Cung
Tích Biền
Hoa đào. Photo Việt
Phương
Một
số ít các nhà thơ nữ, không cứ là trong sáng tác, ngay đời thường của họ, đã là
một bài thơ, là Thơ. Đó là sự thuần khiết về tâm hồn, sự hiền hòa, thơ mộng,
thanh cao trong ứng xử. Họ là một cành dị thảo trong vườn hoa vốn đã đầy hương
sắc.
Một
hôm, được mời dự một buổi ra mắt một tập thơ của Khánh Minh, được mời phát biểu
đôi lời, tôi nhớ tôi chỉ nói đúng mấy từ, “Nói về thơ Khánh Minh ư? Khánh Minh,
đã là Thơ rồi”.
Khánh
Minh là nhà thơ, viết cả văn.
Thường,
một người làm văn, khi mần thơ, thường không được hay. Ngôn ngữ thô cứng. Chỉ rặt
lý luận. Khen thơ ấy hay, chỉ vì nhà văn ấy đã khéo léo lôi kéo người thưởng
ngoạn, thay vì thơ, đã đi đường tắc theo cái lý lẽ, lý luận về “cái sự đời”
tương đối chặc chẽ do ông đưa ra. À, thơ hay, đúng vậy. Kiểu tam đoạn luận.
Nhà
thơ mà viết văn? Cũng chẳng hay ho chi, trừ một vài tài năng hiếm hoi. Thi sĩ
viết văn? Đó là cuộc sa đà vào tràng giang mơ mộng, cái chữ lênh đênh trôi dạt.Không
cô đọng. Vì văn quá thơ, nên văn quá hiền. Rêu nhạt. Không có cái sắc sảo, ác,
gọn, tỉnh táo như nhà văn.
Xem
Tản Đà, một người mần thơ linh kiệt, như thần trời nói hộchỗ thần tiên:
“Cửa
động
đầu
non
đường
lối cũ
Ngàn
năm thơ thẩn bóng trăng chơi
[
đoạn cuối, thơ Tống biệt]
Mà/
nhưng văn của ông? Thật là con đường rừng quanh co rối rắm, lẫn lộn lá xanh lá
vàng, bờ cao, suối nước. Nói gọn, một khu vườn bấy lâu thiếu chăm sóc.
Khánh
Minh, thơ và văn. Cô chưa đứng trên đỉnh. Cô chỉ lơ lửng chỗ sườn non. Nhưng,
thế cũng là hân hạnh cho người đọc. Ở đây thấy được đồng bằng dưới kia, thấy biển,
thấy cái nhân gian xanh lơ bàng bạc. Ở đấy, đã đầy đủ những biểu tượng của hiện
thực, và bao la là biểu cảm với cái thế giới hư vô, huyền áo của tâm hồn.
Thơ
và văn của Khánh Minh rất đều. Không cái nào là tay trái. Khánh Minh, người có hai tay mặt.
**
Những
ai là người Việt, từng sống trong thời gian dài dặc ba mươi năm, dài hơn hai
mươi năm nội chiến từng ngày. Trà trộn vớichiến tranh, hòa bình, chia cắt, tù
đày, mỗi người trong chốn nhân gian rủi ro ấy, không ai trốn khỏi những hoạn nạn,
thương tích.Thương tích thể hình, thương tích hủy hoại sâu thẳm trong tâm/ linh
hồn.
Đủ
kiểu thương tích. Mỗi người có, một, hai. Như ta có sẵn vài cái xương sườn
trong cơ thể.
Khánh
Minh không thoát ngoài. Khánh Minh đứng trong cái Bóng dĩ vãng. Thơ văn của cô
là trĩu nặng nỗi cảm hoài, lắng trầm ký ức.
Hãy
đọc Một nhịp dừng của Khánh Minh, Dừng ở nơi đâu? Nơichốn sâu nỗi lòng. Dừng
trong cơn mơ xanh biếc, rất long lanh những phận người.
Khánh
Minh nhớ Cha. Ở ngoài ánh sáng, cô nói hộ cái hoàn cảnhtối tăm, cái tâm tư xám
màu, của thân phụ mình đang trong trại tù Gia Trung.
MỘT
NHỊP DỪNG
Khoảnh
khắc những vòng tay. Hụt hẫng
Một
vuông trời đêm, thức giấc
Bóng
tối so dài hạt lệ...
Khoảnh
khắc những đêm thầm, nỗi sợ
Nín
cơn mơ, canh chừng lời nói mớ
Bình
minh bật trắng âm u
Khoảnh
khắc những bước chân, bóng hút
Đôi
mắt ngó con đường đi, bỗng cụt
Mầu
san hô đỏ dưới chân ngày
Khoảnh
khắc dài theo tiếng gọi
Rốt
lại một chiều câm tiếng nói
Đợi
chờ đuối một giấc mơ
Khoảnh
khắc vói theo mùa xuân trôi
Mầu
hoa tím ở trên đồi
Thường
về lao xao trong giấc ngủ
Khoảnh
khắc những vòng xelăn mãi
Biết
đâu một nhịp dừng thơ dại
Tôi
lại về kịp giấc tôi mơ...
