Wednesday, June 30, 2021

NHỚ HAI ANH GIANG HỮU TUYÊN VÀ NGÔ VƯƠNG TOẠI

Phan Tấn Hải
 
Nhà thơ Giang Hữu Tuyên và nhà báo Ngô Vương Toại
 
     Một ấn bản giấy Tạp Chí Cỏ Thơm từ Miền Đông Hoa Kỳ đã gửi tới Giáo sư Nguyễn Văn Sâm, và rồi từ vị Giáo sư Nam kỳ Lục tỉnh này chuyển qua đường bưu điện tới tôi. Tôi đã nhẩn nha đọc, một phần là thưởng thức văn học nghệ thuật (dĩ nhiên, báo này và nhiều báo khác đều có những độc đáo riêng), nhưng bùi ngùi khi nhớ tới một số hình ảnh đã mờ nhạt với hai nhà báo đã quá cố --- anh Giang Hữu Tuyên (1949-2004) và anh Ngô Vương Toại (1947-2014).
     Tôi cũng có một vài kỷ niệm với họa sĩ Đinh Cường, nhưng nói về gian nan nghề báo, nghề lặn lội đi nơi này nơi kia trong gió lạnh và tuyết rơi, rồi về một góc nhà để ngồi, để suy nghĩ viết này, viết nọ, thì tôi gần gũi với hai anh Giang Hữu Tuyên và Ngô Vương Toại. Đúng ra, nói về tình thân, hai anh Tuyên và Toại, khi tôi còn ở Virginia, thân cận nhất với GS Nguyễn Ngọc Bích và với nhà báo Nguyễn Văn Khanh, hai vị về sau tuần tự từng giữ chức Giám Đốc Đài Á Châu Tự Do, vì GS Bích và N.V. Khanh là dân địa phương từ lâu, không phải mới tỵ nạn tới như tôi. Nhưng nói về chất văn nghệ, tôi lại gần với hai anh hơn. Phần vì, tôi đã làm báo học trò từ thời là học sinh Chu Văn An, rồi làm báo sinh viên khi vào Đại Học Văn Khoa Sài Gòn trước 1975, khi lên đảo Galang lại ngồi viết cho Tạp chí Tự Do của Linh mục Dominici, rồi vừa lên Virginia là viết truyện ngắn gửi về Nhân Văn ở San Jose. Nghĩa là, nòi viết đã có sẵn trong tim, trong máu. Nghĩa là, đứng cũng muốn viết, ngồi cũng muốn viết, đi giữa nắng mưa gì cũng muốn viết, nên tự nhiên có chất bụi đời, rất mực là gần hai anh Giang Hữu Tuyên và Ngô Vương Toại.

Bìa tạp chí Cỏ Thơm, số 92 – tháng 6/2021
 
     Đọc số báo Cỏ Thơm 92, mới chợt nhận ra rằng bản thân mình bây giờ tuổi thọ cao hơn hai anh Tuyên và Toại. Cũng là một bất ngờ. Anh Giang Hữu Tuyên (1949-2004) từ trần năm 55 tuổi. Anh Ngô Vương Toại (1947-2014) ra đi năm 67 tuổi. Đối với trung bình dân Mỹ, như thế là tuổi thọ hơi ngắn. Tại sao? Đôi khi tôi nghĩ, hai anh vỡ tim mà chết, vì yêu thương quê hương rất mực nồng nhiệt, nên cơ thể không chịu đựng nổi những nỗi buồn xa quê của hai anh. Tôi đã nghĩ như thế, khi được tin Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích từ trần ngày 3/3/2016 trên đường bay từ Washington DC đến thủ đô Manila của Philippines để tham dự một hội thảo về tranh chấp Biển Đông. Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích (1937-2016) cũng là cư dân Virginia với hai anh Tuyên và Toại, từng có lúc giữ chức Giám Đốc Đài Á Châu Tự Do. Nghĩa là, GS Bích là đàn anh văn nghệ của nhiều người lúc đó -- Giang Hữu Tuyên, Ngô Vương Toại, Nguyễn Văn Khanh và Phan Tấn Hải (nhưng rồi tôi đã về California sớm). Vỡ tim mà chết, nhiều người đã như thế.
 
