Saturday, August 25, 2012


Đợi tàu ngược 

Ý Nhi 

                              
                                             Cây hoa gạo bên tòa miếu cổ ở một làng Miền Bắc

    Nhà ga nằm trên một nền đất khá cao, so với nơi đỗ tàu. Đó là một gian phòng hình chữ nhật, có 4 cửa đối diện với nhau, 2 cửa để ra tàu và 2 cửa cho khách xuống tàu. Các cánh cửa đều có màu xanh biển, màu đồng phục của tất cả các ngôi nhà, các công sở, các trường học một thời. Ở khoảng giữa phòng có mươi chiếc ghế gỗ, kê song song thành 2 dãy. Trên chiếc ghế sát tường có 1 người đang nằm ngủ, đầu gối lên chiếc túi vải màu cỏ úa, chân co lại, chiếc mũ cối ôm khư khư trước bụng. Ba người còn lại, một thiếu nữ, một thanh niên và 1 ông cụ râu tóc bạc phơ, mỗi người một ghế, lơ đãng nhìn anh, người khách mới. Họ bình thản như kiểu sau một ngày làm việc, ngồi trên thềm nhà ngó mung lung ra mảnh vườn quen thuộc của mình, xem chim chóc chuyền cành, nhìn gió bay lá rụng vậy. Anh đến bên ông cụ, nhà ga có báo lúc nào tàu đến không ạ. Ông cụ không đáp, ngoảnh mặt về phía chiếc bảng ghi giờ tàu. Trên tấm bảng, anh nhìn thấy mấy hàng chữ lớn bằng phấn viết đè lên các dòng kẻ. Anh cố đọc nhưng ngoài 2 chữ Thông báo, anh không sao có thể đọc được những nét vẽ ngoằn ngèo kỳ lạ đó. Anh lẩm bẩm, chữ nghĩa gì mà như ma vầy thế. Ông cụ đưa cả bàn tay lên che miệng, suỵt, chớ nói năng phạm thượng ở nơi này. Anh quay lại, nhận ra nỗi sợ hãi trong mắt ông. Anh hỏi, cụ đợi tàu xuôi hay tàu ngược ạ. Ông cụ đang  mải lục tìm thứ gì đó trong chiếc túi vải bạt sờn cũ, không còn rõ màu, quay lại, ánh mắt đã trở nên bình thản, tôi có đợi gì đâu. Tàu xuôi, tàu ngược thì ăn nhằm gì đến tôi. Ông lôi ra một chai rượu có dán nhãn Lúa mới nhưng lại được nút bằng một nùi lá chuối khô. Có lẽ, Lúa mới chỉ là cái vỏ còn rượu trong chai là thứ rượu mà mọi người thường gọi là rượu cuốc lủi, nấu ở các lò thủ công. Đặt chai rượu sang bên cạnh, ông lại khoắng tay vào túi, vẻ bí mật  như kiểu các nhà ảo thuật thường làm nhưng thay vì lôi ra một hoặc hai con bồ câu trắng muốt để tung lên trời, ông lại lôi ra  2 chiếc cốc thủy tinh lợn cợn hạt, đã ngả sang màu nâu đất, một chiếc đĩa bằng thiếc mỏng, một gói lạc rang, một gói muối ớt, một quả dưa chuột, một con dao nhỏ, lưỡi mòn vẹt.  Bàn tay ông cụ đen đúa, nổi gân chằng chịt, hơi run run khi mở nút chai, rót rượu vào hai chiếc cốc. Xong xuôi, ông từ tốn vấn lại nùi lá vàng úa tả tơi, tém gọn những mảnh nhỏ thò ra ngoài, xé bỏ những mảnh đã mục để có một chiếc nút gọn gàng, xinh xắn. Ông vừa lấy ngón tay cạy cạy chỗ nhãn mác còn sót lại trên vỏ chai vừa nói, thứ rượu  này chỉ hợp với cái nút bằng lá chuối khô thôi. Đậy chiếc nắp kim loại lên trông chẳng ra ngô ra khoai gì ráo, cứ như mặc đồ bộ mà đội khăn đóng vậy. Nói cậu đừng để bụng, anh Lúa mới này chỉ được cái đẹp mã, uống thì nhạt toẹt, tệ hơn nước lã. Ấy là của thằng con đem về dịp giỗ mẹ nó chứ tôi chẳng dại bỏ tiền ra mua. Mà ngẫm ra thì tất tần tật mọi thứ ở đời cũng là bởi thói quen thôi cậu ạ, ví như cái sự uống chè ở làng tôi đấy. Làng tôi là làng trồng chè. Người ta thu mua hàng tạ hàng tấn, sao chế toàn bằng máy móc hiện đại, đóng gói, đóng hộp đẹp đẽ, xuất đi ta bà tứ xứ, nghe đâu được thiên hạ khen nức nở, thế nhưng tôi và nhiều nhà trong làng chỉ uống thứ chè trồng ở vườn, sao bằng cái chảo gang sứt mẻ, pha bằng nước giếng mới thấy thấm thía. Anh không đáp lời ông cụ bởi chỉ nghe tiếng được tiếng mất, câu chăng câu chớ, lòng chợt buồn rười rượi khi nhìn ông tự bày biện mâm nhậu sơ sài của mình giữa cái nhà ga hiu hắt như tách rời khỏi thế gian này. Ông cụ nheo mắt nhìn anh hồi lâu rồi xoa tay vào nhau, khà một tiếng thật to, ra vẻ khoan khoái, mời cậu. Ông nhoài người, đặt chén rượu vào tay anh, rượu xịn đấy, cậu đừng sợ. Uống với  nhau một chén, khề khà vài câu mới  nên bạn nên bè được. Rồi tôi sẽ nói cho cậu biết tôi đợi gì ở nhà ga này. Ông nuốt ực chén rượu, im lặng một lúc rồi đặt đánh cạch cái chén xuống mặt ghế, giọng dứt khoát, tôi không đợi tàu. Làng tôi chỉ cách đây non cây số. Cả đời tôi chưa ra khỏi đất này. Anh nhấp một chút rượu đáp lễ, nghe tê tê nơi đầu lưỡi, mắt không rời khỏi ông cụ, cố hiểu câu nói của ông. Ông cụ bỗng cất tiếng cười, một tiếng cười khô khan, rời rạc, cậu đoán làm sao nổi. Mà tôi có đánh đố cậu đâu. Tôi không ưa đánh đố người khác, làm cho việc nhẹ thành nặng, việc dễ thành khó, chẳng ích chi. Ông mở nút, rót thêm rượu vào ly nhưng không uống, mắt nhìn lạc đi đâu đó, ngoài xa kia, quá tầm nhìn của anh, tôi ra đây chỉ vì bà nhà tôi mất ở đây, ở ngay cái ga này này. Hôm đó, đi làm về, bà nhà tôi tạt qua ga tìm mớ cỏ mực để về rịt vết thương cho thằng cháu nội. Không hiểu làm sao mà thứ cỏ ấy lại mọc um tùm lấn hết các loại cỏ khác ở đây. Cả làng, ai cần cũng ra vặt mà chúng vẫn xanh um, tươi tốt quanh năm. Cậu có biết loại cỏ đó không. Vò ra, nó có nước màu xanh đen. Có lẽ vì thế mà người ta gọi là cỏ mực. Đó là thứ thuốc quý cậu ạ. Trẻ con bị trắng lưỡi, vò ra, lấy nước lưỡi vài lần là hết. Người nóng nảy rôm sảy, vò tươi để tắm hoặc phơi khô sắc nước uống. Ai trầy tay sướt chân, nhai mấy cộng lá, đắp vào vết đau là yên trí sẽ liền da liền thịt. Hôm đó, thằng cháu vô ý dẫm vào con dao thái chuối mẹ nó để quên ngoài sân, rách một đường ngay chỗ gót chân. Bà ấy đi lấy cỏ mực cho cháu. Ai dè, chiều muộn rồi mà chúng còn đi thả bom. Chúng muốn phá cái nhà ga này nhưng khốn nỗi, ga chỉ rơi vài viên ngói còn bà nhà tôi và 2 đứa trẻ chăn trâu thì trúng mảnh, không cứu được. Từ cái ngày oan nghiệt đó tôi thấy như có một sợi dây ràng rịt chân tay tôi, tâm trí tôi với nơi này. Phần mộ của bà ấy ở nghĩa trang của làng nhưng tôi vẫn muốn ra đây, cứ như nghe thấy bà ấy gọi vậy. Ngày nào có việc bận, không ra được, lòng tôi bồn chốn lo lắng, đứng ngồi không yên, cả đêm trằn trọc, chốc chốc lại dậy châm đóm hút thuốc, mong cho chóng sáng. Tôi ra đây, uống vài chung rượu, đợi lúc mặt trời sắp lặn, được nhìn thấy bà ấy đang lúi húi chỗ vạt cỏ xanh rì kia, mới yên ổn ra về. Ông cụ nấc lên, rồi ho khan một lúc lâu, mặt đỏ rựng, mắt dân dấn nước, trời ơi, bao nhiêu người đi lấy cỏ mực, sao chỉ mình bà ấy gặp nạn. Nghĩ rằng ông cụ sẽ ngưng câu chuyện, anh định đứng dậy thì nghe ông hỏi, cậu có vợ chưa. Nhưng ông cụ không đợi câu trả lời, ông nói nhỏ, mặc cho thiên hạ nói sao thì nói, tôi thì nghĩ, người phụ nữ mới là trụ cột của gia đình cậu ạ. Người đàn bà tử tế thì cái gia đình ấy tử tế, người đàn bà hư hỏng thì cái gia đình ấy hư hỏng. Phải quấy, vui buồn, hay dở đều ở nơi họ. Ấy vậy nên khi nhà tôi mất, gia đình tôi như nghiêng ngả, liêu xiêu, không sao gượng lại được. Nó lỏng lẻo như người không có cột sống, như chân tay không có khớp xương vậy. Tôi xù lông xòe cánh che chở cho hai đứa con, đến khi chúng khôn lớn thì tôi sụp hẳn, lại còn mắc chứng nghẹn, chẳng nuốt nổi cơm. Mỗi ngày chỉ vài hột lạc, vài xị rượu là xong bữa. Ở làng tôi, cứ 10 nhà lại có 1 nhà nấu rượu. Rượu gạo, rượu nếp, rượu sắn, rượu ngô…đủ cả. Gọi là rượu lậu nhưng lại bán công khai. Cả làng cả xã uống rượu thì chả công khai là gì. Tôi vẫn gặp thằng cu con lão chủ tịch đến lấy rượu đấy thôi. Tôi hỏi nó, lấy làm gì nhiều thế. Nó bảo, có các bác ở huyện về. Sự thể là thế đấy cậu ạ. Nhưng tôi chỉ lấy rượu của lão Khả, người xóm dưới. Rượu của lão lạ lắm, uống xong, người nhẹ nhàng lâng lâng như ở cõi khác vậy, quên hết ưu phiền, mệt mỏi. Đã đành, cũng chỉ là một cách lừa mình thôi nhưng ai mà chẳng có lúc cần như vậy. Mãi rồi đâm thành tật, không uống không chịu nổi. Mà cậu uống đi chứ. Đàn ông dứt khoát là phải biết uống rượu. Để làm gì hả, thì tôi nói rồi, để tự lừa mình ấy mà. Đàn bà không uống rượu vì họ không cần điều đó. Anh lại nhấp môi vào chén rượu. Ông cụ hất cằm, khoe mấy sợi râu phơ phất, mà sao cậu lại lưu lạc đến xứ này. Nhìn cách cậu cầm chén rượu, tôi biết ngay cậu là dân thành phố. Dân quê không điệu đà được vậy. Anh mỉm cười, cúi nhìn ly rượu được kẹp hờ hững giữa ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa, ngón đeo nhẫn và ngón út hơi cong lên, cháu về quê dạy học cụ ạ. Ông cụ đập tay vào trán, ấy đấy, dân quê thì lại ào ào kéo ra thành phố. Con trai, con rể, cháu nội, cháu ngoại tôi bỏ làng đi hết ráo. Làng tôi bây giờ chỉ còn rặt người già và trẻ nhỏ. Nháo nhào hết cả. Sao đời khổ thế nhỉ. Mấy chữ cuối cùng nghe đã nhừa nhựa, mắt đã hơi díu lại nhưng ông cụ vẫn thoăn thoắt thu dọn mấy hạt lạc, chút muối ớt cho vào túi ni-lon, buộc lại cẩn thận. Ông còn vặn đi vặn lại cái nút chai lá chuối xem đã kín chưa rồi cho tất cả vào chiếc túi vải bạt. Chai rượu đã vơi khoảng một phần tư. Anh đồ chừng, ông cụ đã mời rượu nhiều người, đã nói đi nói lại câu chuyện với nhiều người ở nhà ga này. Ông cần nói hơn là cần người nghe. Lúc không có ai để trò chuyện, ông sẽ nói một mình, vừa uống rượu vừa nói, vừa đặt ra câu hỏi vừa tự trả lời, rồi cười, rồikhóc. Anh đứng dậy, nói như dỗ dành, bác ngả lưng một chút cho đỡ mỏi, cũng quá trưa rồi. Ông cụ lấy khăn phẩy bụi trên chiếc ghế rồi quay lại, nghe như cũng sắp có tàu. Mà cậu đợi tàu xuôi hay tàu ngược. 