2012
(Viết
theo nỗi niềm của cha tôi, những năm tháng ở trại tù Gia Trung)
Một
bài thơ gây nhiều xúc động cho người đọc. Tâm sự, nỗi cảm hoài riêng tây ấy
cũng là một tâm cảm chung của mọi người Miền Nam trong buổi kết thúc cuộc chiến
chinh Nam Bắc.
Một
sớm mai thức giấc, bàng hoàng nhìn ra, “Chúng ta mất hết cả rồi”. Tan nát đời
thường. Cạn kiệt những hy vọng. Chúng ta bị bao vây bởi những sợ hãi, khốn cùng
trong tuyệt vọng. Một trại tù chung, bao la từ con đường đi phố thị đến những
ai sống trong lũy tre làng. Không cứ là chốn Gia Trung, có rào kẽm gai cổng sắt,
ngoài đời này, chúng ta cùng một cảnh chung,“Một vuông trời đêm, thức giấc.Bóng
tối so dài hạt lệ...” Và, ngay trong giấc ngủ, vẫn “Khoảnh khắc những đêm thầm,
nỗi sợ. Nín cơn mơ, canh chừng lời nói mớ”
Trong
tháng ngày thảng thốt ấy, một cơn gió lạnh, thoảng, người đã rùng mình như lưỡi
gươm đưa.Trong nắng, đã chảy đầy bao vết thương. Rán chiều, lệ đỏ.
Một
Nhịp Dừng. Bài thơ hay. Cấu trúc lạ. Ngôn ngữ đẹp, sâu lắng. Mỗi chữ/ từ, đã rõ
lộ sự cần thiết trong Thơ, là “Ý tại ngôn ngoại”. Xác Chữ ở đây, mà Hồn chữ nơi
Cõi ngoài, nơi lai láng mối giao hòa giữa tác giả và người thương ngoạn. Một
tâm tình chung, trong hoàn cảnh, lịch sử chung chịu.
Và,
hãy đọc một đoạn văn, Khánh Minh viết:
“Về,
là về lại một nơi mình đã chia xa, một chốn cũ, nơi mình được ngồi yên lặng để
bầu thân thuộc chuyền cho mình những dưỡng chất đã tiêu hao theo những dặm dài,
để được nhìn thấy mình cùng không khí ấy mới mẻ thế nào, cũ kỹ ra sao. Hẳn sẽ
là bước về nôn nao hối hả.
“Về,
là về cõi thời gian, một dòng chảy mơ không bờ bến, nếu không dành tâm tới lui
với nó, khuấy lên hiện tiền một tiếng gọi, vén chút mù sương của ký ức, dợm một
bước những phút giây sẽ tới, thì dòng chảy ấy sẽ hư vô. Nên bước về như thước phim
quay chậm.
“Và
sẽ chập chùng trên đó những bước chân của xác phàm lẫn tâm thức. Nơi chốn ấy là
Sài Gòn, thời gian ấy là Sài Gòn. Vâng, Sài Gòn....
“Ngôi
nhà ba mẹ tôi ngày trước, có hàng tràm bông vàng bên kia vệ đường, tới mùa hoa
gieo phấn thì bụi vàng xác hoa li ti đầy trước ngõ.
“Tôi
đứng yên trước cổng, nếu có bấm chuông cũng sẽ không có ai mở cửa. Tần ngần cầm
chiếc chìa khóa, tôi mở, tiếng lách cách nghe lạ như lâu lắm chưa từng...Tôi đi
thẳng lên lầu nơi có bàn thờ, mùi gỗ cầu thang âm ẩm, tôi nhìn hình cha, một
chút sợ sợ, không biết vì sao, có lẽ tại âm dương nghìn trùng trong căn phòng
thờ im lặng, tôi đặt tay lên khuôn hình, ba ơi, con về với ba đây.
“Phất
phơ mầu áo lụa mỡ gà bộ bà ba xô dạt tôi, A, tôi đã theo mầu áo này mà về.
“...
Mầu áo tôi không quên cha tôi mặc tối hôm ấy. Buổi tối, như vậy thôi, đừng nhớ
thêm gì nữa về thời gian..., một toán lính xông vào nhà tôi như một trận bão,
túa lên những phòng và dồn 8 người gia đình tôi xuống phòng khách. Một tờ giấy
được dơ lên, một lời được đọc. Đêm đóng lại theo từng bước chân của mỗi người
được gọi lên phòng của mình.
“Tất
cả phòng đều bị niêm phong. Có ai nghe tiếng một chùm chìa khóa quăng mạnh xuống
mặt bàn gỗ như thế nào không, có thể không là gì nhưng đêm đó âm thanh ấy đã
làm cả nhà tôi giật nẩy người.Đó là chùm khóa nhà. Và sau đó là tiếng loảng xoảng
của những chiếc còng tay. Ba tôi đi, hai em trai tôi đi, bước lên một cái xe
bít bùng. Họ đang bước vào bóng tối. Cùng đi là tất cả sách vở trong nhà. Tiếng
những chiếc xe nhà binh như tiếng rú…
(Trích
Lần Theo Mộng Ảo Mà Về)
Đoạn
văn này khá sâu sắc. Lối hành văn và chữ nghĩa là của một tay dụng chữ già dặn.