      Hình dung về nhà thơ Giang Hữu Tuyên là cứ nhớ anh người hơi thấp, hơi mập, ưa cười, xuề xòa, thường nhấp nháy mắt sau đôi mặt kính, ưa mặc áo màu sáng, và dĩ nhiên là mê làm thơ. Cũng như khi hình dung về Virginia là thấy mưa tuyết. Do vậy, nghĩ tới anh Tuyên là nghĩ liền ngay tới tuyết trắng. Nghề báo mà gặp tuyết thì lặn lội rất ư là mệt. Nhưng đôi khi, bạn đọc vài câu thơ của anh Giang Hữu Tuyên, sẽ hiểu được vì sao anh mê chữ nghĩa vô cùng tận.
Như khi đọc bài thơ "Về giòng sông Trẹm" của anh Giang Hữu Tuyên:
Chinh chiến người đi như lá mục
Giòng sông kia nước đỏ thêm hoài
Máu ai chảy từ bao năm trước
Mà nối không liền được đất đai.
     Hãy hình dung về anh Tuyên, một sĩ quan Hải quân (anh Tuyên là Hải quân Trung úy và đi thoát năm 1975) ra trường quân sự là về phục vụ tại đảo Hòn Khoai, Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 4 Duyên hải, ngoài khơi mũi Cà Mâu. Rồi có mặt trong hầu hết các cuộc hành quân của Hải quân VNCH ở vùng Rạch Giá - Hà Tiên và là một trong những Tân Sỹ quan tham dự vào chiến dịch Hải quân nổi tiếng Sóng Tình Thương bình định làng Năm Căn. Nghĩa là, lặn lội trong nghề báo ở Virginia chỉ là chuyện nhỏ so với những lặn lội nguy hiểm nơi sông rạch súng đạn Miền Tây.
     Hẳn là, khi anh Tuyên nhìn thấy tuyết trắng những ngày lái xe đi giao báo, anh lại nhớ về những giòng sông quê nhà, nơi chinh chiến người đi như lá mục, nơi máu những chàng trai chảy hoài mà đất nước vẫn chưa thực sự là hàn gắn. Có thể lúc anh Tuyên làm thơ, anh đã khóc. Thực sự, tôi chưa bao giờ thấy anh Tuyên khóc (có thể tôi suy luận, khi làm thơ thì đôi khi phải khóc). Thực ra là, anh Tuyên cười hoài thôi. Anh luôn luôn nở nụ cười vì hạnh phúc (vợ anh, chị Trương Ngọc Sương, cũng ra sức gánh vác, đánh máy cho chữ đầy các trang báo cho anh).
      Anh Đặng Đình Khiết, một người hoạt động gần gũi với anh Giang Hữu Tuyên, trong bài viết "Nét Tranh Đấu Nơi Giang Hữu Tuyên" đăng ngày 19/11/2004 trên Việt Báo đã ghi nhận về một nhóm ba chàng trai cùng ra báo đấu tranh thời thập niên 1980s – trong đó, bên cạnh Giang Hữu Tuyên, Ngô Vương Toại, còn có anh Nguyễn Đình Hùng. Cũng nên ghi chú về nhà hoạt động Đặng Đình Khiết, thường được dân Việt khu vực Virginia lúc đó gọi cho gọn là Giáo sư Khiết, vì anh cũng là thầy giáo trung học ở quận Fairfax, Virginia.
      Đặng Đình Khiết kể trong bài báo:
      “…từ cuối năm 1980, thì bộ ba -- Tuyên-Toại-Hùng -- đã cùng đứng ra thành lập tạp chí Việt Chiến, một tờ báo văn nghệ mang tính tranh đấu cao, bài vở nội dung rất hay và mới, hình thức trình bày nhã và đẹp. Tờ báo đuợc nồng nhiệt đón chào trong cả hai giới đọc giả, giới thích đọc văn thơ và giới văn thơ tranh đấu. Việt Chiến tạo nên một uy tín độc đáo cho ba anh không chỉ ở vùng Hoa thịnh đốn mà còn lan ra các châu khác. Việt Chiến xuất bản đều đặn hàng tháng và ra được 12 số thì đình bản. Ngoài việc thực hiện tờ báo, nhóm bộ ba -- Tuyên-Toại-Hùng -- thỉnh thoảng còn tổ chức một số đêm sinh hoạt giới thiệu thơ văn, sáng tác mới mang tính tranh đấu của những người cộng tác với Việt Chiến. Những sinh hoạt văn nghệ tranh đấu này ít nhiều đã góp phần tạo nên không khí mang chiến đấu tính cao và làm nức lòng người Việt vùng thủ đô Hoa thịnh đốn trong nhiều năm.
      Đây cũng là lúc con người thơ ở trong GHT nở rộ với nhiều bài thơ đẹp, lấy sông nước bao la và đời sống bình dị nhưng đầy tình tự quê hương của con nguời miền Nam nước Việt làm chủ đề xây dựng. Thí dụ, bài Mầu Tím Mùng Tơi, mà gần như hễ chỗ nào GHT xuất hiện thì đều được người dự khán yêu cầu chính tác giả diễn ngâm bài thơ đó. Bài thơ mượn hình ảnh, hương vị, và mầu sắc của một bát canh mùng tơi mà mẹ già nấu cho các con của mẹ ăn thưở nào để nói lên cái nghịch cảnh đau buồn của Dân tộc Việt Nam trong cuộc nồi da xáo thịt vừa qua.
      Thời gian này Tuyên say đắm làm thơ. Có người quen kể lại rằng Tuyên làm thơ trong lúc lái xe, khi đi ngủ, và ngay cả lúc đang nấu nướng! (Hình như có một dạo anh làm cho một nhà hàng Tầu, cứ có giây phút nào nghỉ thì lại đứng ra một góc để làm hoặc sửa chữa, trau chuốt những câu thơ mới. Những năm 1983 đến 1987 tôi và một số anh em có thực hiện tờ tạp chí Xác Định (như đề cập ở trên) nên vì vậy chúng tôi liên lạc với nhau khá đều và Tuyên thường xuyên gửi thơ để anh em tuỳ nghi xử dụng. Vài ngày không gặp là sẽ nhận được điện thoại gọi từ Tuyên, để nghe Tuyên đọc vài câu hoặc một bài thơ mới làm. Tuyên say sưa đọc, đọc xong cũng chính Tuyên hồn nhiên tự bình phẩm mấy câu thơ của mình. Người nghe chưa kịp có ý kiến thì đã hòa ngay vào cái niềm vui mới đó của Tuyên.” (ngưng trích)
      Như thế, anh Tuyên say đắm làm thơ, nghĩa là làm thơ khi lái xe, khi đi ngủ, khi nấu nướng… Tuyệt vời là người như thế. Có 4 câu thơ cuối bài “Đất Gọi Người Đi” của nhà thơ Giang Hữu Tuyên được đọc trong tang lễ tiễn đưa nhà báo Giang Hữu Tuyên:
Mai này trong chuyến tàu thiên cổ
Nếu có người thương tiếc tiễn đưa
Xin hãy rắc thêm vào huyệt mộ
Chút tình hệ lụy núi sông xưa
      Trong khi đó, nhà báo kỳ cựu Phạm Trần trong bài viết nhan đề “Giang Hữu Tuyên: Người Làm Báo Đàng Hoàng” đăng trên Việt Báo ngày 19/11/2004 ghi lại một số kỷ niệm, trích:
      “…Tuyên đến với tôi cách nay trên 20 năm là một thanh niên nhiệt tình với Báo chí, chịu khó học hỏi, kiên nhẫn và muốn sống hết mình với nghề báo. Tuy xuất thân từ Phân khoa Báo chí của Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, nhưng Tuyên chưa kịp hành nghề thì đã bị gọi động viên. Anh sang Mỹ năm 1975 và làm đủ mọi nghề để nuôi gia đình, nhưng cuối cùng rồi anh cũng mon men bước vào làng báo Việt Nam ở Mỹ.
       Nếu trong lao động chân tay có những người thợ cần cù tìm mọi cách tiến thân thì trong nghề báo lại có không thiếu người thích làm ít chơi nhiều và làm giả ăn thật. Giang Hữu Tuyên, ngược lại, là một nhà báo lao động cật lực. Anh không làm báo theo kiểu theo mộng hải hồ của Sỹ quan Hải quân Giang Hữu Tuyên mà quyết chí tay làm hàm nhai và sống chết với nghề.
      Theo dõi việc làm của anh tôi thấy Chủ nhiệm Giang Hữu Tuyên phân chia công việc Toà soạn rõ ràng: Anh lo giao thiệp bên ngoài, xin quảng cáo, đọc những bài viết của thân hữu và độc giả gửi đến và làm tin Trang Nhất cho cập nhật thời sự vào trước giờ đem báo đi in (thường là chiều Thứ Năm mỗi tuần) rồi đi bỏ báo luôn cho đến mù tối và tiếp tục ngày hôm sau. Việc trong tòa báo như biên tập sổ sách, đánh máy bài, kỹ thuật trình bày các trang trong và quảng cáo thuộc về người vợ, chị Trương Ngọc Sương.
      Cứ như thế hết ngày này qua tháng khác và từ năm này qua năm kia không ngừng nghỉ. Tuyên làm báo mà khổ hơn đi làm lao động cho người khác. Anh thường ăn không ra bữa, ngủ không ra chiều và hùng hục như thế suốt cả ngày. Nếu so với hoàn cảnh của thời kỳ tôi làm báo ở Sài Gòn trước năm 1975 thì Tuyên khổ sở hơn anh em chúng tôi nhiều lắm. Mọi việc của tờ HTĐVB từ A đến Z chỉ do vợ chồng anh lo liệu. Họ khéo ăn thì no, khéo co thì ấm, không trông cậy vào ai được.” (ngưng trích)
 
       Khi anh Giang Hữu Tuyên từ trần (tháng 11/2004), anh Ngô Vương Toại cũng đã kể lại nhiều kỷ niệm qua bài "Từ Việt Chiến Đến Hoa Thịnh Đốn Việt Báo" ngày 19/11/2004 trên Việt Báo để tưởng nhớ anh Giang Hữu Tuyên, trích như sau:
      "Vào thời gian đó cách đây hơn 20 năm, chúng tôi đều còn trẻ. Câu chuyện nói với nhau có lẫn vào trong đó nhiều giấc mộng, nhiều hoài bão nên nói năng với nhau một cách say sưa. Càng nói chuyện tôi càng tâm đắc, thấy ở Tuyên một ngọn lửa nhiệt tình, một sự thành thật rất miền Nam, một sự sôi nổi kích thích hiếm thấy của một con người vốn là một thi sĩ, tác giả của những bài thơ thắm thiết lúc nào cũng bám lấy ruộng đồng quê hương, lúc nào cũng đầy tràn tình yêu nước, yêu người.
     Tuyên cho tôi những phấn chấn cần thiết. Tuy thế, tôi đã nhìn ra hòan cảnh khó khăn, tôi cố gắng thảo luận chừng mực để Giang Hữu Tuyên, Nguyễn Đình Hùng giảm chế sự cao hứng khi nói về việc làm báo. Cuộc họp mặt đầu rủ rê nhau làm báo không thành, sau khi cả ba chúng tôi đối chiếu một số thực tế. Tuyên và Hùng ra về sau buổi họp mặt đầu.
     Nhưng cả hai rất bền bỉ. Lần đầu không được, họ tiếp tục đến gặp nhiều lần khác. Cả hai đều gốc quân nhân, cả hai tâm hồn đều đẹp và lý tuởng. Cả hai đều thấy sự cần thiết phải cất tiếng lên cho những anh em đang nằm trong các trại cải tạo, của đồng bào khổ đau bị trói cuộc đời trong hầm tối mà như thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đã gọi tên là ‘Hầm tai vạ’ trong chế độ nghiệt ngã trên đất nước.
     Vào thời gian đó, ngoài việc bơi chải cố ổn định sinh kế, tôi còn có trách nhiệm đối với Hội Nhân Quyền Vùng Hoa Thịnh Đốn, với những cuộc lên đường xuống đường đấu tranh cho nhân quyền ở quê nhà, còn khom lưng mỗi tối viết biểu ngữ, họp hành đoàn thể, nhiều điều vướng vít. Nhưng tôi bị giao động mạnh trước tâm tình của hai người bạn . Tôi xuôi lòng trước các đốc thúc của Tuyên và Hùng. Cuối cùng chúng tôi quyết định làm việc với nhau, dựng nên tạp chí Việt Chiến.
     Chúng tôi bàn đến mọi khía cạnh về việc ra báo. Nhiêu khê nhất vẫn là tiền vốn để in báo. Tuyên và Hùng gom góp tiền để dành từ những ngày lao động cũng chỉ được một số vốn khiêm tốn để có thề đồ vào việc in ấn, cho nên cho dẫu có nghĩ đến hình thức tuần báo, bán nguyệt san cũng thấy gian nan. Sau nhiều cuộc bàn thảo, tờ báo được quyết định ra đời dưới hình thức nguyệt san để tiết kiệm tổn phí, giảm bớt tiền in. Tuy suy nghĩ lúc đầu của bộ ba chứng tôi là làm tờ tuần báo tin tức, nhưng rút cục, chúng tôi thu hẹp phạm vi tờ báo vì hai lý do: tin tức về Việt Nam rất cần thì vào lúc đó chính sách bưng bít ở quê nhà đã khiến về mặt tin tức, họa hoằn lắm mới xuất hiện trong các bản tin viễn ấn hay trên báo chí Mỹ có thể luộc lại được.
     Hai mươi năm trước, không có Internet, không có Web page, không có bàn máy Computer, tin đã hiếm mà khi làm xong còn bị nguội thì nhảm quá, nên anh em chúng tôi quyết định làm một tạp chí văn chương. Lý do thứ hai là vốn ban đầu của tờ báo này chỉ có chưa tới 3.000 đô la.
     Chúng tôi hiểu rõ giá trị của văn học, tác dụng của văn chương trong hoàn cảnh lưu vong. Chúng tôi hiểu khả năng giữ lửa cho nhau của những ngòi bút đang tản lạc khắp bốn phương trời. Chúng tôi quan niệm, đứng trước đứa trẻ đang thiếu ăn, quê hương đang điêu linh, văn chương hoa mỹ không thích hợp và bất lực trước nghịch cảnh, nên chấp nhận lấy tên cho tờ báo là Việt Chiến, và chủ trương nó phải là tạp chí Văn Chương Dấn Thân, tiếp tục một cuộc chiến cho nhân quyền, tự do và dân chủ tạI Việt Nam.
Giai đọan đó, chúng tôi hy sinh một phần lớn quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật, mà chú trong đến khía cạnh nghệ thuật vì nhân sinh, đáp ứng nhu cầu thúc bách của con người. Tạp chí Việt Chiến trổ hoa. Các nhà văn nhà thơ từ góc biển chân trời tụ về khá đông trên diễn đàn này.
      Công việc của nhóm chủ trương được phân công mau chóng, Tuyên lo mặt ngoài, củng cố xương lưng cho tờ báo, lo phần trị sự, quảng cáo. Tôi được giao phần nôi dung, kêu gọi đóng góp bài vở, viết và viết. Hùng lo phần kỹ thuật cho tờ báo. Tạp chí đề giá một đô la ruỡI, số in giới hạn nhưng phát hành rộng khắp nước Mỹ với vọng nó tới tay những người đồng điệu, tạo nên một lớp sóng mới phấn đấu cho mục tiêu chung: cởi trói cho đồng bào ở quê nhà.
     Tạp chí được hưởng ứng, số ngừơi đóng góp bài vở càng lúc càng đông, nhưng báo bị thất thu về mặt tài chánh trong khi tiền in không theo kịp. Sau số báo Tết năm 1983, báo bị đình bản." (ngưng trích)
 