      Anh đợi tàu ngược, ga cuối cùng. Đó là nơi Tứ, em cùng cha khác mẹ của anh đang sống. Hồi anh lên bốn, đang ngồi chơi với chị Vân và anh Hải ở trước nhà thì bố anh đưa Tứ về. Ông bảo, em của các con đấy, cho em chơi cùng nhé. Tứ là một đứa trẻ mảnh khảnh, có đôi mắt to hơi buồn. Tứ ngồi xuống bên mọi người, im lặng cho đến khi mẹ gọi cả bọn vào ăn cơm. Mãi sau này, khi đã lớn, anh mới biết Tứ là con riêng của bố và một phụ nữ khác. Nghe nói mẹ Tứ rất đẹp. Bố say mê bà nên đã giấu việc mình có vợ con ở quê. Khi biết chuyện, mẹ anh dứt khoát đòi đưa Tứ về để bà nuôi dưỡng, dạy dỗ. Không hiểu bà khuyên giải thế nào mà mẹ Tứ bằng lòng giao con và xa hẳn bố anh. Mẹ anh chăm nom, thương yêu Tứ chẳng khác gì các con ruột của mình. Dù vậy, Tứ rất ít lời và luôn giữ khoảng cách với mọi người trong gia đình, nhất là với mẹ anh. Tứ vâng lời, lễ phép nhưng không bao giờ vòi vĩnh, nũng nịu với bà. Anh Hải, người sau này trở thành một nhà vật lý, cho rằng, trong con người Tứ có một lực đẩy nào đó mà có thể chính nó cũng không tự biết. Chị Vân, vốn là người yêu văn chương, thì lại bảo, nó không muốn người khác nhìn thấy vết đau của mình. Tứ thân với anh vì hai anh em chỉ cách nhau vài tháng tuổi và cũng vì anh rất thương yêu, chiều chuộng Tứ. Nhiều lần anh thấy Tứ đứng một mình trước cửa hoặc tha thẩn ngoài vườn sau, vẻ mặt buồn bã, trống vắng. Thế nhưng nếu anh hỏi tới, thế nào Tứ cũng lảng chuyện rồi bá lấy vai anh, cười gượng gạo hoặc rủ anh đi câu.Tứ có thể ngồi vài tiếng đồng hồ bên đầm, mắt nhìn đăm đăm xuống mặt nước, không nói một lời. Có lần Tứ câu được con trắm to, đem về cho mẹ anh. Bà  mừng lắm, rối rít hỏi Tứ muốn ăn món gì để bà nấu nhưng Tứ chỉ nói, tùy mẹ ạ. Tùy, sao cũng được là lời đáp thường xuyên của Tứ. Hồi tốt nghiệp phổ thông, bố tặng Tứ một bộ đồ đi câu và tặng anh một chiếc máy ảnh. Tốt nghiệp đại học, Tứ xin đến X. Trong bữa cơm chia tay, Tứ cám ơn mọi người và hứa sẽ giữ liên lạc. Thế nhưng, từ ngày bố mẹ qua đời, Tứ chỉ còn giữ liên hệ với anh. Cách đây vài ngày, vợ Tứ  ra trạm kiểm lâm, gọi nhờ điện thoại báo tin chồng ốm nặng. Với vốn tiếng phổ thông ít ỏi, cô không sao có thể diễn đạt rõ ràng bệnh trạng của chồng, ngoài việc lặp đi lặp lại mấy chữ nặng lắm, lo lắm sau những tiếng thút thít, những tiếng nấc khe khẽ. Vợ Tứ là một cô gái mồ côi, không biết từ đâu lưu lạc tới X rồi được vợ chồng một người Mông nuôi dạy. Cô xinh xắn, hiền hậu và cũng rất ít lời, gần như cả ngày chỉ nói vài câu khi thật cần thiết như mời mọi người ăn cơm, uống nước hoặc chào hỏi khách khứa. Phần lớn thời gian, cô ngồi bên đống lửa, nhìn chăm chăm vào mấy thanh củi cháy dở như đang niệm chú hoặc đang nhìn ngắm một thế giới khác, của riêng cô. Hồi họ đám cưới, anh có lên dự. Anh nhìn Tứ, cố tìm một nét hân hoan, bối rối của chú rể nhưng chỉ nhận thấy vẻ bình thản đến lạnh lẽo trên khuôn mặt thanh tú. Tứ tiễn anh ra ga. Trong lúc đợi tàu, hai anh em đứng tựa vào hàng rào gỗ của nhà ga trò chuyện. Anh hỏi Tứ, sao em chọn nơi này. Tứ đáp, em cần sự yên tĩnh. Con người chất phác, cảnh trí thâm u, vắng lặng, đó là tất cả những gì em cần. Anh nghĩ, vợ Tứ cũng được lựa chọn theo cái chuẩn ấy. Khi anh sắp lên tàu, Tứ bỗng nói, mẹ em cũng mất rồi, sau mẹ cả ít lâu. Em kịp về thăm mẹ mấy ngày. Em có 2 người em nữa nhưng em không thích bố dượng nên cũng ít liên hệ. Anh giật mình, Tứ biết tất cả mọi chuyện sao. Tứ đáp, vâng, rồi im lặng cho đến khi bắt tay từ biệt mới nói thêm, tội nghiệp mẹ, cả đời chẳng được mấy ngày vui. Khi tàu chạy, anh nhoài người ra ngoài khung cửa  tìmTứ. Nhiều năm sau trong tâm trí anh vẫn lưu giữ hình ảnh nhỏ bé, đơn chiếc của Tứ trên sân ga. Chưa khi nào anh thấy Tứ thân thiết với mình như buổi sáng ấy ở ga X, một nhà ga làm bằng những thân gỗ lớn, không sơn phết, đẽo gọt. Giờ đây, khi ngồi thu mình trong góc phòng để đợi tàu, vừa nhắm mắt anh đã lại  nhìn thấy Tứ của buổi sớm mùa đông ấy. Anh choàng dậy, lục tìm gói thuốc mua cho Tứ. Chỉ là những viên thuốc bổ xoàng xĩnh có được ở phố huyện. Anh thở dài, cảm thấy rã rời vì chờ đợi. 