Cô đọng trong diễn tả nỗi đau thầm, nhưng thanh thoát, xanh lơ cái bình thản, của
một người hiểu đời.
Chữ
nghĩa thấy ra đơn giản, thực sự chúng bị xé bức, công phá bởi ký ức đau đớn, một
dĩ vãng xám ngắt trong mù mưa thời thế.
Hà
cớ gì người trở lại thềm nhà xưa với trọn niềm đau? Không hề là mộng ảo. Đây là
Cõi đời thật. Về lại nơi cố quận, chi vì nhớ Cha mà về.Nhớ màu áo xưa. Nhớ Bóng
tốiphận người.
Một
ngôi nhà xưa. Một nơi thờ phụng chừng vắng khói hương. Một người nhớ người,
trong cái sầu lắng của nguyên-màu-kỷ-niệm.
Bùi
Giáng xưa cũng nhớ người.Hỏi người mai sau, nhưng chính là nhớ người trong ngày
tháng cũ:
“Em
về mấy thế kỷ sau
Nhìn
trăng có thấy nguyên màu sơ nguyên”.
Một
bài thơ lạnh. Nhưng Nhà thơ đáo để là chỗ này. Cái chuyển luân của kiếp người,
và cái bất biến từ tự nhiên. Trăng, là
trăng vạn đại.“Em” là em một kiếp khác. Không phải người khác. Sao vậy? Nguyễn
Công Trứ đã từng cảm khái “Kiếp sau xin chớ làm người / làm cây thông đứng giữa
đời mà reo”. Nếu hậu kiếp được là một chủng loài khác, thuyết lý của nhà Phật
cũng đồng ý vậy, thì “Em” của Bùi Trung niên Thi sĩ có thể là “Con nai vàng ngơ
ngác”. Bùi Giáng đã từng nói, “Đứng ngã ba nhìn ra ngã bảy, nhìn xe cộ hóa hươu
nai”.
Cùng
văn phong ấy, Khánh Minh đã viết: “Về, là về cõi thời gian, một dòng chảy mơ
không bờ bến, nếu không dành tâm tới lui với nó, khuấy lên hiện tiền một tiếng
gọi, vén chút mù sương của ký ức, dợm một bước những phút giây sẽ tới, thì dòng
chảy ấy sẽ hư vô”
Cuộc
xoay vần, chuyển luân kiếp người, tựu trung, chỉ trong cái đứng im, và lặng yên
của Nguyên Màu. Vạn sự tự nhiên. Vạn vật như nhiên. Thiên hà ngôn tai. Trời đất
nào có nói gì đâu. Chỉ lòng ta bối rối.
Một
căn nhà cũ. Khánh Minh đã trở lại.
Thơ
văn của cô, ra đi từ tấc lòng, trở về trong tấc lòng.
**
Tôi
chỉ đọc một ít thơ văn của Khánh Minh. Và Cái nhìn của tôi có thể giới hạn trên
ngần ấy. Nhưng chỗ chữ nghĩa cố kim có cái lạ. Văn là người. Gặp người chỉ nhìn
qua đôi mắt nụ cười có thế biết…rõ người. Dân gian thường bảo “Coi mặt mà bắt
hình dong”.
Đọc
vài trang chữ biết chữ nghĩa ấy thế nào. Là, dâm tình Kim Bình Mai. Rổn rảng
binh đao Tam Quốc chí. Hay đầm đầm cái vị hương tình Hồng Lâu mộng.
Đọc
dăm ba chục chữ đã biết là văn Mai Thảo, với chữ nghĩa mới mẻ, dồn dập hoa mỹ,
hay Bình Nguyên Lộc lời chậm rải tỉ tê, hồn nhiên của trời mây Nam bộ. Đọc dăm
câu thơ, biết ngay thơ Nguyên Sa hay thơ Tô Thùy Yên.
Tất
nhiên phải có cái tài mới có cái Mới, cái Lạ. Cái mới phải đa diện. Cái lạ phải
thật sự là Lạ, khácthường, chỉ một, mới đóng dấu ấn vào trí não người.
Tôi
hiểu, Khánh Minh cũng có cái ý thức “Đứng riêng mỗi mình”.Đây là thái độ chân
thiện, cần thiết trong mỗi người cầm bút.
Rât
mừng, trong chừng mực, thơ văn Khánh Minh có một chốnriêng. “Mình không giống
ai”. Và, mong sẽ không ai giống mình. Cô đã thành công.
Cảm
ơn Khánh Minh đã cho tôi đọc một số tác phẩm của em. Và, viết những dòng này. Một
tương phùng gió thoảng, trong tình văn hữu.
Garden
Grove một ngày cuối năm,
31
tháng 12 – 2022.
CTB
No comments:
Post a Comment