      Thời các anh còn trẻ, rồi tới thời các anh già hơn, rồi tới những ngày các anh lần lượt ra đi. Những trang báo mở ra, rồi gấp lại. Một bài thơ thường được nhắc tới của anh Giang Hữu Tuyên là bài “Trời Mưa Đi Phát Báo” --- để hiểu về hoàn cảnh, thời đó không có báo mạng, chưa có máy điện toán, dấu chữ Việt còn phải bỏ thêm bằng tay, tối tân nhất là máy fax. Điện thoại lúc đó là điện thoại có dây, điện thoại để bàn, chưa hề có điện thoại không dây. Do vậy, nghề báo là phải đưa các xấp báo giấy đi phát hành. Khi gặp mưa, gặp tuyết là thê thảm, nhưng không thể trễ phát hành được. Nhưng anh Giang Hữu Tuyên luôn luôn giữ được hồn thơ trong đời sống. Anh đã để lại nhiều hình ảnh thơ mộng trong cả cuộc đời lẫn thi ca. Bài thơ sau đây mang tính điển hình về ngôn ngữ của ông, cũng là bài ghi lại tấm lòng của một nhà báo lúc nào cũng nhìn về quê nhà - khi lội mưa đi phát báo nơi xứ người, mà trong tim vẫn ướt đẫm những mưa mùa quê cũ.
 
TRỜI MƯA ĐI PHÁT BÁO
 
Chiều ngã năm đường năm bẩy ngã
Ngã nào cũng ướt giọt mưa rơi
Bao mùa mưa đã im giông bão
Sao nước trường giang vẫn khứ hồi
.
Mười mấy năm làm tên phát báo
Lòng buồn theo thành quách xa xưa
Những trang tin dội từ quá khứ
Rớt ngập ngừng cùng những hạt mưa
.
Mưa lót ngót đời loi ngoi mãi
Sáng chưa đi, chiều lại mưa về
Mưa ngã năm từ năm bẩy ngã
Ngã nào cũng mưa và mưa thôi
.
Xấp báo trên tay vừa ướt hết
Vậy mà cứ đứng dưới mưa bay
Hình như những mùa mưa thưở trước
Đang về làm ướt trái tim ai.
     --- Thơ Giang Hữu Tuyên
 
     Tương tự với nhà thơ Giang Hữu Tuyên, dễ thấy nơi nhà báo Ngô Vương Toại: Lòng yêu nước và đam mê với nghề báo là các điểm nổi bật trong đời của anh Ngô Vương Toại. Hình ảnh nhà báo Ngô Vương Toại lại đi từ một chân trời khác: hoạt động chống cộng từ thời còn là sinh viên tại Sài Gòn, bị đặc công VC ám sát, bắn gục, may còn sống. Nhưng nhiệt tâm yêu nước vẫn thúc đẩy anh Ngô Vương Toại vào nghề báo, từ báo giấy cho tới báo truyền thanh. Nhà báo Ngô Vương Toại đã từ trần vào rạng sáng Thứ Năm ngày 3 tháng 4-2014 tại nhà thương Fairfax, Virginia sau một thời gian dài chống trả với chứng "suy gan". Nhà báo Ngô Vương Toại sinh ngày 12 tháng 4/1947 tại Thanh Hóa, theo đạo Công Giáo, tên Thánh là Raphael. Lập gia đình với chị Nghiêm Thị Lan, có 3 con (2 trai, một gái).
     Ngô Vương Toại tốt nghiệp đại học ở Sài Gòn (1970), có một thời gian đi dạy học, thí dụ như dạy ở Trường Trung Học Minh Tân (Biên Hòa). Bắt đầu làm báo từ năm 1967 đến 1973, viết cho tờ Lập Trường (Vũ Tài Lục), Sống, Đời, Sóng Thần (Chu Tử/Trùng Dương), Tin Sống (Phùng Thị Hạnh), Tìm Hiểu (Phan Lam Hương), viết cho một số tờ khác như Tranh Đấu, Quyết Tiến, Quật Cường, Độc Lập. Từ 1973 đến 1975, anh Toại làm ở Trung Tâm Dân Vụ (National Press Center), lúc đó GS Nguyễn Ngọc Bích là Trung Tâm Trưởng.
     Sang Hoa Kỳ, anh trở lại nghề báo hồi 1977, viết cho tờ Việt Báo của Cha Trần Duy Nhất. Đây là tờ báo tiếng Việt đầu tiên ở Washington D.C. Cũng trong thời gian này, anh nhận lời cộng tác với Hồn Việt, Người Việt (California), và nhiều tờ khác nữa như Độc Lập ở Đức, Dân Quyền ở Canada… Năm 1979, anh cùng với anh Giang Hữu Tuyên và anh Nguyễn Đình Hùng quyết định lập và cùng trông coi tạp chí Việt Chiến. Sau một thời gian vài năm, tạp chí này đình bản. Anh sang cộng tác với tờ Hoa Thịnh Đốn Việt Báo (Giang Hữu Tuyên). Đến 1985, anh Ngô Vương Toại lập tờ Diễn Đàn Tự Do. Khởi đầu đây là tờ bán nguyệt san nhưng từ năm 1994, trở thành tờ tuần báo. Khi nói chuyện với người ngoại quốc, anh gọi tờ báo này là “Freedom Forum”.
      Giữa tháng Giêng 1997 anh bắt đầu làm việc với Á Châu Tự Do (RFA), hai tháng sau đó quyết định đình bản tờ Diễn Đàn Tự Do vì không có thì giờ chăm sóc. Anh có nói là kiếm người giúp để tờ báo tiếp tục sống “nhưng tìm không ra”. Đầu tháng 11 năm 2005 anh nghỉ việc (RFA) vì lý do sức khỏe.
      Trước 1975, trong thời gian làm ở Trung Tâm Dân Vụ, anh Ngô Vương Toại phụ tá GS Nguyễn Ngọc Bích tổ chức chuyến đi của các nhà báo quốc tế ra thăm Côn Đảo để chứng minh chuyện các “chuồng cọp” (Tiger cages) của Don Luce là bịa đặt. Thí dụ, Luce viết rằng chuồng cọp dưới hầm, thực ra là phòng giam trên mặt đất, có gió vào khá mát mẽ, không hề là “cũi giam” vì trần cao 2m50, có đứng đưa tay với cũng không tới trần nổi.
      Anh Ngô Vương Toại nổi tiếng xông xáo từ thời sinh hoạt sinh viên thập niên 1960s, đặc biệt là khi ông khi Tổ Ám Sát của Việt Cộng bắn lủng ruột ngay trên sân khấu một buổi ca nhạc đang trình diễn với nhạc sĩ Trịnh Cộng Sơn và ca sĩ Khánh Ly tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn -- thời điểm ám sát này là tháng 12-1967, một tháng trước cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân mà VC nhận chìm cả nước vào biển máu. Nhà báo Ngô Vương Toại thoát chết và đã trở thành một biểu tượng chống cộng mới cho tuổi trẻ Sài Gòn, những người không chấp nhận chế độ Cộng Sản.
      Anh Ngô Vương Toại bắt đầu bị tai biến mạch máu não từ tháng 9-2005, trong vòng một năm 4 lần vào bệnh viện, nhưng vẫn mong mỏi sống cho tới ngày đất nước thực sự được tự do dân chủ. Trong cuộc phỏng vấn tháng 4-2006, anh Ngô Vương Toại cho biết lúc đó đang theo lời khuyên của bác sĩ về các pháp trị liệu, trong đó ông đang vẽ tranh bằng các loại màu sơn dầu (oil) và acrylic. Và cho biết, “Ngô Vương Toại sẽ viết một cuốn hồi ký kể lại những ngày hoạt động sinh viên thập niên 1960s và 1970s, và cả khi trực diện với các sinh viên trong Tổ Ám Sát VC từ trong lớp, giữa sân trường, và ngoài đường phố Sài Gòn.”
 