      Trời đột nhiên tối sầm lại rồi một tiếng sét dữ dội xé tan không khí tù đọng của nhà ga. Ông cụ choàng dậy, mưa à. Sao lại mưa vào mùa này. Đôi nam nữ lúc này đã dồn vào một ghế đang rủ rỉ chuyện trò cũng rời nhau ra, ngơ ngác nhìn quanh. Người ngủ  bật ngồi dậy như người máy, đội mũ lên đầu, khoác túi lên vai. Ông cụ khoát tay, chưa, chưa có tàu đâu. Tàu đến thì cách cả cây số lão cũng nghe thấy. Ông chỉ tay về phía tấm bảng, thông báo rành rành kia kìa: vì lý do đặc biệt:1.Không biết tàu đến vào lúc nào. 2.Không biết sẽ chạy được đến đâu. Anh quay lại, không hiểu sao dòng chữ rõ ràng từng nét thế kia mà sáng nay anh không thể nào đọc được. Anh hỏi, thế nhân viên nhà ga đâu ạ. May ra họ có thể giải thích rõ hơn cái thông báo kia. Ông cụ chỉ tay sang phía bên phải, ở kia, ở cái chái nhà ghép thêm kia. Rồi ông thủng thẳng, gọi là nhân viên nhà ga cho oai vậy chứ thực ra chỉ có 3 mống, một trưởng ga, một bán vé kiêm soát vé, một bẻ ghi, phất cờ. Đang túm tụm đánh chẵn lẻ bên ấy. Rồi ông thở dài, chứ còn biết làm gì nữa. Nắm hai bàn tay lại, đưa ra trước mặt người đối diện, chẵn hay lẻ. Một trò ít tốn kém, đơn giản, buồn tẻ nhưng cũng không dễ ăn đâu cậu. Làm sao biết có những gì trong tay người khác. Nó là may rủi thôi, như mọi thứ ở cái đời này. Ông quay sang anh, cậu đã chơi trò này chưa. Tôi có đồ nghề đây. Đôi lúc buồn quá, cũng qua đó chơi vài ván. Ông cụ lôi từ túi quần ra 5 viên bi, tráo qua tráo lại rồi hỏi anh, bên nào chẵn, bên nào lẻ. Nhận thấy mắt ông cụ đã lại hoe hoe đỏ, anh không dám tiếp tục câu chuyện, xin lỗi bác, cháu phải chạy đi tìm trưởng ga. Ông cụ ngẩng lên, chỉ tay ra ngoài trời mưa, ông ấy kia, sắp có tàu đấy. Theo hướng tay ông, anh nhìn thấy một người mặc áo mưa kín mít đang co một chân lên, nhảy qua các thanh tà-vẹt, kiểu như trẻ con nhảy lò cò qua những ô vuông kẻ trên mặt đất trong trò chơi  nhặt chì trước sân đình. Trong màn mưa dày đặc, hình ảnh đó có cái gì kỳ quặc, hư ảo khiến người ta cảm thấy hoang mang, lo ngại. Nhưng quả là có tiếng còi tàu rít lên đâu đó rất gần. Cả 5 người ào ra, chen nhau chỗ khung cửa hẹp. Một cái đầu tàu to lù lù chạy vụt qua, chỉ để lại tiếng bánh sắt nghiến sát sao trên đường ray. Tất cả cùng à lên thất vọng. 

      Anh hỏi Người ngủ, anh ngược hay xuôi. Hắn vừa ngáp vừa trả lời cụt lủn, xuôi, rồi quày quả đi về chiếc ghế của mình. Thấy hắn đặt túi, bỏ mũ xuống, anh chạy vội tới, ở đây có cách nào khác để đi ngược lên X không. Hắn nhìn anh, đáp gọn lỏn, xe trâu. Tưởng hắn đùa nhưng hắn không cười, ánh nhìn nghiêm nghị, chỉ có xe trâu thôi, đi từng đoạn một, tới đâu hay tới đó. Mà cậu lên X làm gì, cái xứ rừng thiêng nước độc. Thấy hắn có vẻ khó chịu, anh đã định bỏ đi nhưng rồi lại quay lại, cố bám lấy cuộc trò chuyện. Cảm giác cô độc, bất lực khiến anh thấy băn khoăn, lo sợ, muốn nói, muốn nghe một ai đó, muốn tìm một hy vọng hay ít ra, một chia xẻ. Anh hỏi, anh biết X ư. Người kia ngồi, ôm chiếc mũ trước bụng, biết đến phát sốt phát rét khi nhớ đến nó. Tôi ở đó 3 năm 3 tháng 11 ngày, làm thợ xẻ gỗ. Cậu có hiểu như thế là thế nào không. Là một mình với cái cưa, một mình vật lộn với cây cỏ, rừng rú, đất dưới chân thì ẩm mục, trời trên đầu thì u ám, người như rã ra từng tí một. Tuy vậy, ba năm đầu cũng tạm ổn, mình là dân quê, sức lực cũng khá, mãi đến 3 tháng 11 ngày sau mới quỵ hẳn. Suốt ngày nhìn chăm chắm cái lưỡi cưa sáng loáng ăn vào thớ gỗ. Đêm nằm, nhắm mắt lại là nghe tiếng rít của lưỡi cưa, là nhìn thấy những thân cây gãy đổ lao ầm ầm vào mình, làm sao mà ngủ. Cuối cùng, tôi ngã vật ra bên một gốc cây đang cưa dở. Người ta cho tôi uống thuốc ngủ, người ta bày tôi uống các loại lá, các loại rễ cây. Ai cũng bảo uống xong sẽ ngủ như chết nhưng tôi vẫn không sao ngủ được. Có người nghi tôi vô tình phạm phải chốn cấm kỵ nên bị phạt. Người khác thì lại bảo rằng tôi đã cưa phải loại linh mộc nào đó. Họ mời thầy về làm lễ, cúng kiếng suốt mấy ngày đêm. Nhưng sau tất cả mọi việc, tôi vẫn trơ ra. Người ta đành đưa tôi về nhà với một khoản tiền công tàm tạm. Cha mẹ, anh em, làng xóm đều thất kinh khi nhìn thấy tôi. Tôi gầy như một que củi, mắt lại mở thao láo như thằng dở. Anh gợi chuyện, từ lúc đến đây tôi thấy anh ngủ say lắm mà. Hắn cười lớn, ấy đấy, cái gì cũng có giới hạn của nó. Sau 3 tháng không ngủ, vào một đêm mùa hạ, tôi lăn ra ngủ ngoài hiên nhà, không trở dậy nữa. Ông bà, cô bác, anh em, làng xóm kéo đến xem như xem một đám bán thuốc dạo vậy. Hắn cười khục một tiếng, đời tôi cũng vài lần được thiên hạ chiêm ngưỡng đấy chứ, cũng có fan hâm mộ đấy chứ. Anh tò mò hỏi, thế bây giờ anh đi đâu. Hắn ngáp, về xuôi. Nghe nói ở N có thầy giỏi lắm, cái gì liên quan đến chuyện ngủ nghê là ông ấy chữa khỏi tất. Ấy là nghe thiên hạ đồn đoán vậy, ai biết được thực hư thế nào. Kỳ thực thì bị bố mẹ bắt ép chứ tôi thấy chả cần thầy cần thuốc. Cùng tắc biến, nắng chán rồi mưa, hạn chán rồi lũ, ngủ chán sẽ dậy thôi. Anh dè dặt đưa đẩy, ấy đấy, vấn đề là ở chỗ mọi thứ không chịu ở trạng thái bình thường, chắc các cụ sợ anh dậy rồi lại không chịu ngủ nữa. Hắn đưa tay nắn nắn chiếc túi gối đầu, ngáp rõ to, đáp dấm dẳng, ờ, đời mà, biết thế quái nào, rồi cúi xuống cởi đôi dép nhựa màu nâu còn mới, co chân lên ghế. Anh hỏi, cố kéo dài câu chuyện, thế lúc ngủ anh có nằm mơ không. Hắn nhướn cặp mắt sưng húp lên nhìn anh, cậu có làm sao không đấy, không mơ thì ngủm củ tỏi rồi, không mơ thì làm sao còn ngồi đây trò chuyện nhăng nhít với cậu. Anh không dám ừ hử gì, sợ hắn phật ý nhưng hắn bỗng cười lớn, mơ đủ thứ, mơ uống rượu với cha, mơ ăn cơm với mẹ, thấy cả món canh riêu nòng hổi, mơ thấy nhà thấy cửa, mơ tắm sông, mơ thả diều, mơ đá bóng, mơ hàn huyên với bạn hữu, mơ cãi nhau với thằng nhỏ phụ việc, mơ nhà cháy, mơ lũ cuốn cả cánh rừng, mơ thấy bạn gái cũ, dù đã bỏ mình đi lấy chồng vẫn đến thăm nom, chung chạ, mơ đánh thằng cai một trận thừa sống thiếu chết… cái thằng cai này chuyên ăn chặn của cánh thợ rừng, uất lắm mà lúc thức đâu có dám ho he gì, mơ thì đánh nó đã đời, võ tàu, võ tây đủ cả …Hắn im lặng, đưa mu bàn tay xoa xoa lên trán như cố nhớ lại những giấc mơ của mình, rồi đột ngột nhìn thẳng vào anh, ấy đấy, cậu đã thủng chưa, rốt cục thì ngủ cũng là một cách thức, thức cũng là một cách ngủ, ngủ cũng là…mấy tiếng cuối cứ lả dần đi rồi cả người hắn bất thần đổ dúi dụi xuống ghế như một cái cây vừa bị đốn, tay vẫn ôm khư khư chiếc mũ trước bụng. Nhìn kỹ thì đó là loại mũ bảo hộ của cánh thợ rừng. 

