương cổ kính
Và tiếng huýt gió lanh lảnh xé thinh không
Như bàn trượt xẻ rãnh trên băng tuyết
Sẽ còn vang vọng giữa không trung
Và một đứa trẻ thơ, giật mình vì bất ngờ
Sẽ ngước nhìn lên trời cao, mắt trào lệ nức nở
Và thế đã là quá đủ: cuộc đời tôi đã trọn vẹn.
Bạn hỡi – hãy tiếp tục cuộc đời không có tôi.
 
(Trần Hạnh dịch theo bản tiếng Anh – vanviet.info)
 
*
 
MẠC VĂN TRANG
 
TÔI ĐÃ THY UKRAINA
 
(Gửi Nataliya Zhynkina)
(Trích đoạn)
 
Tôi đã thấy ngày 24/2/2022
Quân xâm lược Nga tràn vào Ukraina như bầy quỷ dữ
Kín đặc bầu trời máy bay hùng hổ
trút mưa bom, lính nhảy dù, tên lửa…
 
Đen ngòm mặt đất
Xe tăng, thiết giáp, pháo binh, lính bộ …
Cả đất nước Ukraina rung lên rùng rùng trong bão lửa…

Cả đất nước đồng lòng
Mỗi người dân đều xin nhận súng
Trai tráng tha hương lũ lượt kéo về…
Năm mươi nghìn phụ nữ không phải động viên
Cũng xin nhập ngũ…
 
Trong ngôi nhà đổ vì tên lửa Nga
Cô gái Ukraina sống sót
vội chạy đến chiếc đàn piano
Cô giũ bụi,
đàn một bản tình ca
rồi lặng lẽ ra đi…

Nhưng không thấy những khẩu hiệu “Đả đảo!” “Căm thù”, “Giết! Giết!”
Không thấy những tranh áp phích
Vẽ búa liềm và lưỡi lê xung kích
Lại thấy tranh hài “Bán xe tăng Nga đồng nát!”
 
Không thấy những lời bài hát
“Thề phanh thây uống máu quân thù”
Mà thấy tiếng đàn piano
Vĩ cầm hay guitar thánh thót
nhạc Mozart, Chopin, Beethoven hay Bach…
ở giữa quảng trường đổ nát
và dưới hầm sâu ẩn nấp tránh bom …
 
Tôi đã thấy những phụ nữ, cụ già đem bàn ghế, cánh cửa nhà mình
chất chồng cùng bao cát
chở che những tượng đài công trình nghệ thuật…
và khi những trận bom vừa dứt
họ lại xúm vào chăm sóc vườn hoa trên quảng trường thành phố…
 
Người lính xung trận
không hùng hồn tuyên bố…
chỉ thật lòng chia sẻ tâm tư:
Chúng tôi chiến đấu không phải vì lòng căm thù phía trước
mà bởi tình yêu tha thiết ở sau lưng!

 
– Mạc Văn Trang
(28/10/2022)
 
*
 
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
 
BÀI THƠ UKRAINE
(Trích đoạn)
 
Không có tội ác và trừng phạt.
Không có ngày phán xử cuối cùng.
Tội ác dửng dưng đi qua như người khách lạ
Nó đứng lại. Và chúng ta sợ hãi
Và hy vọng: tội ác sẽ đổi ý.
Kìa, nó tha bổng.
Thả chúng ta về nhà. Bếp lửa em lại đỏ.
Bánh mì. Hoa hồng. Gió rét lật từng trang sách cũ.
Chúng ta lại bắt đầu
Nói về lòng dũng cảm, thương yêu nhau, nói về sự cô độc của em.
Bỗng nhiên trong đêm anh nhận ra
Anh đã bước khỏi căn nhà của chúng ta
Anh đã bước ra khỏi thân xác mình
Như một cái cây nứt vỏ, và trổ hoa
Ngoài cành, xa trong thinh không.
 