      Nhà báo Nguyễn Tuyển trong bài viết nhan đề "Ngô Vương Toại, Một Người Mê Làm Báo (12/04/1947 - 03/04/2014)" đăng trên Việt Báo ngày 4/4/2014, ghi nhận một số kỷ niệm về anh Ngô Vương Toại, trích:
     "Tôi biết Ngô Vương Toại ở những năm còn lê la trên sân trường Đại Học Văn Khoa ở Sài Gòn. Thời đó, trường Đại Học Văn Khoa còn nằm trên đường Nguyễn Trung Trực. Số sinh viên ngày mỗi đông hơn mà cơ sở, giảng đường thì giới hạn, chật hẹp. Các lớp dự bị (tức năm đầu tiên, học một số môn tổng quát. Nếu đậu, được ghi tên học các loại chứng chỉ chuyên biệt cho từng môn) quá đông đảo phải sử dụng khu nhà “tiền chế” trên bãi đất trống (vốn là nền nhà tù của Sài Gòn thời Pháp đô hộ bị phá bỏ).
      Nhưng những năm từ 66, 67, các lớp dự bị được dời lên trường sở mới trên đường Cường Để là khu đại học chung với Dược Khoa, Nông Lâm Súc. Khu nhà tiền chế (vốn được xây dựng bằng những vật liệu nhẹ trình bày cách xây dựng nhà mới của Hoa Kỳ, cho một hội chợ) được sử dụng làm khu sinh hoạt sinh viên. Trên đó, một căn (ở giữa) được sử dụng làm trụ sở Ban Đại Diện Sinh Viên Đoàn. Một căn dài làm trụ sở Chương Trình Sinh Hoạt Thanh Niên Học Đường (gọi tắt là CPS). Một căn làm trụ sở Ban ấn loát, phát hành các tập giảng khóa cho sinh viên. Hội Họa Sĩ Trẻ xin được một căn nhỏ, đồng thời một căn dành cho Đoàn Văn Nghệ sinh viên học sinh Nguồn Sống.
      Ngô Vương Toại cùng một số bạn đã gom góp ít tiền dựng một mái nhà tôn, vách tre đan, trống trải huếch hoác làm một quán cà phê gọi là “Quán Văn”. Đây là chỗ tụ tập của bạn bè sinh viên trước hay sau giờ học, hoặc vào những lúc không có lớp, ngồi tán dóc, hay bàn chuyện học hành. Cuối tuần có các sinh hoạt văn nghệ bỏ túi. Nếu có những buổi sinh hoạt dự trù rất đông người tới dự thì tổ chức ngay trên bãi cỏ rộng.
      Sự nghèo nàn thô sơ của khung cảnh nhưng lại quyến rũ được rất nhiều người không riêng gì giới sinh viên. Những người như danh ca Thái Thanh cũng từng tới đó hát cho sinh viên nghe hay nhạc sĩ Phạm Duy trình bày những sáng tác mới nhất của ông. Khánh Ly được mệnh danh là “nữ hoàng chân đất” và nổi tiếng từ đây khi đem giọng hát mệt mỏi rã rời trình bày các ca khúc Trịnh Công Sơn.
      Một buổi tối, tôi được tin Toại bị bắn, không biết sống chết ra sao. Khi Toại bị bắn, lúc đó tôi đang làm phóng viên cho Đài Phát Thanh Sài Gòn, và không có mặt.
      
     Hoàng Xuân Sơn, người cùng Toại tổ chức Quán Văn, có mặt và đứng gần Toại buổi tối ngày 16/12/1967 khi bọn họ tổ chức cho Khánh Ly hát nhạc Trịnh Công Sơn tại giảng đường mới (đường Cường Để) và bị bắn.
      Nhà thơ Hoàng Xuân Sơn (hồi đó cũng là sinh viên Văn Khoa) tường thuật lại vụ bắn trong một hồi ký như sau: “Giờ giải lao, xuất hiện một đôi nam nữ ăn bận khá lịch sự từ từ tiến lên diễn đàn. Nam: quần màu sậm, sơ mi trắng, tay thọc túi quần. Nữ: áo dài xanh lá mạ, đeo kính gọng xếch mắt mèo, tay ôm một chiếc cặp lớn, căng phồng. Ngô Vương Toại đang ở trên sân khấu nói qua về công việc bầu bán ban đại diện sinh viên văn khoa sắp tới.
      Nam ngỏ ý xin được góp lời. Nữ đứng sát bên kéo khóa mở cặp. Và rồi trờ tới. Trờ tới nguyên văn: “Xin tất cả anh chị em yên chí. Chúng tôi đã bố trí chung quanh cả rồi – Hôm nay, nhân ngày kỷ niệm 7 năm thành lập Mặt trận Giải phóng Miền Nam...”
      Cái gì mặt trận!? Nam nói chưa dứt câu, Toại phản ứng lẹ như chớp; nhanh tay giật lại micro: “Ẩu nà, câm mồm!...” Quát: “Đứng im!” Và đoàng đoàng, hai phát súng nổ liên tiếp. Tôi hoa mắt thấy thân hình Toại văng bật vào tường dưới bảng đen. Nhiều phát súng nổ liên tiếp sau đó. Nguyễn Văn Tấn tự Tấn Mốc cầm chiếc ghế nhào lên cứu bạn. Và rồi cũng ăn đạn vào chân té qụy xuống bục sau đó.” (Hoàng Xuân Sơn. Chạm Mặt Tử Thần. damau.org).
 
     Một bạn khác của Toại kể rằng đầu tiên, Toại được bạn bè và một khán giả là sĩ quan hải quân đến nghe hát đưa vào bệnh xá của Hải Quân Công Xưởng cấp cứu vì nơi đó gần nhất. Tuy nhiên, vì không có các trang bị giải phẫu nên Toại được sơ cứu và chuyển gấp đến bệnh viện Bình Dân.
     Theo lời kể của Nguyễn Văn Tấn bút hiệu Cao Sơn (bạn bè đặt tên là Tấn Mốc, qua đời ở San Jose cuối năm 2013) với người viết bài này cách đây mấy năm. Tấn là một nhân viên của Phủ Đặc Ủy Tình Báo VNCH, có trách nhiệm theo dõi hoạt động của giới sinh viên. Cũng bị trúng đạn trong vụ bắn nhưng vết thương rất nhẹ ở chân, Tấn được lệnh bảo vệ an toàn cho Toại ở bệnh viện. Một đêm có kẻ lạ mặt vào phòng Toại nằm trị thương rút súng bắn nhưng Tấn nhanh tay hơn, rút súng bắn trước nên hạ được tên VC được lệnh giết Toại cho chết luôn. Nhiều truyền đơn của VC rải ở một số trường đại học lên án tử hình một số sinh viên, tham gia Liên Minh Á Châu Chống Cộng, trong đó có tên Ngô Vương Toại. Nếu không có Tấn Mốc nhanh tay và bình tĩnh phản ứng, có lẽ Toại đã bị chúng giết chết từ ngày đó." (ngưng trích)
 
