Người
lính trong
TRUYỆN
TỪ VĂN*
của
Trần Hoài Thư
Trong
bài giới thiệu về tác giả Trần Hoài Thư của nhà văn Mai Thảo đăng trên tạp chí
Văn ngày 1-3- 1972, ông đã viết:
“…Người đọc có thể chê trách người lính bệnh của
Trần Hoài Thư trong Bệnh Xá Cuối Năm đã đề cập tới những chủ đề lớn như chấm dứt
chiến tranh, thống nhất đất nước, đoàn viên và thương yêu hai miền, bằng một
tâm hồn quá đơn giản, thơ ngây. Người lính của chúng ta hiền quá. Hiền thật.
Làm thế nào được. Dân tộc ta hiền, mãi mãi hiền, mặc dầu đã hai mươi năm lâm trận.
Cái tính hiền đó được biểu hiện cùng khắp trong những truyện ngắn về tiền đồn,
về mặt trận, của Trần Hoài Thư, mà Bệnh Xá Cuối Năm là một.”
Thật
vậy, trong các truyện ngắn của anh trong tập “Truyện từ Văn” mà tôi hân hạnh được
đọc, nổi bật lên hình ảnh người lính VNCH thật hiền, dù là khi nằm trong bệnh
viện hay khi đang lâm trận, hoặc ở bên người em, người tình. Họ chỉ có một mơ ước
duy nhất, là ngày hòa bình mau trở lại để trở về với làng quê, xóm cũ, bên cha
mẹ già, lấy vợ sinh con. Thôi không còn những ngày nằm mương nằm mả truy lùng địch.
Không còn hỏa châu, trái sáng, tiếng đạn bom trên quê hương đã quá nhọc nhằn.
Rồi tôi và lũ bạn
ở trong trại bịnh sẽ dắt dìu nhau, kẻ chống nạng, người băng bó đầy mình, kẻ
tóc râu như con dã thú, kẻ xanh xao, ốm yếu như một tên nghiện thuốc phiện...
Chúng tôi sẽ mở cánh cửa sắt của bệnh xá này, trải con tim thật nhạy cảm cùng
nhân loại, để làm một cuộc duyệt binh thật vĩ đại cùng những người đang lâm chiến.
Họ ở Trường Sơn xuống. Hạ Lào qua. Cao Miên lại. Họ từ muôn nơi tụ hội lại,
cùng bắt tay nhau, cùng chúc mừng nhau, cùng nghẹn ngào chào nhau. (Bệnh xá cuối
năm - trang 12)
Họ
mang một trái tim nhân hậu, không phân biệt đối xử ngay cả với tù binh. Các tù
thương phế binh miền Bắc được săn sóc như những người lính miền Nam. Chứ không
phải như ngày hòa bình mới lập lại, kẻ chiến thắng đã đuổi tất cả các thương bệnh
binh VNCH đang nằm dưỡng thương ra khỏi quân y viện... Anh Trần Hoài Thư đã
nhìn, đã tả người lính phía bên kia bằng con mắt anh em, rất người, rất bao
dung:
Người thông ngôn
hỏi hai người thương binh Bắc Việt về ý muốn của họ về quê hương hay không. Và
mục đích của phái đoàn quốc tế này là tìm cách giúp đỡ. Tôi thấy hai người lắc
đầu.
Tôi đang tự hỏi,
phân tích, suy luận về trường hợp hai người tù thương binh trong bệnh xá miền
cao này. Tôi cố gắng tìm trên gương mặt ấy một cái gì biểu lộ một mối thù địch,
ác ôn. Nhưng tôi chỉ thấy một đôi mắt thật buồn bã, trên gương mặt thật chất
phác bị may vá chằng chịt. Đôi mắt ấy, tôi đã nhận thấy từ bên trong ô lưới sắt.