      Trời nhá nhem tối. Ông cụ tay cầm ly rượu, mắt chăm chú nhìn ra vạt cỏ bên sân ga, nơi cụ bà đang lúi húi hái cỏ mực. Sợ phiền ông, anh đi thẳng ra hiên, ngồi nhìn khoảnh sân nhỏ sau cơn mưa. Trên nền xi măng cũ kỹ, nửa xám nửa đen, cỏ dại mọc lôm nhôm ở những chỗ bị tróc lở, nứt nẻ. Nơi góc sân xa nhất, hai chậu vạn thọ đang gắng gỏi nở những bông vàng còi cọc cho buổi chiều, trông thật tội nghiệp. Đôi thanh niên nam nữ cũng dắt díu nhau theo ra. Cô gái rụt rè hỏi, anh có biết xem tướng không ạ. Anh ngạc nhiên nhìn cô, định từ chối rồi không hiểu sao lại nói, vâng, nhưng chỉ xem chuyện tình duyên thôi, còn công danh sự nghiệp thì không tường. Cô gái reo khẽ, hay quá, anh xem giúp em với. Cô chìa bàn tay ra trước anh. Một bàn tay khỏe mạnh, các ngón tay tròn trịa, nằm khít bên nhau. Anh nhìn hồi lâu, ra chiều suy nghĩ, rồi phán, đường tâm đạo của cô có phần không được suôn sẻ. Cô có 2 hố nước mắt đây này, một lần vào khoảng năm 18 tuổi, một lần mới gần đây, có lẽ vào cuối năm vừa rồi. Việc không thành không do lỗi ở nơi cô mà cũng chẳng phải ở người ta, chỉ là chưa đến duyên đến số mà thôi. Hai má cô gái ửng hồng, đôi môi hơi mím lại, khoe một lúm đồng tiền nơi khóe miệng. Có vẻ như cô đang muốn phân trần, giải thích điều gì đó nhưng rồi chỉ lí nhí cám ơn. Chàng trai ngồi bên cạnh, chăm chú lắng nghe lời thầy nhưng hoàn toàn không có phản ứng nào. Cô gái cầm lấy tay anh ta, anh ơi, anh xem luôn cho anh ấy nhé. Anh cười, cậu này tôi nhìn tướng là được rồi. Cậu là người có chí hướng, có trách nhiệm, giàu tình cảm nhưng hình như cũng lại không thật may mắn trong chuyện tình duyên. Nếu tôi không lầm thì cậu vừa trải qua một cú sốc tương đối nặng, cậu đang rất buồn. Nhưng cậu chớ lo lắng, nhìn thần thái của cậu thì chỉ ít lâu nữa nhất định cậu sẽ tìm ra người cậu muốn tìm, có khi người đó đang ở rất gần cậu cũng không chừng. Chàng trai lắc lắc đầu, xòe năm ngón tay lùa vào mái tóc dày như phản đối lời phán nhưng lại nói, giọng khàn xuống, cám ơn anh. Họ không hề ngờ rằng những gì anh nói chỉ là những điều chính anh đã trải qua, đang trải qua mà thôi. Nhìn vẻ bối rối, cảm động của hai người trẻ, anh có cảm giác mình đã làm điều chi không phải. Anh ân cần hỏi họ, cô cậu xuôi hay ngược. Cả 2 cùng đáp, ngược, đến Y anh ạ. Chàng trai nói thêm, em đi chơi thôi. Cô gái chen vào, còn em thì đi nhận việc ạ. Lòng nhẹ nhõm đôi phần, anh vỗ vai chàng trai, vậy là ta đồng hành một đoạn cũng khá dài.

      Ông cụ khoác túi, ra đứng sau lưng họ, tôi về làng đây. Chúc mọi người xuôi ngược bình yên. Tàu sắp tới đấy. Anh quay lại, định chào ông một câu nhưng ông đã đột ngột tan vào ánh sáng mờ ảo của buổi chạng vạng. Trên chiếc ghế ông đã ngồi không còn một hạt muối, một chiếc vỏ lạc để lưu dấu sự có mặt của ông. Có phần hoang mang, anh quay tìm Người ngủ. Hắn vẫn ngủ. Trong lúc anh ngắm nhìn những ngón tay vuông vức của hắn đan vào nhau để giữ chiếc mũ trước bụng thì hắn bật dậy, kêu toáng lên, tàu đến, tàu đến. Cùng lúc, đèn trong nhà bật sáng, không khí bỗng nhốn nháo, sinh động hẳn. Trước sân, người trưởng ga gọn gàng trong bộ đồng phục, đang bước xuống những bậc cấp phủ đầy hoa xấu hổ màu tím. Ngay sau ông ta là một người nhỏ bé, chạy lon ton, tay không ngừng vung vẩy lá cờ nhỏ xíu vào khoảng không.

      Anh ngoảnh nhìn căn phòng, ngạc nhiên khi trông thấy một cây đèn chùm màu hồng được treo hững hờ ngay trên đầu người bán vé. Anh không thể biết nó vốn có từ trước đó hay chỉ vừa xuất hiện khi anh cùng hai người trẻ ra ngoài.Vật trang trí kỳ lạ này dù không được dẫn điện vẫn lộng lẫy với vô số những chiếc bóng nho nhỏ, những cái chao đèn uốn lượn điệu đà, phản chiếu ánh sáng của 2 ngọn đèn vàng treo chỗ cửa ra vào. Có một chút gì như sự thách đố hợm hĩnh của nó với khung cảnh điêu tàn của nhà ga, với khuôn mặt buồn bã của cô nhân viên bán vé còn trẻ đang hướng ánh nhìn tới các hành khách hiếm hoi của mình. Có lẽ chiều nay cô thua đậm trong cuộc chơi chẵn lẻ, anh nghĩ.
SG 2/2012
Ý Nhi.


                                                                                            

Friday, August 24, 2012


thơ trần văn sơn

DƯƠNG  CẦM  XANH




                                                 Flowers. Natasha weblog

Sương mang hương dìu dịu
Mùa trăng thanh nữ hoa
Thảm bạc lung linh suối
Mướt chồi non ngây thơ

Lá gió mơn man tóc
Réo rắt dương cầm xanh
Mười ngón thiên thần ngọc
Lả lướt phím ngà thanh

Dập dìu ong bướm lượn
Vườn xuân lan huệ tươi
Tường vi -ngư ông tượng
Non bộ cá giỡn người

Em nồng nàn hương đất
E ấp cánh sen  hồng
Thả tình muôn phương đợi
Mai trúc đủ ấm lòng

Sông lang thang nhớ núi
Chim mỏi cánh về rừng
Phím đàn em đốt tuổi
Cội nguồn nốt nhạc chung

Nắng tung tăng cỏ mượt
Hoạ mi hót trên cành
Hòa âm đời sóng vượt
Bồng bềnh dương cầm xanh

TVS

Thursday, August 23, 2012


MÊ TRUYỆN CHƯỞNG 

Lưu Na



Phải nói ngay rằng mê truyện chưởng không có gì đáng khen.  Và tôi cũng không mê một thứ.  Tôi còn mê hát nhạc sến, mê nghe sáu câu vọng cổ, mê truyện trinh thám, mê chụp hình, mê hát ca đoàn…  Nghĩa là “bậy vô số.” 

Bây giờ, sau những lúc vất vả tìm miếng sống thì lúc được chút thong thả tôi lại cắm đầu vào đọc internet, thú vui thời đại, rất updated !!!!  Nhưng old habits die hard.  Tôi vẫn để dành những bộ truyện chưởng favorite và vẫn không quên những điều đã tìm thấy nơi những chuyện bá láp đó. 

Như bộ Anh Hùng Xạ Điêu đọc thuở 10 tuổi, tôi thấy hồi hộp ghê rợn khi đọc chỗ tả Mai Siêu Phong luyện võ, say mê cái kỳ bí khi anh Quách Tĩnh cõng Hoàng Dung vượt Mai Hoa trận.  Đoạn cô Hoàng Dung gọi các món ăn thiệt là đã, thiệt là thông thái cao kiến (!!!), và cái áo lông nhím cô mặc trên người không biết sao tôi cứ nhớ có màu tím lavender và cũng mơ có 1 cái.  Óc phiêu lưu tò mò của con nít ranh được khuếch đại, tránh được việc brain dead không đáng sao!!! 

Khi lớn khôn hơn một tí (hay vớ vẩn hơn không rõ), tôi đọc ra được những chuyện tình sau các thế võ.  Xin nói ngay tôi không thích chuyện chiến tranh, không thích phim võ thuật Lý tiểu Long dù tôi mê cảnh Thái sư phụ dạy Thái cực kiếm cho Vô Kỵ trong phim bộ Cô Gái Đồ Long.  Tình yêu trong truyện chưởng khi nhỏ tôi thấy vớ vẩn, nhưng khi đã lớn và đọc lại, có nhiều chỗ phải ngẫm nghĩ bồi hồi.  Như Mục niệm Từ biết Dương Khang tệ mà vẫn không quên được những lời âu yếm những phút tình tứ bên nhau.  Không phải cô ngu, nhưng vì không ngu nên thấy những phút chân thật của người ta để treasure over cái gian manh khi lòng người biến đổi.  Bây giờ tôi hiểu tại sao người ta ngu trong tình yêu (hay tôi cũng ngu?), và thực ra, sống trong đời sống cần có một tấm lòng thực khó mà thực hiện nếu người ta không mang theo mình một chút vị tha một chút nhẫn nại một chút hy sinh. 