      Nhà báo Phạm Trần, trong bài viết nhan đề “Ngô Vương Toại, Một Thời Khó Quên (12/04/1947–03/04/2014)” đăng trên Việt Báo ngày 04/04/2014 đã kể về anh Toại, trích:
      “…Khi làm cho đài Phát thanh Á Châu Tự Do ở Hoa Thịnh Đốn trước khi nghỉ hưu thì bút hiệu Phạm Điền đã được Tọai sử dụng. Ngô Vương Toại là người mê làm báo hơn nhiều ông bà Chủ nhiệm các báo nhận anh làm phóng viên. Toại còn là người bạn của bạn mình và của mọi người không phân cấp. Và không ai có thể buồn một người lúc nào cũng nhoẻn miệng cười tươi thân thiện, kể cả những lúc sức khỏe của Toại đã tàn dần trên khuôn mặt của chứng suy yếu gan.
       Mới tháng 7 năm 2013, khi Ký giả Lê Thiệp, bạn của Toại qua đời, cựu Ký giả Việt Nam Thông tấn xã Trần Công Sung từ Pháp qua đưa đám đã bông đùa với các bạn ngay tại Nhà quàn: ”Cậu Toại tuy yếu đấy nhưng còn lâu mới đi dược. Cậu đã qua nhiều phen nên chai rồi.”
      Toại cười rộ lên chêm vào: ”Tôi đã quá đát rồi!”
      Cũng với thái độ sống lạc quan này đã đưa Toại vào làng báo Việt Nam ở Hoa Kỳ. Vào năm 1983, Toại đã bỏ “làm công cho chủ Building Mỹ” để cùng làm báo chung với Thi sỹ qúa cố Giang Hữu Tuyên trên Tuần báo Hoa Thịnh Đốn Việt Báo. Vài năm sau Toại một mình “ra quân” với Bán Nguyệt báo Diễn Đàn Tự Do nhưng cũng chỉ cầm cự được một số năm vì Toại không có khiếu làm Chủ báo. Tuy sống ngắn nhưng Diễn Đàn Tự Do cũng đã để lại cho độc giả ở mọi nơi, đặc biệt vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn nhiều kỷ niệm rất đáng trân qúy với nội dung đứng đắn, thông tin trung thực và các buổi “Đêm Diễn Đàn Tự Do” với nhiều khuôn mặt văn nghệ lớn thời Việt Nam Cộng Hòa.
      Cuộc sống của Ngô Vương Toại là một thời khó quên vì tên anh đã gắn liền với những thăng trầm của cuộc chiến Quốc-Cộng ở Sài Gòn thời 1967. Khi sống tị nạn ở Mỹ, có lẽ ít người còn nhớ đến tờ Diễn Đàn Tự Do nhưng không ai có thể quên được hình ảnh một Ngô Vương Toại đã gắng sức vịn vào chiếc Walker đi hàng đầu trong đoàn biểu tình của một ngày tưởng niệm 30/4 ở Thủ đô Hoa Thịnh Đốn.”(ngưng trích)
 
Tấm hình độc đáo trong bài “Ngô Vương Toại, Một Thời Khó Quên
(12/04/1947–03/04/2014)” của nhà báo Phạm Trần: nhà báo Ngô Vương Toại
gắng sức vịn vào chiếc Walker đi hàng đầu trong đoàn biểu tình của một ngày
tưởng niệm 30/4 ở Thủ đô Hoa Thịnh Đốn.
 
     Nhớ tới hai anh Giang Hữu Tuyên và Ngô Vương Toại, cảm xúc của tôi miên man vì xúc động. Bài trên Cỏ Thơm Magazine không viết chi tiết về hai anh Giang Hữu Tuyên và Ngô Vương Toại. Nhưng dịp này, xin ghi lại một số hình ảnh độc đáo của hai nhà báo tiên phong ở Virginia, cũng là hai người đàn anh trong nghề báo. Tôi đã học ở hai anh rất nhiều. Rất là nhiều, không kể xiết, nhiều hơn những gì có thể kể lại. Đó là một thời tôi còn lạ đất, lạ người. Nơi đây, xin làm vài dòng thơ tiễn hai anh:
 
KHÔNG THẤY ĐÂU NHÀ
--- nhớ 2 anh Giang Hữu Tuyên, Ngô Vương Toại
 
Nhớ nhau giữa trời mưa tuyết
chim kêu buồn mấy dặm xa
chép lại dòng thơ từ biệt
bốn phương không thấy đâu nhà.
.
Nhớ thời lội mưa giao báo
ngã năm, ngã bảy mịt trời
lối nào mà không ướt áo
lạnh ơi giấy mực quê người
.
Nhớ người dòng thơ rất lạ
nhớ người đạn bắn không đau
cùng đi xứ người nắng hạ
mà thương quê mẹ vườn rau
.
Nhớ ơi đường xa sông núi
viết lên muôn tiếng ngàn lời
mưa chữ khắp trời như suối
lối nào cũng ngập buồn ơi.
Phan Tấn Hải
6/2021
 
GHI CHÚ: Cỏ Thơm Magazine có trang nhà ở https://cothommagazine.com/ Trong ấn bản tháng 6/2021, một chủ đề chính là tưởng niệm họa sĩ Bé Ký (1938-2021) với hai bài viết đặc biệt về họa sĩ Bé Ký của nhà báo Vương Trùng Dương và nhà phê bình hội họa Huỳnh Hữu Ủy. Trong ấn bản đặc biệt này, cũng có nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng khác, trong đó có bài của GS Nguyễn Văn Sâm, truyện ngắn Tràm Cà Mau…
 
 

Tuesday, June 29, 2021

CẢM ƠN EM CÓ MẶT TRỜI TRONG TA

Hải Phương

Chân dung Quận. Trương Thị Thịnh vẽ
 
        *Kỷ niệm 22 tháng 6 ngày cưới của Queen
 
Từ khi em là mùa màng
ruộng lúa ở chỗ đầu làng trỗ bông
từ khi em là giòng sông
ở chỗ giáp biển sóng cuồng  lên cao.
 
Từ khi em biết đếm sao
mẹ trồng cây cải mưa rào tháng giêng
mẹ may áo mới cho riêng
đôi xuyến đề sẵn, cây kiềng em mang.
 
Từ khi em là mùa màng
nếp nhà nếp đất hồng nhan tính trời
sắc màu vời vợi thổ ngơi
Cảm Ơn Em Có Mặt Trời Trong Ta.
 
Đường bay từ bước chân ra
mùa xuân con én rộng tà áo thơ.
 
H   A   Ỉ       P   H   Ư  Ơ    N  G 
khi ở silicon valley thời 5G làm thơ tặng  QUEEN
June 22 /2021. 

Sunday, June 27, 2021

GIA ĐÌNH BÁCH KHOA VÀ MỘT LÊ NGỘ CHÂU KHÁC

Ngô Thế Vinh
 
Hình 1:Lê Ngộ Châu sống và làm việc ngay tại toà soạn Bách Khoa,
160 Phan Đình Phùng Sài Gòn. Trước và sau 1975, chưa ai được nghe
anh Lê Châu kể lể về những tháng năm thăng trầm với tờ báo Bách Khoa.
Tranh luận về “công lao Bách Khoa” nếu có, là từ bên ngoài, và không là mối bận tâm của
Lê Châu.[tư liệu Ngô Thế Vinh, hình chụp 05/03/1984]
 
TIỂU SỬ LÊ NGỘ CHÂU
    Tuổi Quý Hợi, sinh ngày 30/12/1923 tại làng Phú Tài, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam vùng đồng bằng sông Hồng. Có thời gian theo kháng chiến chống Pháp. Tới năm 1951 Lê Ngộ Châu hồi cư về Hà Nội, dạy học, làm hiệu trưởng một trường trung học tư thục ở tuổi 29. Di cư vào Nam 1954, gia nhập Hội Văn hoá Bình dân với một hệ thống Trường Bách khoa Bình Dân ở các tỉnh miền Nam và Hội VHBD có xuất bản một nội san với tên Bách Khoa Bình Dân.
 