Ánh nắng le lói của hoàng hôn chiếu vào khung lưới. Nắng đọng thành từng mảng
nhỏ trên gương mặt của hắn. Hắn nhìn lại tôi. Tự nhiên tôi muốn mời hắn một điếu
thuốc. Tôi muốn bày tỏ sự thân thích vô
hình giữa tôi và hắn. Giữa những người trẻ tuổi bất hạnh như nhau. Giữa những
tên thanh niên trót sinh ra trong một thế kỷ đen tối. (Bệnh xá cuối
năm - trang 13)
Người
lính miền Nam đã xem cuộc đấu tranh này như một cuộc đấu tranh về ý thức hệ,
nên không coi kẻ phía bên kia là thù địch:
Kẻ thù ta ơi những
đứa xâm mình
Ăn muối đá mà
điên say chiến đấu
Ta vốn hiền khô
ta là lính cậu
Đi hành quân rượu
đế vẫn mang theo
Mang trong đầu
những ý nghĩ trong veo
Xem cuộc chiến
như tai trời ách nước
Ta bắn trúng
ngươi vì ngươi bạc phước
Vì căn phần
ngươi xui khiến đó thôi
(Nguyễn
Bắc Sơn - Chiến tranh Việt Nam và tôi)
Trong
khi đó, phía cán binh CS, họ đã bị nhồi nhét tuyên truyền rằng những người ở
phía đối diện họ đều là Mỹ Ngụy, là kẻ thù, phải tiêu diệt không khoan nhượng,
phải “nhằm thẳng quân thù mà bắn”. Như trong bài thơ “Những ngày xưa thân ái” của
nhà văn / nhà thơ Phạm Hổ (anh trai của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ - tác giả bài nhạc
“Những ngày xưa thân ái” tại miền Nam), người đã tham gia sáng lập Hội Nhà Văn miền Bắc (1957) và cũng là một trong những người đầu
tiên hình thành Nhà xuất bản Kim Đồng, nơi chuyên xuất
bản văn hóa phẩm dành cho trẻ em(**):
Tôi bắn hắn rồiNhững ngày xưa thân ái
Không ngăn nổi tay tôi
Những ngày xưa thân ái
Chắc hắn quên rồi
Riêng tôi, tôi nhớ:
Đồng làng mênh mông biển lúa
Sương mai đáp trắng cỏ đường
Hai đứa tôi,
Sách vở cặp chung
Áo quần nhàu giấc ngủ
Song song bước nhỏ chân trần
Gói cơm mo mẹ vắt xách tùng tơn
Nón rộng hỏng quai
Trong túi hộp diêm nhốt dế
Những ngày xưa êm đẹp thế
Không đem chung hai đứa một ngày mai
Hắn bỏ làng theo giặc mấy năm nay
Tôi buồn tôi giận,
Đêm nay gặp hắn,
Tôi bắn hắn rồi
Những ngày xưa thân ái
Không ngăn nổi tay tôi
Xác hắn nằm bờ ruộng
Không phải hắn thuở xưa
Tôi cúi nhìn mặt hắn
Tiếc hắn thời ấu thơ.
Không phải hắn thuở xưa
Tôi cúi nhìn mặt hắn
Tiếc hắn thời ấu thơ.
(Phạm
Hổ - Những ngày xưa thân ái)
Thú thật,
tôi đọc mà nổi da gà. Bạn thân thuở ấu thơ, ở khác chiến tuyến, gặp lại nhau
chẳng mừng thì chớ, lại giết không gớm tay. Chả bù cho người lính miền Nam, nhà
thơ Phan Xuân Sinh, đã bày cuộc “Uống rượu với người lính Bắc phương”:
Hãy
rót cho ta thêm cốc nữa đi
Ngồi
với bạn hôm nay làm ta hứng chí
Chuyện
ngày mai có chi đáng kể
Dẹp
nó đi cho khỏi bận tâm
Thằng
lính nào mà không rét lúc ra quân
Khi
xung trận mà không té đái
Ta
cũng có người yêu nhỏ dại
Mỏi
mắt trông chờ song cửa quê nhà …
Chuyện
sống chết căn bệnh trầm kha
Đâu
dễ gì thoát vòng sinh mệnh
Những
thằng lính thời nay không mang thù hận
Bạn
hay thù chẳng một lằn ranh
Thôi
hãy uống. Mọi chuyện bỏ lại sau
Nếu
có thể ta gầy thêm cuộc nhậu
Bày
làm chi trò chơi xương máu
Để
đôi bên nuôi mầm mống hận thù
Ta
chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu
Chỉ
có bạn, có ta là thua cuộc
Người
yêu của bạn ở ngoài phương Bắc
Giờ
này đang hối hả tránh bom
Hay
thẫn thờ dõi mắt vào Nam
Để
chờ người yêu mình trở thành liệt sĩ
Rồi
cũng sẽ quên, như bao điều suy nghĩ
Tình
yêu như một thứ điểm trang?