Đặc biệt hơn là Tiếu Ngạo Giang Hồ.  Anh chàng lãng tử say sưa Lệnh Hồ Xung là người có cá tính.  Anh dám là mình, dám khóc khi khổ đau, dám giữ vững những giá trị đạo đức mình đặt ra dù mình bị thiệt thòi.  Anh dám vượt qua dư luận để sống thật.  Bài học cho lãng tử là chọn bạn mà chơi vì con người lãng mạn thường không biết tự giới hạn mình vào một môi trường lành mạnh hầu tránh bớt những việc thị phi.  Tình yêu trong TNGH thật nhiều màu sắc.  Tôi thấy cái yêu hết cả tâm hồn và trong sạch cao cả của Nghi Lâm, cái yêu ray rứt si mê cho tới phút sau cùng của Lệnh Hồ Xung.  Cái yêu khác cái thương biểu hiện rõ trong thái độ của Nhạc Linh San, cũng như cái yêu cuồng nhiệt dấu diếm của Nhậm Doanh Doanh thật là tiêu biểu của các tiểu thư 16.  Chữ tình không ở phút yêu đương đắm say mà ở nỗi tuyệt vọng: 

Nguồn tuyệt vọng nỗi thảm sầu
Mà người gieo thảm như hầu không hay
Hỡi ơi người đó ta đây
Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân
            (Khái Hưng dịch bài Tình Tuyệt Vọng) 

Nó hiện ra ở nét võ vàng say sưa (lại say) của Lý thám Hoa, nỗi thẫn thờ chết đứng khi lưỡi dao vung ra ngay trước khi tên thủ hạ chạy vào la toáng lên “Lý thám hoa hạ thủ lưu tình.”  (Long Hổ Phong Vân).  Nó ở nỗi buồn thân phận khi Lệnh Hồ Xung lê thân tới ngõ tìm Lục Trúc Ông để học đàn hầu quên nỗi bẽ bàng duyên phận.  Anh chàng lãng tử tự thương thân và thổ lộ nỗi niềm với một người không quen, gợi trong tôi một niềm thông cảm ngậm ngùi.  Chúng ta không từng có lúc trút nỗi lòng với một người xa lạ nhưng chia chút đồng cảm chân thành mà mình tình cờ gặp gỡ trên đường lưu lạc rồi quay mặt chia tay hay sao.  Người viết tỏ ra thấu đáo mọi ngõ ngách của lòng người, khi cho Lâm bình Chi chua chát vạch ra những cái thâm của Nhạc Bất Quần, khi tả Lệnh hồ Xung thấy Nhạc Linh San ngã xuống muốn khóc mà không khóc được,… thấy đất trời như ngừng lại, như chỉ một màu trắng…  Mấy mươi năm sau đọc lại, tôi vẫn thấy bồi hồi vì cái tả xác thực ấy.  Ai yêu mới hiểu tình yêu.  Tác giả có biết yêu? 

Bây giờ còn thấy thú vị hơn nữa khi đọc lại lời bàn về rượu của LHX khi bị Hướng Vấn Thiên xỏ mũi vào cá độ với bọn Mai Trang tứ hữu.  Rượu với Mai Trang tứ hữu là một khoái cảm tinh hoa mang tính văn hóa.  Rượu với Lệnh Hồ Xung là bạn đường, không có rượu thì không thể hiện hết cái tinh hoa năng lực của mình (oh là la !!!).  Không những tôi thích đoạn tán dóc ấy vì nó vui mà còn bởi vì ở đây bây giờ tôi cũng có vài đại ca của Tụ Hiền trang T-Vấn & Bạn Hữu rất là sành rượu.  Ông vào hội ABC (Anything But Cognac), ông tích trữ Napoleon (vua đó nha).   

Mê truyện chưởng như vậy là hết nhẽ, tôi không dám cãi cọ gì nếu bị gọi là hâm, là gàn, là vớ vẩn.  Nhưng đã trót, xin thưa thêm nữa cho hết lòng.  Cái làm tôi thấy mê thấy phục, chính là thái độ của Kiều Phong ở Tàng kinh các chùa Thiếu Lâm, trong Lục mạch thần kiếm.  Đại khái, đại ca râu xồm ấy đã dõng dạc nói mối thù giết mẹ (thù riêng) không trả được thì thôi, không lấy ra làm chuyện buôn bán; rằng gọi là anh hùng cũng được coi là phàm phu cũng chả sao, nhưng quyết không để người khác lợi dụng, không làm việc tham lam hèn hạ.  Còn việc kiến công lập nghiệp gầy dựng sơn hà phải chú trọng giữ đất yêu dân chứ không phải gây binh đao để tạo núi xương sông máu.  Trời đất, nghe quen.  Tưởng người ta nói chuyện 20 năm chinh chiến của nước mình !!!  Tự dưng nghĩ vẩn vơ, nếu có thêm nhiều người mê truyện chưởng như mình biết đâu cuộc đời đã khác?  
Rõ hâm. 

Lưu Na
08/19/2012

Wednesday, August 22, 2012


thơ nguyễn xuân thiệp 

Crows over the wheatfield 




                                                               Tranh Van Gogh
Đêm
chớp rực
những bông hải đào màu đỏ. bay
cơn giông
những cánh bướm. khô. trên đồng cỏ
em
có thức cùng tôi
tìm lại thời gian. trong cơn bão

đêm tháng bảy. chờ cơn thunderstorm
vào website da màu
bỗng gặp. bức tranh. van gogh
crows over the wheatfield
những cánh quạ trên đồng lúa
vàng dã quỳ
màu nắng. điên
em. làm sao tìm lại được giấc mơ. trong mắt loài chim dữ

van gogh
người họa sĩ ấy
đã chết
trên đồng lúa. và quạ
lê uyên phương
chết
trong màu hải đào đỏ
của mùa hè xưa

và anh
đêm nay. anh sẽ trở về
với thơ e.e. cummings
những mái phố. bay. như chim
những chiếc lá
cũng bay đi
chỉ còn
hàng cây
mặt trăng
và anh
mang trái tim em
trong trái tim đau. trên cành. gió

NXT


HỒ XUÂN HƯƠNG: THAY ĐỔI MỘT QUỐC GIA BẰNG THƠ  

Nguyên tác: Elena (Yến Vi) Nguyễn
Người dịch: Nguyễn thị Hải Hà 




      
      Nhà thơ Việt Nam Hồ Xuân Hương từ xưa đến nay vẫn được xem là một trong những nhà thơ lớn nhất và gây nhiều tranh luận nhất.  Vào thời kỳ vị trí của người phụ nữ trong xã hội càng lúc càng trở nên khiêm nhường vì bị ảnh hưởng bởi học thuyết Khổng Tử, chỉ riêng cái ý muốn làm thơ của bà cũng đủ làm dư luận bất bình. Thơ của bà càng đáng sợ hơn vì ý tứ chua cay, phê phán xã hội đương thời, ẩn chứa nhục cảm, và sự khôi hài dí dỏm ngụ ý tình dục đã, một cách đầy phản kháng, phá vỡ những quy luật xã hội, mang giọng nói cho phụ nữ Việt và gây tiếng vang cho ngôn ngữ Việt.
      Cơ cấu  và kỹ thuật làm thơ của Hồ Xuân Hương đã hữu hiệu đưa những bài thơ của Bà vượt qua mức đơn giản của ẩn dụ và so sánh. Thơ Hồ Xuân Hương giống như những mảnh rời nối kết với nhau một cách rất phức tạp không chỉ mang một nghĩa (đen), mà mang những hai nghĩa bóng – nghĩa thứ nhất có tính cách trêu cợt gợi cảm và nghĩa thứ hai nghiêm túc hơn kêu gọi cải cách xã hội. Thường khi, cái có vẻ như miêu tả phong cảnh Việt Nam thật ra tràn đầy những ẩn dụ tình dục. “Đèo Ba Dội” là thí dụ điển hình của loại thơ này được John Balaban dịch ra như sau:[1] 

A cliff face. Another. And still a third.
Who was so skilled to carve this craggy scene
The cavern's red door, the ridge's narrow cleft,
The black knoll bearded with little mosses?
A twisting pine bough plunges in the wind,
Showering a willow's leaves with glistening drops.
Gentlemen, lords, who could refuse, though weary
And shaky in his knees, to mount once more?

Nguyên tác:
Một đèo, một đèo, lại một đèo
 Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
 Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
 Hòn đá xanh rì lún phún rêu
 Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
 Đầm đìa lá liễu giọt suơng gieo
 Hiền nhân quan tử ai mà chẳng
 Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo[2]

        Đối với tư tưởng người trinh bạch, bài thơ này có vẻ như lời kể vô tư về chuyến leo núi của một nhóm quan chức. Mặt khác, những người ít “trong sạch” ngay tức khắc sẽ nhìn thấy sự ví von về âm hộ cũng như giao hợp (ở Việt Nam , cây thông là hình ảnh tượng trưng cho đàn ông và cây liễu tượng trưng cho đàn bà).
       Điều thất thoát trong bản dịch bài thơ “Đèo Ba Dội,” là cách chơi chữ ranh mãnh độc đáo của bà, đổi vị trí của chữ - cách chơi chữ phổ thông của người Việt gọi là nói lái – và “âm vang của chữ” (cùng vần nhưng khác dấu) làm cho bài thơ mang nhiều ngụ ý rất thú vị. Thí dụ, câu đầu tiên của bài thơ trong nguyên tác là “Một đèo, một đèo, lại một đèo” (Dinh, para. 7).  Bởi vì tiếng Việt dựa vào sự lên xuống giọng của chữ, “đeo” có thể biến thành nghĩa khác tùy theo dấu của chữ và nội dung của bài (văn cảnh). Trong bài thơ, chữ “đèo,” trích từ câu “một đèo, một đèo, lại một đèo.” Tuy nhiên, nếu dấu trên chữ nghiêng về phía ngược lại (ý nói là dấu sắc), như trong chữ “đéo,” câu thơ dịch thành “Một đéo, một đéo, lại một đéo” (B&N.com) – điều này đa số người Việt nhận ra ngay lập tức.
        Trên bề mặt, những bài thơ tương tự “Đèo Ba Dội” dường như là những bài thơ hoàn toàn đúng niêm luật và đứng đắn dùng hình ảnh cổ truyền của Khổng giáo liên quan đến thiên nhiên. Tuy nhiên, cái tư tưởng dục vọng trác táng gói ghém trong việc miêu tả cảnh thiên nhiên đã thêm chiều hướng phản kháng vào trong nền thi ca tượng trưng cho sự cao quí của một xã hội bị ảnh hưởng bởi Trung quốc. Trong khi chính quyền có vẻ như liêm chính và đức hạnh trong việc áp dụng quan niệm Khổng tử để ngăn cấm sự lõa thể và tình dục trong nghệ thuật, nhà thơ Hồ Xuân Hương đã vạch ra rằng đám quan lại nam giới này gian dối và đạo đức giả trong cách cai trị, hầu hết bọn họ có nhiều vợ và thường ngoại tình – một sự thật mà bà Hồ Xuân Hương có thể làm nhân chứng, vì chính bà cũng là vợ lẽ.
            Bên cạnh những câu thơ khéo léo ngầm chứa những lời phê phán xã hội và chính trị thấy trong thơ của bà, trong nhiều bài thơ khác bà cũng bảy tỏ cảm tưởng về các nhà lãnh đạo tôn giáo. Một lần nữa, trong khi chủ đề tôn giáo trong những bài thơ biểu hiện lòng tôn kính và mộ đạo của bà, đọc kỹ sẽ nhìn thấy sự phê phán chua cay về giới chức tôn giáo đã bị băng hoại. Thí dụ, “Vịnh Sư Hoành Dâm”[3] diễn tả sự cố gắng của ông nhà sư đương đầu với cuộc hành trình để đến “Tây Trúc” tìm Phật (dịch bởi John Balaban):