Cuộc chiến tranh xâm lược Ukraine có phải là cuộc chiến tranh của nhân loại
Đó là câu hỏi quan trọng nhất
Sự bất hạnh của con người làm lên phẩm giá của thế kỷ
Chứ không phải hạnh phúc Châu Âu
Hay tấm gương của Mỹ
Các chủ nghĩa bị đập vỡ sau một đêm
Khuôn mặt em trong gương không lành lặn.
Vặn thấp xuống ngọn đèn.
Đóng chặt cửa.
Dừng lại thời gian
Ở đây bóng tối đã sinh ra
Vào đầu thế kỷ này bóng tối đã sinh ra
Trên đường phố Kiev
Một cậu bé lên bảy tuổi
Xe em bị đánh bom, cha chết, mẹ chết
Hất khỏi xe hơi, chở tới bệnh viện cấp cứu trẻ em
May mắn thay vẫn còn sống
Đau khổ thay vẫn còn sống
Để suốt đời nhớ lại
Hãy để con người nhớ lại: nạn nhân đầu tiên
Bệnh nhân số một của cuộc chiến tranh Ukraine: một cậu bé bảy tuổi tên là Semyon.

– Nguyễn Đức Tùng
 
*
 
TRẦN HẠ VI
 
K T THƯƠNG TRƯỚC NHT
 
Nga – Ukraina
Chiến trường giữa địch và ta
Bom đạn là thật
Máu và nước mắt là thật
Hy vọng tự hào tủi nhục thất vọng căm thù là thật
Giữa những làn thông tin những đám khói mù mịt
Kẻ tử thương trước nhất
Bao giờ cũng là
sự thật
 
– Trần Hạ Vi
(12.03.2022)
 
*
 
TRẦN MỘNG TÚ
 
PH N VÀ CHIN TRANH
 
Người đàn bà thức dậy sáng nay
đứng trước gương soi mình rất lạ
 
hai con mắt của người Mẹ Ukraine
chăm chăm nhìn mình
kinh hoàng
trên gò má nhăn nheo
đầm đìa lệ 
 
Dưới làn áo ngủ mong manh
cặp nhũ hoa nàng
cặp nhũ hoa của người mẹ Ukraine
đang cho con bú
bây giờ sữa bầm màu máu
 
cặp nhũ hoa của nàng
người chồng âu yếm gọi là cặp bồ câu trắng
bây giờ nổ tung từng mảnh
 
Người đàn bà thức dậy sáng nay
nhìn xuống hai tay mình rất lạ
những ngón tay như đã rơi mất cả
hai cánh tay đã bay đi xa
những mảnh đạn bày gọn gàng
trên ngực
 
trên ngực của chàng
nàng bật gọi tên
người chồng vắng mặt
 
Tiếng pháo kích rơi vào buồng
chiếc giường đựng đầy mảnh bom
chiếc áo ngủ phất phơ bay
màu trắng trên cặp cánh bồ câu của chàng, đầy máu
 
Ôi những bà mẹ mất con
những người vợ mất chồng
những người yêu nhau
đã mất nhau.
 
Hãy cho tôi khóc hộ mẹ già
hãy cho tôi khóc hộ người lính
và cho tôi khóc hộ nàng
 
Bằng đôi mắt của Tháng Tư-Việt Nam
 
– Trần Mộng Tú
(3-14-2022)
 
*
 
PHÁP HOAN
 
MI XANH
 
Sau chiến tranh
Sẽ là một địa đàng
Cho những người đã mất
Nơi cây khô sẽ mọc xanh trở lại
Qua mái ngói những ngôi nhà
Nơi tiếng chim ca mỗi sớm mai
Bên miệng hồ xanh thẫm
Sẽ có một địa đàng
Nơi cỏ xanh chen lấn
Xương trắng những người lính
Nơi máu ngủ ngon lành
Trong miệng giếng tối đen
Cùng những ký ức như bom
Vùi sâu trong lòng đất
Sẽ có một địa đàng
Nơi những giọt nước mắt
Không bao giờ rụng
Giữa những hàng mi xanh.
 
– Pháp Hoan
 
*
 
BERTOLT BRECHT
 
KHU HIU
 
Trong những thời kỳ đen tối
Sẽ có những bài hát được cất lên?
Đúng vậy, sẽ có những bài hát được cất lên.
Hát về những thời kỳ đen tối.
 
 
CUC CHIN ĐANG ĐẾN
 
Cuộc chiến đang đến
Không phải là cuộc chiến đầu tiên
Đã từng có
Những cuộc chiến trước đó.
Khi cuộc chiến cuối cùng đến hồi kết thúc
Có những kẻ chinh phạt và những kẻ bị chinh phạt
Giữa những kẻ bị chinh phạt.
Thường dân chết đói
Giữa những kẻ chinh phạt
Thường dân cũng chết đói.
 
(Pháp Hoan dịch)