Che
đi chút dối lòng
Uống
với bạn đêm nay ta phải uống thật say
Để
không phải còn nhìn nhau hận thù ngun ngút
(Phan
Xuân Sinh - Uống rượu với người lính Bắc
phương)
Bởi vậy, người thương binh VNCH
trong truyện “Về Thành”, khi trở lại quê nhà, muốn đi thăm mộ chị Hai của anh,
một người “nhảy núi”, ông nội anh đã
khuyên:
Ông già lắc đầu:
-
Đừng nên cháu.
-
Sao vậy nội?
-
Từ đây đến đó,
có bao nhiêu con mắt nhìn con. Ai ở làng đều biết con qua bên sông.
Người cháu ràn rụa:
-
Nhưng con bây giờ
đã trở thành một kẻ cụt tay. Con không còn cầm súng. Con không còn ra mặt trận.
Chính một cánh tay họ đã cướp mất của con, trên chiến trường rồi.
-
Làm sao họ hiểu
được. Làng xóm đã ly khai con từ khi con trở về thành. Chị Hai con đã không
nhìn nhận con là đứa em ruột…
-
Không, chị Hai
con không bao giờ nghĩ điều đó. Chị là một người con gái hiền lành và dễ thương
nhất, mà con đã gặp, đã biết. Chị đã từng tha lỗi cho con, khi con chọc giận chị.
Chị không bao giờ… con biết rõ. Cả chú Ba, cả những người trong làng trong xóm,
không ai xô đuổi con. Cho con đi, thưa nội.
-
Nội van con, hãy
nghe lời nội. Con nên nhớ không ai nghĩ những điều như con đã nghĩ.
(Về
thành – trg 150)
Ngoài
những lý do mà anh đã nêu trong truyện, tôi tự hỏi có phải vì chế độ tự do ở miền
Nam quá nhân bản, nên hai người tù binh đã xin ở lại chăng? Nếu bạn đã đọc “Cõi
Đá Vàng” của nhà văn Nguyễn thị Thanh Sâm thì bạn đã biết chuyện một cô gái lấy
chồng Tây về quê thăm nhà bị nghi là Việt gian và bị mang ra xử bắn (thử) bằng
3 mũi tên tẩm thuốc độc. Những cán bộ có tư tưởng tiến bộ, tỏ thái độ chống đối
với những điều bất nhân, phi lý như Huỳnh, như Trần… thì bị bỏ tù và mượn tay
người khác để giết chết. Vấn đề này cũng được anh đề cập đến trong truyện Cõi
sa mạc – trg 279: CS đã mượn tay dân vệ giết cô giáo sinh Sư Phạm khi buộc cô
này kéo cờ giải phóng và hô khẩu hiệu.
Hình
ảnh người lính VNCH đã rất coi trọng mạng sống đồng bào, làm tôi chảy nước mắt
khi nghĩ đến những thước phim của ngày cũ: Tết Mậu Thân ở Huế, vụ pháo kích vào
trường tiểu học Cộng đồng Cai Lậy vào tháng 3 năm 1974… Hay như bây giờ, công
an trong nước đánh chết người dân là “chuyện thường ngày ở huyện”:
Đằng sau nhà, có
tiếng hét của người lính: Lên không. Đầu hàng đi. Tao ném lựu đạn xuống bây giờ.