Bản dịch:
A life in religion weighs heavier than stone.
Everything can rest on just one little thing.
My boat of compassion would have sailed to Paradise
If only bad winds hadn't turned me around

Nguyên tác:
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo teo
Buồm từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo

      Trong nguyên tác tiếng Việt, câu đầu tiên “Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,”(Dinh, para. 12) với chữ “đeo” có nghĩa là “mang hay khiêng.” Đọc trại giọng một chút, “đeo” có thể biến thành “đéo,” có nghĩa là “giao hợp,” như đã nói trong bài thơ “Đèo Ba Dội.” Bài thơ còn mang ý nghĩa ngầm rất tục tằn biểu lộ trong câu cuối “Trái gió cho nên phải lộn lèo.”  Ở đây nhà thơ đã nhẹ nhàng ám chỉ dụng ý của bà qua hai chữ “lộn lèo,” có nghĩa là “quay trở lại hay quay hướng khác” (para. 13).  Khi nói lái, nó biến thành “lẹo l…” là một cách diễn tả chuyện giao hợp và âm hộ một cách rất tục tằn.[4]
       Mặc dù điều này có lẽ đã được ám chỉ ở tựa đề của bài thơ, giọng điệu ẩn chứa trong bài thơ “Vịnh Sư Hoành Dâm” đã thay đổi hoàn toàn nghĩa của bài thơ. Cái dường như là cuộc hành trình đi tìm Phật thật ra đầy dẫy gian dối dâm dật. Cái “tẻo tèo teo” đã hành hạ nhà sư và “trái gió” đã ngăn cản nhà sư tìm về Tây Trúc được dùng để ám chỉ cùng một thứ - tình dục. Trong khi bài thơ không có ý nói rằng các nhà sư lúc nào cũng lén lút ân ái với phụ nữ, chắc chắn nó biểu lộ tình trạng đạo đức của các giới chức tôn giáo lúc bấy giờ.
       Thêm vào những thông điệp hấp dẫn được giấu diếm tài tình trong vẻ lấp lánh của cái tục, tính chất độc nhất vô nhị về thơ của bà Hồ Xuân Hương nằm ở trong chính cái ngôn ngữ bà dùng. Trong khi hầu hết mọi nhà thơ Việt thời bấy giờ dùng chữ Hán, bà Hồ Xuân Hương chọn cách viết bằng tiếng Việt – hay nói đúng hơn là dùng chữ Nôm cổ, cách viết tiếng Việt trước khi dùng mẫu tự La Mã như cách viết bây giờ. Dùng chữ Nôm, bà Hồ Xuân Hương đã chế nhạo văn thi sĩ thời bấy giờ; họ những kẻ một cách tự phụ tuân theo cái được xem là ảnh hưởng cao quý của Trung quốc – chọn những chủ đề tầm thường vô vị của Khổng giáo mà, thật tất yếu, đã ruồng bỏ dân tộc của mình. Bằng cách dùng chữ Nôm, bà Hồ Xuân Hương đã đi ngược lại thói thường và làm vang vọng tiếng nói của người dân bình thường – trái tim của Việt Nam – cũng như đã trình bày cái thẩm mỹ và khả năng văn chương phi thường của ngôn ngữ Việt.
      Trong khi thực hiện kỳ công sáng tác ba bài thơ gồm trong một, Hồ Xuân Hương không những làm độc giả thú vị với sự tinh quái tục ngầm mà còn trưng ra lời phê bình về xã hội phụ hệ đặt nền tảng trên ảnh hưởng của Trung quốc – một “toan tính” khá nguy hiểm đã thành công trong việc lẩn tránh và tự giải thoát khỏi vòng kiểm duyệt nhờ sự giả trang khôn khéo này. Nếu như tài làm thơ của bà kém đi một chút, có lẽ bà đã bị trừng phạt và có thể bị xử tử ngay lúc ấy. Sự thật là những bài thơ của bà đã được kính trọng và bảo tồn cả hằng mấy thế kỷ đã chứng minh rằng bà đã đi trước thời đại của bà rất xa, sự hiểu biết sâu sắc đầy tính xúc tác của bà và cái óc khôi hài sắc sảo không ai có thể so sánh với bà đã mạo hiểm đến những nơi mà những văn thi sĩ đồng thời với bà – cả nam lẫn nữ - đều không dám đến và làm nổi bật bà thành biểu tượng tuyệt đối của lòng can đảm và nhiệt huyết của người Việt Nam.
Nguyễn thị Hải Hà dịch. 

Vài nét về tác giả Elena Yến Vi Nguyễn. Hôm 20 tháng 5 năm 2012, Elena Yến Vi Nguyễn tốt nghiệp hạng ưu Pre-Med Student Class 2012 của Mary Baldwin College với nhiều bằng danh dự. Mùa thu năm nay, Nguyễn Yến Vi, 18 tuổi, sẽ là sinh viên đầu tiên và trẻ tuổi nhất của Việt Nam vào Đại Học Y Khoa West Virginia University School of Medicine.  
    Bài này đã được in trong Thư Quán Bản Thảo số 53 phát hành vào tháng 8 năm 2012. 

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Bài thơ dịch của John Balaban được giữ để độc giả tiếng Việt thưởng thức hay tham khảo
[2] http://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%A8o_Ba_D%E1%BB%99i
[3] http://www.johnbalaban.com/articles/translating-vietnamese-poetry.html  
   Chú thích của người dịch: tôi tìm thấy tên của bài thơ trong bài tiểu luận của Giáo Sư John Balaban. Tôi không có điều kiện để kiểm chứng sự chính xác của tựa đề. Rất có thể tựa đề là Vịnh Sư Hoang Dâm chứ không phải Hoành Dâm do đó ông Balaban dịch chữ “hoang dâm” thành chữ “lustful”.
[4] Chú thích của người dịch: Ở đây tác giả bài viết đã không chú ý đến chữ “trái gió” nếu nói lái sẽ biến thành “dái chó” cũng là một cách để mắng các nhà sư hoang dâm. Nên nhớ cách phát âm của người miền Bắc chữ “tr” thường được phát âm giống như “ch” và chữ “gi” thường được phát âm giống như “d.” Hai chữ đá đeo cũng có thể nói lái thành “đéo đa.” Chữ đa có thể hiểu là nhiều lần.

Monday, August 20, 2012


thơ chiêu anh nguyễn

Cảm khúc



Về nhé, chiều muộn không
Nhẹ tênh
khúc cong trải sỏi ...
cơn mê sảng nhiều kỳ gom góp
Thành cú nhói nơi ngực trái mỗi khi nghĩ về
Con đường
sỏi trắng, đèn vàng hắt ngược
ái ân nào vẹn nguyên ?
Âm mưu đẩy vào nhau những ngẫu nhiên phi lý chuyển động dần đều

Về nhé, tàn tạ một ngày
Nụ hôn nhuộm thẫm  tai ương
Cạn đáy
Lạc tay lái em chạy như trốn khỏi mặt đất này
Ám ảnh
bờ vai anh mềm như nước
Chảy lan vào kiếp khác
Em hốt sao đầy từng vốc tay
hoảng loạn
Bất lưc nhìn

Em về, dãy phố cong
Bánh xe nghiêng chới với
Hàng thiên điểu nhiều đêm rập rờn phone tai rải xuống mặt đường
“Hiên cúc vàng” tango
Nụ cười 11g khuya trộn gió
trộn nồng nàn
vết móng tay để lại vai ngoan

dãy phố cong đêm chưa ngả bóng
“Nếu mai ngày, như con sâu nằm trong mắt bão
Em sống sót trở về….” *
Hàng thiên điểu rã cánh
Bờ kênh
Vãn rợp những đèn vàng vô vọng
Em phải về

bên kia
bờ vai hóa đá
dịu dàng
những ngôn từ phi tang
dốc cạn đáy hơi nhạc cuối của đêm
để …
ngẩng trông mới hay tình xưa
làm chưa xong hết cuộc
tiễn đưa *

C.A.N
8.2012


* . nhạc Nguyễn Đình Toàn

Saturday, August 18, 2012


PHẠM NHÃ DỰ:
THƠ VÀ HOÀI NIỆM MỘT THỜI TUỔI TRẺ 

Trần Văn Sơn



   Thời gian bắt đầu bằng một vòng quay. Vậy mà hơn bốn mươi năm nay, trải qua hàng tỷ vòng quay và hàng hàng lớp lớp sát-na tiếp nối, cùng với những biến động bất ngờ của lịch sử ; kể từ thập niên sáu mươi, dù ở Việt Nam hay ở xứ người , chúng tôi cũng vẫn gắn bó và thân quý nhau như buổi ban đầu.  Trước ngày  30/4/75 , thỉnh thoảng chúng tôi tập trung tại Quang Hạnh thư trang của nhà thơ Ngô Nguyên Nghiễm dưới chân cầu chữ Y đường Hưng Phú , hay ở Ngã ba Ông Tạ  của nhà văn  Hà Thúc Sinh, và nhà Nguyễn Lê La Sơn -Thụy Miên ở  Nguyễn Tiểu La;  bày tiệc rượu , mạn đàm chuyện văn chương, thi phú, lúc ngà say thường đọc thơ cho nhau nghe. Những bài thơ mới sáng tác mang gió bụi đường xa đầy hào khí của Lâm Chương, Trần Phù Thế, Thụy Miên , Phạm Nhã Dự do chính tác giả đề trên vách lầu một nhà ca sĩ Quc Phong không biết có còn hay không? Ta còn nhớ một vài đoạn thơ của bạn, màu mực và nét  chữ bay bướm trên tường vẫn còn in đậm trong đầu, trong trí óc ta , có còn nhớ không Phạm Nhã Dự ? 

