HỒ XUÂN HƯƠNG: THAY ĐỔI MỘT QUỐC GIA BẰNG THƠ
Nguyên tác: Elena (Yến Vi)
Nguyễn
Nhà thơ Việt Nam Hồ Xuân Hương từ xưa đến nay vẫn được xem là một trong những nhà thơ lớn nhất và gây nhiều tranh luận nhất. Vào thời kỳ vị trí của người phụ nữ trong xã hội càng lúc càng trở nên khiêm nhường vì bị ảnh hưởng bởi học thuyết Khổng Tử, chỉ riêng cái ý muốn làm thơ của bà cũng đủ làm dư luận bất bình. Thơ của bà càng đáng sợ hơn vì ý tứ chua cay, phê phán xã hội đương thời, ẩn chứa nhục cảm, và sự khôi hài dí dỏm ngụ ý tình dục đã, một cách đầy phản kháng, phá vỡ những quy luật xã hội, mang giọng nói cho phụ nữ Việt và gây tiếng vang cho ngôn ngữ Việt.
Cơ
cấu và kỹ thuật làm thơ của Hồ Xuân
Hương đã hữu hiệu đưa những bài thơ của Bà vượt qua mức đơn giản của ẩn dụ và
so sánh. Thơ Hồ Xuân Hương giống như những mảnh rời nối kết với nhau một cách
rất phức tạp không chỉ mang một nghĩa (đen), mà mang những hai nghĩa bóng –
nghĩa thứ nhất có tính cách trêu cợt gợi cảm và nghĩa thứ hai nghiêm túc hơn
kêu gọi cải cách xã hội. Thường khi, cái có vẻ như miêu tả phong cảnh Việt Nam
thật ra tràn đầy những ẩn dụ tình dục. “Đèo Ba Dội” là thí dụ điển hình của
loại thơ này được John Balaban dịch ra như sau:[1]
A cliff face. Another. And
still a third.
Who was so skilled to carve
this craggy scene
The cavern's red door, the
ridge's narrow cleft,The black knoll bearded with little mosses?
A twisting pine bough plunges in the wind,
Showering a willow's leaves with glistening drops.
Gentlemen, lords, who could refuse, though weary
And shaky in his knees, to mount once more?
Nguyên
tác:
Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốcĐầm đìa lá liễu giọt suơng gieo
Hiền nhân quan tử ai mà chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo[2]
Trên bề mặt, những bài thơ tương tự “Đèo Ba Dội” dường như là những bài thơ hoàn toàn đúng niêm luật và đứng đắn dùng hình ảnh cổ truyền của Khổng giáo liên quan đến thiên nhiên. Tuy nhiên, cái tư tưởng dục vọng trác táng gói ghém trong việc miêu tả cảnh thiên nhiên đã thêm chiều hướng phản kháng vào trong nền thi ca tượng trưng cho sự cao quí của một xã hội bị ảnh hưởng bởi Trung quốc. Trong khi chính quyền có vẻ như liêm chính và đức hạnh trong việc áp dụng quan niệm Khổng tử để ngăn cấm sự lõa thể và tình dục trong nghệ thuật, nhà thơ Hồ Xuân Hương đã vạch ra rằng đám quan lại nam giới này gian dối và đạo đức giả trong cách cai trị, hầu hết bọn họ có nhiều vợ và thường ngoại tình – một sự thật mà bà Hồ Xuân Hương có thể làm nhân chứng, vì chính bà cũng là vợ lẽ.
Bên cạnh những câu thơ khéo léo ngầm chứa những lời phê phán xã hội và chính trị thấy trong thơ của bà, trong nhiều bài thơ khác bà cũng bảy tỏ cảm tưởng về các nhà lãnh đạo tôn giáo. Một lần nữa, trong khi chủ đề tôn giáo trong những bài thơ biểu hiện lòng tôn kính và mộ đạo của bà, đọc kỹ sẽ nhìn thấy sự phê phán chua cay về giới chức tôn giáo đã bị băng hoại. Thí dụ, “Vịnh Sư Hoành Dâm”[3] diễn tả sự cố gắng của ông nhà sư đương đầu với cuộc hành trình để đến “Tây Trúc” tìm Phật (dịch bởi John Balaban):
Bản
dịch:
A life in religion weighs
heavier than stone.
Everything can rest on just one
little thing.My boat of compassion would have sailed to Paradise
If only bad winds hadn't turned me around
Nguyên
tác:
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo teoBuồm từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo
Trong nguyên tác tiếng Việt, câu đầu tiên
“Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,”(Dinh, para. 12) với chữ “đeo” có nghĩa là “mang
hay khiêng.” Đọc trại giọng một chút, “đeo” có thể biến thành “đéo,” có nghĩa
là “giao hợp,” như đã nói trong bài thơ “Đèo Ba Dội.” Bài thơ còn mang ý nghĩa
ngầm rất tục tằn biểu lộ trong câu cuối “Trái gió cho nên phải lộn lèo.” Ở đây nhà thơ đã nhẹ nhàng ám chỉ dụng ý của
bà qua hai chữ “lộn lèo,” có nghĩa là “quay trở lại hay quay hướng khác” (para.