LỊCH SỬ BÁO BÁCH KHOA
     -- 1957 một tạp chí có tên Bách Khoa do hai ông Huỳnh Văn Lang, Hoàng Minh Tuynh sáng lập, xuất bản mỗi tháng hai kỳ, với quan niệm là: “Diễn đàn chung của tất cả những người tha thiết đến các vấn đề Chính trị, Kinh tế, Văn hoá, Xã hội.”
     Nguồn tài chánh ban đầu của Bách Khoa là do đóng góp của một nhóm 30 người, gồm những nhà giáo, nhà báo, chuyên viên hay công tư chức cao cấp thời bấy giờ; mỗi người góp 1.000 đồng (lương tháng hàng giám đốc lúc đó khoảng 5.000 đồng) , tổng cộng được 29.500 đồng, một số tiền phải nói là khá lớn (theo TS Phạm Đỗ Chí, thì 1 US$ = 35 VN$ và số tiền ấy tương đương với hơn 20 lạng vàng theo thời giá 1957 lúc bấy giờ). Tên của họ được in nơi bìa sau của những số báo Bách Khoa giai đoạn đầu, có thể kể: Lê Đình Chân, Tăng Văn Chỉ, Đỗ Trọng Chu, Lê Thành Cường, Trần Lưu Dy, Lê Phát Đạt, Nguyễn Văn Đạt, Nguyễn Lê Giang, Phạm Ngọc Thuần Giao, Nguyễn Hữu Hạnh, Lê Văn Hoàng, Nguyễn Văn Khải, Phạm Duy Lân, Nguyễn Quang Lệ, Trần Long, Bùi Bá Lư, Dương Chí Sanh, Nguyễn Huy Thanh, Bùi Kiến Thành, Hoàng Khắc Thành, Phạm Ngọc Thảo, Bùi Văn Thịnh, Nguyễn Tấn Thịnh,Vũ Ngọc Tiến, Võ Thu Tịnh, Nguyễn Tấn Trung, Phạm Kim Tương, Hoàng Minh Tuynh, Bùi Công Văn. (Chỉ có 29 tên, một người đóng 500 đồng, không được nêu tên trong danh sách này). [5]
 
     Có tác giả cho rằng nhóm 30 người đó họ chỉ góp tiền chứ “không tham gia viết lách gì cho Bách Khoa” điều này không hoàn toàn đúng, vì chúng ta có thể thấy ngay từ mấy số đầu Bách Khoa đã có các bài viết mà tác giả cũng có tên trong danh sách những người góp vốn cho Bách Khoa như: Phạm Ngọc Thảo (Thế nào là Quân đội mạnh, BK số 1), Hoàng Minh Tuynh (Nên để trẻ được tự do hay nên nghiêm khắc với trẻ), Bùi Văn Thịnh (Một giai đoạn mới chính sách kinh tế, BK số 1 & 2], Đỗ Trọng Chu (Trung cộng tấn công Hoa kiều ở Đông Nam Á, BK số 2), Phạm Duy Lân (Bao giờ trời lại sáng, BK số 3, Chiến tranh tương lai, BK số 24), Nguyễn Huy Thanh (Vấn đề tài trợ những tiểu xí nghiệp, BK số 3, Quỹ tiết kiệm, BK số 5), Tăng Văn Chỉ (Quân bình giá vật, một biện pháp tạm thời và rất cần để chấn hưng kinh tế, BK số 6), Võ Thu Tịnh (Tìm hiểu quốc cơ: Pantja Sila của cộng hoà Nam Dương, BK số 7)…
 
     Chủ nhiệm ban đầu của Bách Khoa là Huỳnh Văn Lang, sinh ngày 26/7/1922, hơn Lê Ngộ Châu một tuổi, gốc người Nam quê ở Trà Vinh, vùng đất cực nam hạ lưu song Cửu Long, là con một đại điền chủ giàu có, trong một gia đình Thiên Chúa giáo toàn tòng, từng được du học Pháp, Canada và Mỹ rất sớm, HVL được ông Ngô Đình Diệm mời về và là nhân vật số 2 của đảng Cần Lao với chức danh Tổng bí thư Liên Kỳ Bộ Nam Bắc Việt, là một đảng của chính quyền thời bấy giờ. Do HVL lúc đó đang làm Giám đốc Viện Hối Đoái, nên tờ báo Bách Khoa có những thuận lợi, dễ dàng lấy được nhiều trang quảng cáo đắt giá từ các ngân hàng, và các công ty thương mại lớn như Shell, BGI, Air Vietnam, Air France… nên trong mấy năm đầu, với sẵn một số vốn lớn và có tiền quảng cáo hàng tháng, báo Bách Khoa có khả năng sống độc lập về tài chánh.
 
Hình 2: Bách Khoa số 1, mẫu bìa trước rất đơn giản,
chỉ là Mục lục các bài viết, bìa sau là danh sách tên 29 người đóng góp tiền
mỗi người 1.000 đồng, có một người đóng 500 đồng,tổng cộng được 29.500 đồng,
là số vốn khá lớn khởi đầu cho tạp chí Bách Khoa. Không chỉ góp tiền, một số còn
viết bài cho Bách Khoa. [5]
 
     Theo ông Huỳnh Văn Lang thì: “Người thư ký toà soạn ban đầu của Bách Khoa là bà Phạm Ngọc Thảo hay Phạm Thị Nhiệm, là em gái của GS trường Petrus Ký Phạm Thiều đã tập kết ra Bắc. Bà Phạm Ngọc Thảo là người đã mời được một số cây bút cộng tác ban đầu cho Bách Khoa như học giả Nguyễn Hiến Lê, BS Nguyễn Văn Ba, BS Dương Quỳnh Hoa và nhứt là nhà văn Nguiễn Ngu Í, rồi chính anh Nguiễn Ngu Í, đã giới thiệu thêm Bùi Giáng, Nguyễn Thị Hoàng và nhiều tác giả khác. Bà Thảo cũng có viết một ít bài trong các số báo đầu với bút hiệu là Minh Phong.” [6]
 
     Như vậy, trong khoảng năm đầu 1957-1958, Lê Ngộ Châu chưa thực sự có vai trò quan trọng trong toà soạn báo Bách Khoa. Nhưng rồi sau này, phải tới Số Kỷ niệm Mười năm, Bách Khoa 241-242 [15/1/1957-15/1/1967], chúng ta mới biết đích thực được ngọn nguồn của tờ Bách Khoa. Ngay nơi trang mở đầu, sau khi nhắc lại mấy câu thay lời phi lộ trên số Bách Khoa số ra mắt, có lẽ không ai khác hơn là Lê Ngộ Châu trong vai chủ nhiệm thay thế ông Huỳnh Văn Lang đã viết những dòng chữ như sau và ký tên Bách Khoa Thời Đại:
 
      “Hồi ấy chiến tranh chấm dứt từ lâu, tiếng súng bình định ở một vài địa phương không còn nữa, Quốc hội Lập hiến được bầu, Hiến pháp đương soạn thảo, những người có nhiệt tâm thiện chí ai cũng náo nức muốn đem trí óc, sức lực của mình cố gắng làm cho miền Nam tự do thực giàu mạnh, phương sách hiệu quả nhất để ngăn ngừa cộng sản nảy nở và xâm nhập. Một nhóm anh em gồm một số trí thức, nhà văn, nhà báo, nhà giáo, công tư chức, trong trào lưu hăng say đó, cũng muốn có một diễn đàn độc lập để góp ý với chính quyền, bày tỏ nhận xét, cảm nghĩ của mình trong công cuộc hàn  gắn vết thương chiến tranh và phục hưng xứ sở. Diễn đàn ấy, tạp chí với ý hướng ấy, xin xuất bản trong nửa năm trời mà vẫn không được phép. Về sau đành phải mượn lại giấy phép một nội san của Hội Văn Hoá Bình Dân – tờ Bách Khoa Bình Dân – nên vì vậy tờ báo của quý bạn mới mang danh hiệu Bách Khoa và mãi tới ngày 15/1/1957 mới ra mắt bạn đọc được.”
 
       Và như vậy đã rất rõ, đâu là cội nguồn của tờ báo, Bách Khoa đã phải khởi đầu bằng giấy phép của một “nội san” thuộc Hội Văn Hoá Bình Dân.
 
      Sự kiện nhóm sáng lập Bách Khoa, trong suốt nửa năm mà không xin được giấy phép ra báo – khi mới bước vào năm thứ hai của nền đệ Nhất Cộng Hoà, đã hé lộ ra ý hướng của một  nền “dân chủ tập trung” của chính quyền thời bấy giờ  và hầu như được mọi người chấp nhận – và cũng còn quá sớm để nói tới manh nha một chế độ độc tài về sau này.
 
— 1957, địa chỉ ban đầu của toà soạn Bách Khoa là 55 Bà Huyện Thanh Quan, Phòng 42, Sài Gòn, địa chỉ thứ hai là nhà in Văn Hoá cũng là nơi in báo Bách Khoa, 412-414 Trần Hưng Đạo, Sài Gòn,và phải từ số báo 40 (1/9/1958), Bách Khoa mới chính thức có một toà soạn:160 Phan Đình Phùng, Sài Gòn, được coi như một địa chỉ dấu ấn / landmark lâu dài nhất của Bách Khoa trong lịch sử báo chí miền Nam.
 