Viên đạn lăn nhanh trong tay
Đó là trò chơi thứ nhất
Đưa em về ngôi nhà cũ
Buổi sáng mù sương đắp cao

Khẩu súng quay nhanh trên tay
Đó là trò chơi thứ hai
Hôn em bằng tình ái cũ
Tinh khôi rực sáng đôi mày
(Từ 4091 - PND )
   Buổi sáng ta thức dậy thật sớm, nhâm nhi ly cà phê hiên sau vườn nhà, ngắm hoa cảnh, mồi điếu thuốc, suy nghĩ mông lung. Nghĩ về gia đình, về bạn bè. Nghĩ về người, về đời. Mới ngày nào thanh xuân tràn trề sức sống, nay bạc tóc sức kiệt thân tàn. Nhìn lại những chặng đường đã qua, vui ít buồn nhiều. Đôi khi chúng ta như kẻ lãng tử dong ruỗi ngược xuôi, sống bạt mạng, bất cần đời hầu quên đi một phần nào nỗi đau về thời thế thế thời phải thế, cũng có lúc rượu mềm môi với những thâm tình chất ngất; và Thơ hiển hiện như một sự cứu rỗi nhiệm mầu vượt lên trên tất cả, kết nối tâm giao thành tinh anh đất trời.
   Bạn có còn nhớ đêm Quán Gió ở bãi biển Tân Long - Bình Tuy, bạn - ta và nhà thơ Phan Lynh Sa đã thức suốt đêm dưới hàng dừa cao rì rào lá gió, ngồi trên bãi cát ngắm ánh sáng huyền ảo của vầng trăng mười tám lung linh trên mặt biển, nghe sóng vỗ rì rầm tạo thành tấu khúc dương cầm làm mê đắm lòng người . 

Có còn nhớ không Phạm Nhã Dự?
   Ngôi nhà bạn ở mười tám thôn vườn trầu gần ch Bà Điểm, ta đặt tên Quán Văn vì nơi đây anh em văn nghệ chúng tôi thường lui tới: Cung Tích Biền , Rừng, Ngô Nguyên Nghiễm, Trần Phù Thế, Trần Yên Thảo, Tô Đình Sự...Bạn cất thêm một " thảo bạc " nhỏ đơn sơ trống gió trong khu vườn cây cảnh sầm uất. Ngồi nơi đây nhắp từng ngụm đế Bà Điểm, nhìn những lá trầu non xanh mơn mởn leo trên hàng tre cao chót vót, những gốc bưi nặng trĩu trái vàng um trồng hai bên hông nhà, một vài chậu bonsai tượng hình loan phụng, cộng thêm hương thơm dìu dịu của hoa cau, hoa bưởi quyện trong không gian tĩnh lặng thì không có thú chơi nào thanh cao cho bằng . Thỉnh thoảng nhà văn Dương Trữ La hái vài trái bưởi, bóc ra từng múi chia anh em làm mồi nhắm hoặc đ giải rượu .

   Có lần , vợ chồng tôi từ Bình Tuy vào Sài Gòn cùng vợ chồng nhà văn Minh Nguyễn , ghé ch Hốc Môn mua vài món tươi  sống lên nhà Phạm Nhã Dự định sẽ bày tiệc vui chơi . PND đi vắng, con anh chỉ đưng chúng tôi đi tìm khắp nơi không gặp nên đành về lại Sài Gòn. 

   Có còn nhớ không Phạm Nhã Dự?  Đêm tưởng niệm nhà thơ Tô Đình Sự tại quán Phấn Thông Vàng đường Nguyễn Thông do Phạm Nhã Dự và Khánh Giang tổ chức, bạn đọc bài Buổi chiều ở nghĩa trang Cà Đú , khóc Tô Đình Sự trong xúc động, nghẹn ngào. Tất cả mọi người im lặng. Hình như hồn Tô Đình Sự nhập vào từng chữ, từng câu thơ bi tráng hòa quyện vào tâm ảnh một tình bạn thâm sâu; đau đớn và tiếc thương một tài hoa rực sáng đã sớm bỏ cuộc chơi thong dong đi về miền miên viễn: 

Chiều nay sao gió nhiều mày nhỉ
Gió nổi trong tao đến lạnh mình
Đù má, nhang mày sao chẳng cháy
Đốt mãi que diêm đến cạn cùng

Bên kia dãy núi trơ thân chó
Còn dưới chân tao lại sụt sùi
Mẹ kiếp vợ mày đang khóc mướt
Con mày, trời hỡi nó cười vui

Còn tao, tao chẳng cười hay khóc
Chẳng ngậm ngùi chi lũ kiếp người
Đù má, tao chửi thề đây Sự
Chửi hết trăm năm chửi hết đời

Bây giờ mày đã nằm yên phận
Còn vợ, bào thai, hai đứa con
Đù má, một đời làm thi sĩ
Chẳng đủ cho con lấy một đồng
( trích Buổi chiều ở nghĩa trang Cà Đú - PND )
   Nhà thơ Tô Đình Sự mất vào năm 1970 trong một tai nạn xe cộ . Sinh thời, anh chủ trương tạp chí Thế Đứng cùng Phạm Nhã Dự . Thơ văn  TĐS và PND đăng trên các tạp chí văn nghệ thời danh tại Sài Gòn. Năm 1968, anh nhập ngũ khóa 27 TBB / Thủ Đức  cùng khóa với nhà thơ Phạm Nhã Dự và cùng ở trong ban biên tập tờ nguyệt san Trường BBTĐ. Hai bạn là cặp bài trùng từ dạo đó. Nếu tôi nhớ không lầm, T ĐS viết mục “Nhật ký quân trường” cho báo này, câu mở đầu anh gọi tên một người con gái: Nga yêu dấu. Cô Nga hiền dịu và dễ thương của TĐS, sau 1975 cô có còn ở Sài Gòn hay đã phiêu bạt phương trời nào?



   Có còn nhớ không Phạm Nhã Dự ?
   Quán sách cô Nga nằm ở góc đường Lê Lợi và Nguyễn Trung Trực, điểm hẹn anh em văn nghệ chúng tôi. Thời gian này tôi đóng quân ở mật khu Lý văn Mạnh, thỉnh thoảng có phép leo trực thăng bay về Sài Gòn, tạt qua quán sách cô Nga mượn vài quyển sách rồi ngồi ở nhà hàng Kim Sơn bên hông đường Nguyễn trung Trực chờ bạn bè. Trần Phù Thế, Nguyễn Lê La Sơn, Quốc Phong, Thụy Miên, Tô Đình Sự và dĩ nhiên không bao giờ thiếu bạn tôi, Phạm nhã Dự; leo lên xe Jeep của Lâm Chương, ghé qua Thời Nay bốc Khánh Giang; Dương Trữ La ở Tin Sáng, rồi kiếm một  quán nhậu nào đó , uống vài chai bia quên đời bên nhau. Bây giờ Thụy Miên, Dương Trữ La , Khánh Giang, Quốc Phong không còn nữa , có lẽ  đã cùng Tô Đình Sự  phiêu du ở một vùng trời nào đó tiếp tục cuộc vui ... 

Tụi mình dăm đứa đời lang bạt
Sống chẳng ra chi, chẳng bận  lòng
Việc nước , việc đời đem dẹp hết
Uống rượu quanh năm đếch ngại ngùng

Mày nhớ đêm tàn trên xa lộ
Thằng Chương đem xế lái quanh trời
Đù má, cũng còn cười khi sắp chết
Ngỡ rằng mình hái được hoa mơ
( trích Buổi chiều ở nghĩa trang Cà Đú - PND) 

    Phạm Nhã Dự thì lãng đãng trong sương mù của mười tám thôn vuờn trầu  mọi khí hậu tinh sương đều được nhà thơ cung hiến hết cho bằng hữu tâm giao, mới cũ tứ hải giai huynh đê. " Chỉ một vài câu nhà thơ Ngô Nguyên Nghiễm đã nói lên một phần nào cá tính của Dự: Hào sảng. Phóng khoáng. Chí thành chí tình. Và nhất là hết lòng với bạn bè.
   Tô Đ ình Sự mất để lại người vợ đang mang thai đứa con thứ tư và ba con thơ dại .Sau 1975 , vợ Sự đưa hết gia đình về sống ở vùng quê Phan Rang, chân lấm tay bùn, làm ruộng rẫy bữa đói bữa no, và kể từ đó PND mất liên lạc với gia đình T ĐS .  Trải qua một cuộc bể dâu và qua một thời gian dài dò hỏi tin tức, bạn tôi mới tìm  được chổ ở của vợ con TĐS , nhưng vợ Sự không còn .Thương cảm hoàn cảnh không lối thoát cho tương lai của các cháu, PND đã vội ra Phan Rang đốt nén hương trước mộ phần vợ chồng TĐS. Cùng lúc, cất cho trưởng nam của TĐS một ngôi nhà nhỏ qua sự đỡ đầu của nhà thơ Võ Tấn Khanh, những đứa  còn lại bạn tôi đưa vào  làm việc trong hãng xưởng của một người quen tại Sài Gòn. 