Tôi đứng dậy, tiến về tiếng hét. Thằng Trung cầm trái M.26, sắp bỏ vào miệng
rút chốt. Tôi gọi giựt: Khoan đã. Muốn chết hả? Trung nói: Thiếu úy, em nghe tiếng
động trong hầm, bọn nó núp trong hầm, thiếu úy. Tôi nạt: Mày tưởng bắt bọn nó dễ
dàng như vậy sao? Trung cầm trái lựu đạn, phân bua: Thì ở đây là bọn nó rồi còn
gì. Tôi nói: Lỡ dưới hầm toàn dân không thì sao? Tôi chỉ tay vào trái lựu đạn
cay, sao mày không dùng thứ này? Ai dạy mày, hả. (Mắt đêm – trg
251)
Trong
tập truyện này, tôi như đã được tham dự cùng anh và đồng đội ở trận Kỳ Sơn quá
khốc liệt và kinh hoàng mà anh đã diễn tả trong bài thơ “Kỳ Sơn”:
Kỳ Sơn đồi trọc chim không đậu
Đại đội đi, một nửa không về
Lớp lớp người nhào lên, ngã gục
Đạn sủi bờ sủi đá, u mê
Lớp lớp người nhào lên, ngã gục
Đạn sủi bờ sủi đá, u mê
(Trần
Hoài Thư - Kỳ Sơn)
Hình
như có lần anh đã nói đúng là một phép lạ mà anh thoát chết trong trận này:
Ngày hôm đó,
ngày 9-5 thì phải. Mặt trời thì gay gắt. Chỉ có mặt trời mới thấy bọn tôi. Tôi
nằm trong bụi, mặt dầm dề máu và mảnh lựu đạn, đít mông cũng vậy. Tôi, lần đầu
tiên, niệm: Nam mô Quan thế âm Bồ tát, cứu nạn cứu khổ… hàng trăm lần. Nhìn mặt
trời. Cho con sống. Sống. Sống. Tôi vùng dậy chạy. Đạn bắn dưới chân. Tôi lộn
nhào. Chạy. Chạy. Đạn rít trên đầu, tôi nhào xuống bờ suối. Đạn đuổi theo. Nó
canh kỹ. Ló đầu ra. Tắc, bùm. Thụt đầu vào. Chạy, lăn. Tội nghiệp thân thể mày
chưa, ốm yếu thế kia. Cha mẹ nâng niu thế kia, bây giờ vùng vẫy, bò, chui từng
đám bụi, bò hai chân, hai tay. Bò ngửa. Bò sấp. Ngọn cây vừa xê xịch. Tắc bùm.
Đ.M. Chó đẻ. Mày giết tao. Mày hả dạ lắm sao. Tao còn viên đạn cuối cùng đây. Tự
tử. (Nhật
ký hành quân II, trg 53)
Bởi
vậy, đừng trách người lính khi lòng chàng thì yêu rất nhiều nhưng đã ngại không
dám cưới vợ vì sợ người yêu mình sẽ sớm trở thành “góa phụ ngây thơ”:
Tôi đi vẩn vơ.
Những hạt sỏi dưới đôi giày lính, kêu lên rào rào nhè nhẹ. Ở trên bầu trời đen
thăm thẳm, một vì sao vụt bay ngang rồi chết lịm. Có một chút bâng khuâng trong
hồn tôi. Tôi nghĩ đến thân phận của mình. Còn bốn năm nữa, sẽ từ bỏ bộ áo quần
xanh này để về, yên ổn với tấm thân mà cha mẹ nưng niu bế. Hay suốt đời không về,
mà nằm trong một mồ hoang thâm u lạnh lẽo. Quỳnh ơi, anh không thể kéo dài mối
tình thầm kín này nữa, nhưng anh cũng không thể nhìn em phải khóc như những người
vợ trẻ son sắt. Anh biết làm gì bây giờ? (Cõi sa mạc – trg 273).
Tôi
xin luôn luôn được mang ơn anh, những người lính VNCH, đã giữ cho miền Nam 20
năm yên ấm. Nhờ đó, chúng ta mới có được một gia tài văn hóa nhân bản, quý giá
và đồ sộ mà di tích còn lại của nó là những bộ Văn Miền Nam, Thơ Miền Nam cũng
như những tác phẩm văn học mà Thư Ấn Quán đã và đang sưu tầm hoặc tái bản.
Với
riêng anh Trần Hoài Thư, em muốn được nói lời biết ơn anh đã giữ gìn cho chúng
em, những thế hệ tiếp nối, được biết đến một nền văn học miền Nam lẫy lừng mà
“những người muôn năm cũ” đều ngậm ngùi khi nhớ đến.
Trần Thị Nguyệt Mai
11-7-2012
(Nguồn:
Thư Quán Bản Thảo số 53 tháng 8 năm 2012)
(*) Thư Ấn Quán xuất bản
mùa hè 2012, ấn bản đặc biệt của tạp chí TQBT chủ đề tạp chí Văn.
Muốn
có sách, xin bạn liên lạc với Thư Ấn Quán ở địa chỉ:
PO Box 58
South Bound Brook, NJ 08880
hoặc email:
tranhoaithu @yahoo.com
(**) nguồn:
Wikipedia
No comments:
Post a Comment