— 1958, khi Huỳnh Văn Lang đi tu nghiệp ở Mỹ, Lê Ngộ Châu được ông Hoàng Minh Tuynh – lúc đó đang làm Phó Giám đốc Viện Hối Đoái, giới thiệu với chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang vào làm cho Bách Khoa như một thư ký toà soạn. Trên thực tế từ đây, Lê Ngộ Châu là người trực tiếp điều hành tờ Bách Khoa, cho dù chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang vẫn đứng tên.
 
— 1963, sau cuộc đảo chánh 1/11/1963 của quân đội, hai anh em ông Ngô Đình Diệm / Ngô Đình Nhu bị thảm sát, chấm dứt 9 năm nền Đệ Nhất Cộng Hoà, ông Huỳnh Văn Lang bị bắt vì có liên hệ làm kinh tài cho Đảng Cần Lao; một thời gian sau cho tới tháng 2 năm 1965, ông HVL mới không còn đứng tên chủ nhiệm trên manchette Bách Khoa.
 
— 1965, trong số Kỷ niệm 8 năm, cũng là số Xuân Ất Tỵ, Bách Khoa 193-194 đã có nhiều bước cải tiến: nội dung ngày càng đa dạng và cân bằng hơn, với quan niệm của chủ nhiệm Lê Ngộ Châu là: “tờ báo trong năm ra nhiều số đặc biệt hướng về một chủ điểm như số xuất bản trong dịp đản sinh đức Phật… Và thay vì ra một số về tôn giáo thì Bách Khoa đăng một loạt bài trong nhiều kỳ lên tiếp về các tôn giáo đã phát sinh hay bắt rễ trên đất nước chúng ta mà ít người biết rõ, từ đạo Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo đến đạo Ba-Hai, Hồi Giáo… Thay vì ra một số về cuộc đời sự nghiệp các nhà văn hiện tại, thì Bách Khoa giới thiệu cùng bạn đọc trên mỗi số báo về “Sống và Viết Với” của một nhà văn, vấn đề góp lại sau này thành được một tác phẩm mấy trăm trang chứ không phải chỉ thu gọn trong mấy chục trang của một số đặc biệt.”
 
       Về hình thức, Bách Khoa có một vóc dáng mới mẻ, các trang báo trình bày sáng sủa, với những mẫu bìa nghệ thuật do các hoạ sĩ danh tiếng thiết kế như Phạm Tăng, Tạ Tỵ, cùng với các hoạ sĩ trẻ tài năng như Lâm Triết (huy chương vàng Triển lãm Hội Hoạ Mùa Xuân 1962), Nghiêu Đề (huy chương bạc Triển lãm Hội Hoạ Mùa Xuân 1961), và hoạ sĩ Văn Thanh sau này.
 
*****
Hình 3a: từ trái, những mẫu bìa đẹp của Bách Khoa
của các hoạ sĩ danh tiếng: Tạ Tỵ. Phạm Tăng, Văn Thanh. [5]


                                  Hình 3b: mẫu bìa của hai hoạ sĩ trẻ tài ba; từ trái Nghiêu Đề, huy chương bạc 1961,
và Lâm Triết huy chương vàng 1962 trong các cuộc Triển lãm Hội Hoạ Mùa Xuân 1961-1962. [5]
 
 BÁCH KHOA VỚI NHIỀU TÊN GỌI
    Tuỳ vị trí mỗi người khi đến với Bách Khoa mà đặt cho những tên gọi khác nhau, thông thường nhất là “nhóm” Bách Khoa, nhà văn nhà báo Nguiễn Ngu Í thì dí dỏm gọi đó là “động” Bách Khoa, với số nhà văn trẻ khởi nghiệp và thành danh từ Bách Khoa thì gọi đó là “lò” Bách Khoa – cũng là nhóm chữ của nhà văn nữ Trùng Dương trong bài viết: Bách Khoa, nơi từ đó [2] nhưng có lẽ tiếng gọi phổ quát và thân thương nhất vẫn là “gia đình” Bách Khoa, do cái không khí thân ái ấm cúng mà anh chị Lê Ngộ Châu – Nghiêm Ngọc Huân đã tạo được cho những ai đã từng đến và sinh hoạt với toà soạn Bách Khoa.
     Lê Ngộ Châu đã mở ra một con đường thênh thang cho Bách Khoa. Và kể từ số 195 Tân Niên 15/2/1965 tờ báo nay mang một tên mới với thêm hai chữ thời đại: Bách Khoa Thời Đại và chính thức đứng tên chủ nhiệm là Lê Ngộ Châu, vẫn là người tiếp tục điều hành và mở mang tờ Bách Khoa. Những cuộc phỏng vấn như một kho dữ liệu quý giá không chỉ với các nhà văn, nhà thơ mà còn mở rộng ra các lãnh vực văn hoá nghệ thuật khác như giới hoạ sĩ, nhạc sĩ, nhà nghiên cứu… vẫn do Nguiễn Ngu Í với kiến thức và tài hoa thực hiện, là một mặt mạnh khác của Bách Khoa.
 
Hình 4: Hình bìa Bách Khoa số 195 (15/2/1965), với một tên mới Bách Khoa Thời Đại.
 
     Từ địa chỉ 160 Phan Đình Phùng Sài Gòn, với thời gian, nhà báo Lê Ngộ Châu trong vai trò một chủ nhiệm kiêm chủ bút tài năng của Bách Khoa, tên tuổi anh càng ngày càng toả sáng. Các cây bút cộng tác lâu năm với Bách Khoa và cả những cây viết mới về sau này, đã có cùng một nhận định: Lê Ngộ Châu là người có kiến thức rộng, khiêm tốn và trầm tĩnh trong cách ứng xử, được xem như “linh hồn” của báo Bách Khoa cho tới năm 1975.
     Tuy Bách Khoa từng được đánh giá là một vùng xôi đậu: quốc cộng và cả thành phần thứ ba – theo ngôn từ của nhà thơ Nguyên Sa. Ví von của Nguyên Sa đúng cho cả hai thời kỳ của Bách Khoa.
 
    — Thời kỳ đầu, với chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang, đã có Phạm Ngọc Thảo sinh năm 1922 [cùng năm sinh với Huỳnh Văn Lang], một cây viết chuyên về các vấn đề quân sự cho Bách Khoa, là một cán bộ CS cao cấp nằm vùng, một chuyên viên khuynh đảo, có liên hệ tới 2 cuộc đảo chánh của cả 2 nền Cộng Hoà [mất năm 1965]; BS Dương Quỳnh Hoa sinh năm 1930, tốt nghiệp ĐH Y khoa Paris, gia nhập Đảng CS Pháp rồi Đảng CS Đông Dương, có viết bài về Y khoa cho Bách Khoa trong mấy số đầu, sau này bà DQH đã tham gia sáng lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và giữ chức Bộ trưởng Y tế của Chính phủ Các mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam, sau 1975 bà từ bỏ đảng CS [mất năm 2006], Phan Lạc Tuyên sinh năm 1930 là nhân vật quân sự quan trọng số 3 tham gia cuộc đảo chánh thất bại 11/11/1960 của nhóm Nguyễn Chánh Thi – Vương văn Đông, Phan Lạc Tuyên là nhà thơ với bài Tình quê hương Anh về qua xóm nhỏ được Đan Thọ phổ nhạc rất nổi tiếng khắp miền Nam lúc bấy giờ. Sau này Phan Lạc Tuyên theo CS ra Bắc, được du học Ba Lan tốt nghiệp Tiến sĩ Dân tộc học, đi theo con đường học thuật, nghiên cứu Phật học rồi xuất gia với pháp danh Nguyên Tuệ [mất năm 2011].
 
     — Thời kỳ hai, với chủ nhiệm Lê Ngộ Châu, cũng là lâu dài nhất, nhóm Bách Khoa đã có Người Tù Võ Phiến chống cộng, bên cạnh Bút Máu Vũ Hạnh / Cô Phương Thảo cán bộ CS nằm vùng, cùng với các cây bút có khuynh hướng trung dung hay còn được gọi là thành phần thứ ba như học giả Nguyễn Hiến Lê, LM Nguyễn Ngọc Lan, nhà báo Nguiễn Ngu Í / Nguyễn Hữu Ngư… Lê Ngộ Châu đi ra từ kháng chiến cũng được xem như thành phần thứ ba, nhưng LNC đã khéo léo dung hoà được mọi khuynh hướng chính trị, tôn giáo khác biệt để Bách Khoa càng ngày càng quy tụ được nhiều cây bút có uy tín thuộc cả ba miền Nam, Trung, Bắc, thuộc các thế hệ già trẻ tiếp nối.
 