   Có còn nhớ không Phạm Nhã Dự?
   Quán Thằng Bờm ở Đề Thám - Quán Mai ở Phan Thanh Giản , nơi thỉnh thoảng chúng ta tổ chức đọc thơ, phần ca nhạc do ca sĩ Quốc Phong đảm trách với phần phụ diễn của các ca sĩ Phương Hồng Ngọc, Giáng Thu… Những bài thơ hào khí ngất trời, nói lên thân phận  một nước nhược tiểu, những ưu tư, khắc khoải và thao thức của tuổi trẻ về chiến tranh và giấc mơ hòa bình. Tô Đình Sự ra mắt tạp chí Thế Đứng tại đây, chủ đề cũng xoay quanh những vấn đề nêu trên. Những đêm đọc thơ như thế đều tập trung đông đảo học sinh, sinh viên tham dự. Trong  bầu không khí văn nghệ ấm áp, đầy ắp tình người, ngồi uống ly cà phê và đồng cảm với lời thơ tiếng nhạc, một phần nào dù rất nhỏ, cũng góp một bàn tay tạo nên luồng sinh khí mới cho nền văn học nghệ thuật miền Nam.
   Nhà văn Thụy Miên mất, Trương Thành Vân tạc tượng đêm điểm nhãn đôi mắt pho tượng bán thân của Thụy Miên có mặt hầu như đầy đủ anh em văn nghệ chúng tôi, trừ một vài người ở xa hoặc bận hành quân. Hoàng Lộc - Ngô Nguyên Nghiễm - Phạm Nhã Dự , Nguyễn Lê La Sơn (anh ruột của Thụy Miên ). và cả gia đình của Thụy Miên . Tất cả đều hồi hp theo dõi từng cử động đôi bàn tay tài  hoa của  điêu khắc gia Trương Thành Vân. Giai đoạn điểm nhản tối ư quang trọng quyết định sự thành bại của pho tượng. Đôi mắt mở to không chớp , mồ hôi chảy dài trên trán trên mặt , trời lạnh mà áo anh ướt đẫm. Đến gần nửa đêm, Trương Thành Vân buông tay , ngã người ra sau la to: thành công rồi. Quả thật , hồn của Thụy Miên đã nhập vào đôi mắt, lóe lên và sáng rực như hai vì sao . Pho tượng này được dựng trước mộ Thụy Miên ở nghĩa trang tỉnh Vĩnh Long,  nghe nói rất linh hiển và người dân thường đến nơi đây cầu  phước, nên mộ anh bao giờ cũng đầy hoa quả, nhang đèn .

Ném hòn đất xuống mộ huyệt
Những nhát cuốc nẩy lửa 

Ôi , những người bạn của ta
Sao lại chia lìa thảm thiết
Sao đành bỏ ta đi
Chỉ vì đời vắn số

Hay bởi lòng ti tiện của thế nhân
Của những tầm thường bày biện
(Trích đám tang cho ba thằng bạn -PND )
   Môt vài kỷ niệm nhỏ và thơ trích cũng đủ nói lên tấm lòng của ta với bạn , dù có thể Thơ và bài viết không hòa quyện vào nhau. Trong buổi xế chiều của cuộc đời ,mỗi ngày chúng ta đều nhìn thấy sự mênh mông của đất trời, đêm tỉnh lặng trong sự mầu nhiệm của những vì sao , Thơ sẽ nẩy mầm hồi sinh những giá trị nhân bản con  người.

   Có phải không Phạm Nhã Dự? Thơ là sự đồng cảm, đồng thanh kết tinh trong sự trầm lắng thanh thoát, đôi khi thấp thoáng hơi thở của đất trời, bàng bạc thiền tính và triết lý như nhà thơ Phan Bá Thụy Dương nhận định:
    "Người ta bảo thi nhân là kẻ có tâm linh siêu thoát, thanh nhã. Người xưa thường thắp nến đọc thơ và cho đó là một thái đô. trang nghiêm, hầu có thể dể dàng hòa nhập vào thế giới nội tâm của tác giả để thưởng ngoạn, để tìm nguồn đồng cảm, đồng thanh. Ngôn tượng trong thơ Phạm Nhã Dự là một tổng hợp, kết tinh của sôi nổi và trầm lắng. Xin hãy thử đọc những lời nhẹ nhàng, dịu êm, mong manh như sương khói của Dự:
   "Mai này vào cõi mịt mù - Chim kêu. Vượn hú. Tịch vù bóng sương - Mai sau ở cõi vô thường - Có ai chong ngọn đèn buồn. đọc kinh!"
…và vài nét ẩn tàng nỗi hoang vắng, ngậm ngùi, tịch lương:
"Ngoảnh lại. Trông ra. Hồ tan tác...- Chập chờn. Nghe gió lộng xa xăm - Thoảng như tiếng oán hồn dân tộc - Rớt xuống thuyền sông lạnh mái dầm".
   Thơ Phạm Nhã Dự còn tiềm tàng phong thái ngạo nghễ của một kẻ lãng tử, phiêu bạt, nhưng lòng tựa chừng lạnh lẻo, thảng thốt bơ vơ. Mỗi dòng chữ, mỗi câu thơ đều thể hiện đậm nét phóng khoáng:
   " Ta mang em ra phố - Ném vào giữa chợ tình - Trăm người hỗn mang lạ -
Rao bán cuộc bình sinh - Ta ngẩng nhìn ngơ ngác "... "Ta đưa em vào đời - Nhảy múa cùng tử sinh - Trá oan khiên rớt hột - đâm chồi giữa điêu linh - Ta rùng mình phiêu hốt."

   Tiếng thơ hay tiếng lòng của người thơ 18 thôn vườn trầu này luôn như nhiên, tự tuôn trào như mạch sống. Lúc thanh thoát như:
   "Đò nhẹ. Lòng trôi theo sóng vỗ - Canh sâu. Dế đệm. Nhạc sành rung. Khi vẩn đục như: Tao trở lại đây đường dịu vợi - đốt nén hương tàn hát biệt ly"

   Lúc mang bản sắc lang bạt, giang hồ, nhưng thân thiết như:
   "Thăm mày, đù má lòng buốt xót - Ngó trời chỉ biết chửi thề thôi."
   Những ý nghĩ, hoài cảm đó hiển lộ, phảng phất mùi của rượu, chan chứa màu sắc của tình yêu, sự thân thiết của tình bằng hữu, đôi khi còn bàng bạc công án thiền, triết tính với nhân bản tính và những thi ảnh, thi ngữ ấy đã được kết nối, dàn trải một cách linh lộng, tài tình "
* PBTD 

   Chúng ta mất hết nhưng vẫn còn có nhau. Giờ đây ta và bạn cùng định cư trên nước Mỹ , bạn sống tại Boston MA , ta ở miền Nam CA , cách xa vạn dặm; tình bạn vẫn nồng ấm, thắm thiết như xưa.Ta còn nhớ rất rõ, lúc Trần kiêu Bạt còn sống và Hà thúc Sinh chưa dời nhà đi Sacramento, mỗi tuần TKB đều bày tiệc rượu nhỏ,  mục đích chính là để gặp mặt nhau hàn huyên tâm sự và cùng nhau gọi ĐT tán gẫu với bạn bè ở các tiểu bang xa như Trần Phù Thế, Vũ Uyên Giang...

   Có còn nhớ không Phạm Nhã Dự? Ta gọi ĐT cho bạn lúc 12 giờ đêm CA ( tức 3 giờ sáng Boston -MA) lúc cả ba đều ngất ngưỡng hơi  men. Ngẫu hứng ta  đọc cho bạn nghe bài thơ của bạn , ĐÊM TRÊN DồNG KINH CÙNG , ngậm ngùi về một quê hương chỉ còn trong trí nhớ và hy vọng một ngày nào đó,  chúng ta sẽ được ngồi trên con đò trong đêm trăng hò câu vọng cổ, khua mái chèo trên dòng Kinh Cùng : 

Đò chậm . Bèo trôi . Trời ẩm đục
Bạn ta . Nào . Nốc ly này cạn
Đèn treo . Trăng hạ . Cánh vạc mềm
Mai đò chưa muộn chuyến sương đêm 

Mênh mông . Cá mống . Dòng kênh lạnh
Chèo .Xạc xào khua . Tiếng nhái khan
Thoảng thoảng . đèn xa . Hò vọng cổ
Tí tách lục bình nở tím ngang 

Nước lạnh . Dòng đời trôi cũng lạnh
Đời dăm ba phút ấm cùng thôi
Bạn ta . đâu đã gì quá muộn
Đâu gì . Ha hả . Đâu gì đâu ? 

Trò đời . Nghĩ cũng phường khinh bạc
Rượu mềm . Chưa thấm . Hãy tràn ly
Đêm nay  ta  cạn  ly  vô tận
Mặc dòng nước chảy cuốn về , đâu 

Đò nhẹ . Lòng trôi theo sóng vỗ
Canh sâu . Dế đệm . Nhạc sành rung
Bạn ta . đâu đã gì lướt khướt
Nghe chăng ?  Tiếng diễu nhại côn trùng 

Ngoảnh lại . Trông ra . Hồ tan tác.
Chập chờn . Nghe gió lộng xa xăm
Thoảng nghe tiếng oán hồn dân tộc
Rớt xuống thuyền sông lạnh mái dầm 

    Ta gửi bạn bốn câu thơ viết từ thời trai trẻ, cách đây gần năm mươi năm, diễn tả sự thao thức, khát vọng và hoài bão của tuổi trẻ Việt Nam trước hiện tình đất nước, bây giờ mỗi lần nhớ lại vẫn còn thấy hợp với tâm trạng chúng ta:

Những ước mơ như người què tháp đôi chân gỗ
Chống gậy đi tìm người lạ mặt ở bên kia sông
Có phải chúng ta đang đứng ở bên này
Ở bên kia sông lão chèo đò ơi ới gọi

TRẦN  VĂN  SƠN
Đường trúc thư trang