13). Khi nói lái, nó biến thành “lẹo l…”
là một cách diễn tả chuyện giao hợp và âm hộ một cách rất tục tằn.[4]
Mặc dù điều này có lẽ đã được ám chỉ ở
tựa đề của bài thơ, giọng điệu ẩn chứa trong bài thơ “Vịnh Sư Hoành Dâm” đã
thay đổi hoàn toàn nghĩa của bài thơ. Cái dường như là cuộc hành trình đi tìm
Phật thật ra đầy dẫy gian dối dâm dật. Cái “tẻo tèo teo” đã hành hạ nhà sư và
“trái gió” đã ngăn cản nhà sư tìm về Tây Trúc được dùng để ám chỉ cùng một thứ
- tình dục. Trong khi bài thơ không có ý nói rằng các nhà sư lúc nào cũng lén
lút ân ái với phụ nữ, chắc chắn nó biểu lộ tình trạng đạo đức của các giới chức
tôn giáo lúc bấy giờ.
Thêm vào những thông điệp hấp dẫn được
giấu diếm tài tình trong vẻ lấp lánh của cái tục, tính chất độc nhất vô nhị về
thơ của bà Hồ Xuân Hương nằm ở trong chính cái ngôn ngữ bà dùng. Trong khi hầu
hết mọi nhà thơ Việt thời bấy giờ dùng chữ Hán, bà Hồ Xuân Hương chọn cách viết
bằng tiếng Việt – hay nói đúng hơn là dùng chữ Nôm cổ, cách viết tiếng Việt
trước khi dùng mẫu tự La Mã như cách viết bây giờ. Dùng chữ Nôm, bà Hồ Xuân
Hương đã chế nhạo văn thi sĩ thời bấy giờ; họ những kẻ một cách tự phụ tuân
theo cái được xem là ảnh hưởng cao quý của Trung quốc – chọn những chủ đề tầm
thường vô vị của Khổng giáo mà, thật tất yếu, đã ruồng bỏ dân tộc của mình.
Bằng cách dùng chữ Nôm, bà Hồ Xuân Hương đã đi ngược lại thói thường và làm
vang vọng tiếng nói của người dân bình thường – trái tim của Việt Nam – cũng
như đã trình bày cái thẩm mỹ và khả năng văn chương phi thường của ngôn ngữ
Việt.
Trong khi thực hiện kỳ công sáng tác ba
bài thơ gồm trong một, Hồ Xuân Hương không những làm độc giả thú vị với sự tinh
quái tục ngầm mà còn trưng ra lời phê bình về xã hội phụ hệ đặt nền tảng trên
ảnh hưởng của Trung quốc – một “toan tính” khá nguy hiểm đã thành công trong
việc lẩn tránh và tự giải thoát khỏi vòng kiểm duyệt nhờ sự giả trang khôn khéo
này. Nếu như tài làm thơ của bà kém đi một chút, có lẽ bà đã bị trừng phạt và
có thể bị xử tử ngay lúc ấy. Sự thật là những bài thơ của bà đã được kính trọng
và bảo tồn cả hằng mấy thế kỷ đã chứng minh rằng bà đã đi trước thời đại của bà
rất xa, sự hiểu biết sâu sắc đầy tính xúc tác của bà và cái óc khôi hài sắc sảo
không ai có thể so sánh với bà đã mạo hiểm đến những nơi mà những văn thi sĩ
đồng thời với bà – cả nam lẫn nữ - đều không dám đến và làm nổi bật bà thành
biểu tượng tuyệt đối của lòng can đảm và nhiệt huyết của người Việt Nam.
Nguyễn
thị Hải Hà dịch.
Vài nét về tác giả Elena Yến Vi
Nguyễn. Hôm 20 tháng 5 năm 2012, Elena Yến Vi Nguyễn tốt nghiệp hạng ưu Pre-Med
Student Class 2012 của Mary Baldwin College với nhiều bằng danh dự. Mùa thu năm
nay, Nguyễn Yến Vi, 18 tuổi, sẽ là sinh viên đầu tiên và trẻ tuổi nhất của Việt
Nam vào Đại Học Y Khoa West Virginia University School of Medicine.
Bài này đã được in trong Thư Quán Bản Thảo
số 53 phát hành vào tháng 8 năm 2012.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]
Bài thơ dịch của John Balaban được giữ để độc giả tiếng Việt thưởng thức hay
tham khảo
[2]
http://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%A8o_Ba_D%E1%BB%99i[3] http://www.johnbalaban.com/articles/translating-vietnamese-poetry.html
Chú thích của người dịch: tôi tìm thấy tên
của bài thơ trong bài tiểu luận của Giáo Sư John Balaban. Tôi không có điều
kiện để kiểm chứng sự chính xác của tựa đề. Rất có thể tựa đề là Vịnh Sư Hoang
Dâm chứ không phải Hoành Dâm do đó ông Balaban dịch chữ “hoang dâm” thành chữ
“lustful”.
[4]
Chú thích của người dịch: Ở đây tác giả bài viết đã không chú ý đến chữ “trái
gió” nếu nói lái sẽ biến thành “dái chó” cũng là một cách để mắng các nhà sư
hoang dâm. Nên nhớ cách phát âm của người miền Bắc chữ “tr” thường được phát âm
giống như “ch” và chữ “gi” thường được phát âm giống như “d.” Hai chữ đá đeo
cũng có thể nói lái thành “đéo đa.” Chữ đa có thể hiểu là nhiều lần.
No comments:
Post a Comment