     Về nội dung, với 3 tiết mục chính: Biên khảo, Nghị luận, Văn nghệ có thể nói Bách Khoa đã  giới thiệu được khá đầy đủ các khía cạnh của xã hội miền Nam, cả tiếp cận với các phong trào tư tưởng mới từ Tây phương, từ văn học, khoa học tới triết học trong và ngoài nước qua ngót hai thập niên [từ 1957 tới 1975], xuyên suốt hai nền Cộng Hoà miền Nam Việt Nam.
 
     Đáng kể hơn nữa, Lê Ngộ Châu còn phát hiện thêm những cây viết trẻ và đa số đều thành danh những năm về sau này. Với các cây bút nam như Lê Tất Điều, Trần Hoài Thư, Hoàng Ngọc Tuấn, Thế Uyên, Nguyễn Mộng Giác, và các cây bút nữ như Tuý Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ…
    Lê Ngộ Châu tuy không phải là văn gia – chữ của Võ Phiến, nhưng anh là một chủ nhiệm quản trị giỏi, một chủ bút cũng rất bén nhạy với thơ văn. Vào khoảng năm 1970 khi toà soạn Bách Khoa vừa nhận được bài thơ Còn Chút Gì Để Nhớ của Vũ Hữu Định, một tên tuổi còn xa lạ với Lê Ngộ Châu nhưng do thấy bài thơ quá hay với hình ảnh nhẹ nhàng về phố núi Pleiku, Lê Châu đã nhờ Trí Đăng chở tới nhà nhạc sĩ  Phạm Duy – cũng là bạn thân của Lê Châu từ hồi Kháng Chiến trong Liên Khu Tư, lúc đó Phạm Duy đang ở cư xá Chu Mạnh Trinh ngã tư Phú Nhuận gần hồ tắm Chi Lăng, nơi quy tụ nhiều gia đình nghệ sĩ tới ở như Năm Châu, Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh, Minh Trang, Kim Tước… và Lê Châu đề nghị Phạm Duy phổ nhạc. Chỉ hai ngày sau Phạm Duy đã chắp cánh cho bài thơ Còn Chút Gì Để Nhớ bằng một bản nhạc cùng tên và được phát ngay trên đài Phát thanh Sài Gòn với giọng ca vượt thời gian của Thái Thanh. Phổ nhạc thơ là một khía cạnh tài năng khác trong gia tài âm nhạc của Phạm Duy.
 
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG BÁCH KHOA:
 
— Số 1 Bách Khoa: số ra mắt 15/1/1957, là một bán nguyệt san, ngay nơi trang nhất có đăng, Thay Lời Phi Lộ:
      “Xây dựng nước nhà về toàn diện là nhiệm vụ chung của mọi người, trong đó việc góp phần sáng kiến cá nhân, dù đúng, dù sai, đều có ích lợi, miễn là tư tưởng ấy xuất phát từ một ý muốn tốt và thành thực. Một quốc gia nếu chỉ có một nền kinh tế vững chắc chưa đủ. Thêm một trình độ chính trị cao cũng chưa hoàn toàn. Một quốc gia cần phải là một tổ hợp tất cả: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… Xây dựng một nước Việt Nam hẳn là xây dựng đủ các ngành, các khoa, các phương diện. Với quan niệm như thế, tạp chí Bách Khoa ra đời.” [5]
       Thay Lời Phi Lộ đó như là một tuyên ngôn của tờ Bách Khoa, đồng thời cũng phản ánh đường lối của nhóm Bách Khoa lúc bấy giờ.
 
     Mấy số báo Bách Khoa đầu tiên chủ yếu là đăng các bài của nhóm chuyên viên trong Hội Nghiên cứu Kinh tế Tài chánh của ông Huỳnh Văn Lang.
 
      Học giả Nguyễn Hiến Lê, trong cuốn hồi ký Đời Viết văn của tôi – Chương 20, ông viết: “Trong lịch sử báo chí nước nhà, tờ Bách Khoa có một địa vị đặc biệt. Không nhận trợ cấp của chính quyền, không ủng hộ chính quyền mà sống được mười tám năm, từ 1957 đến 1975.” [hết trích dẫn]
       Nhận định của học giả Nguyễn Hiến Lê: “Bách Khoa không ủng hộ chính quyền” là không hoàn toàn đúng ở giai đoạn một của tờ báo Bách Khoa [ từ 1957 tới 1963 ] khi ông Huỳnh Văn Lang còn đứng tên trực tiếp điều hành tờ báo. 
     Ở giai đoạn một, thái độ thân chính quyền là phần rất đậm nét của tạp chí Bách Khoa, điều đó không có gì đáng ngạc nhiên vì hai ông Huỳnh Văn Lang, Hoàng Minh Tuynh  và nhóm chủ chương đang là các công chức cao cấp của chính quyền thời bấy giờ. Ngay từ Bách Khoa số 1, nơi cuối các trang báo trống thường là nơi trích dẫn các danh ngôn cổ kim, thì đã có 5 trang (trang 8, 29, 39, 43, 62) là các câu trích dẫn tư tưởng Ngô Đình Diệm từ những bài diễn văn đâu đó của vị Tổng thống đương thời:
 
     — BK1 trang 8, ngay phía dưới câu trích dẫn của Đức Hồng Y Saliège, là tư tưởng của TT Ngô Đình Diệm : “Chúng ta quyết tâm xây dựng Quốc gia Việt Nam trên những nền tảng mới. Lấy nhân dân là cương vị, lấy tự do dân chủ là phương châm, lấy công lý xã hội làm tiêu chuẩn.”
 
     — BK1, trang 29: “Những chủ nghĩa cá nhân tư lợi không đếm xỉa gì tới công lý xã hội, cũng như chủ nghĩa độc tài chuyên chế không đếm xỉa gì tới phẩm giá và tự do của con người , đều là những con đường dẫn tới đoạ đày, nô lệ.” TT Ngô Đình Diệm
 
     — BK1, trang 39: “Những cố gắng của chúng ta phải nhằm mục phiêu cải thiện đời sống quốc dân, nâng đỡ các giới cần lao, nhất là nông dân, san bằng những nỗi bất công, trừ diệt mọi mầm áp bức.” TT Ngô Đình Diệm
 
       — BK1, trang 43 cũng ngay phía dưới câu trích dẫn của Đức Hồng Y Saliège, là tư tưởng của TT Ngô Đình Diệm:“Các anh em phải tận tâm săn sóc tới cuộc sinh hoạt hàng ngày của đồng bào, luôn luôn tìm hiểu nhu cầu và nguyện vọng của đồng bào, để ân cần giúp đỡ về mọi phương diện.”
 
      — BK1 trang 62: “Dân muốn thì quân nghe, quân làm thì dân giúp. Tình đồng bào và quân đội quả là tình cá nước. Quân dân nhất trí là nền tảng của chính nghĩa.” TT Ngô Đình Diệm
 
Và nhất là mấy bài Quan điểm trên báo Bách Khoa ký tên Chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang phản ảnh rất rõ quan điểm của chính quyền đệ Nhất Cộng Hoà mà ông HVL đang tham gia, như:
 
      Trên số Bách Khoa 43 (15/10/1958), chuẩn bị chào mừng cái Tết thứ Ba của nền đệ Nhất  Cộng Hoà [26/10/1955 – 26/10/1958], ông Huỳnh Văn Lang có một bài viết với tiêu đề “Những Kẻ Phá Hoại Chế Độ” , ông HVL đã bộc trực chấp bút viết: “Họ không phải là những người của bên kia, mà là những người bên này của mặt trận. Họ âm thầm sinh hoạt, gián tiếp tàn phá, ít người lưu ý. Họ càng nguy hại hơn nữa không phải ở cái chỗ người xung quanh không quan tâm tới họ, mà họ lại còn lầm lẫn cho mình vẫn là chiến sĩ của chính nghĩa, là rường cột của chế độ có khi là ân nhân của đồng bào nữa.” Và ai cũng hiểu rằng lúc ấy ông Huỳnh Văn Lang đang  lên án gay gắt mấy đảng phái quốc gia – những phe phái không cùng chính kiến với chính quyền TT Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ.
 
      Cũng trong năm 1958 đó, độc giả Bách Khoa đã không thể không chú ý tới mấy Thông báo của Nhóm Văn Hoá Ngày Nay do nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam chủ trương, và thông báo này đã đăng liên tiếp trên các số Bách Khoa 31, 33, 34 với nội dung như sau:
       Nhóm Văn Hoá Ngày Nay “Đã nộp đơn xin ra dưới hình thức một tuần báo, nhưng sau mấy tháng chưa được phép, sợ các độc giả mong chờ nên chúng tôi dự định cho ra thành từng tập, kiểu “Loại Giai Phẩm” (trích Bách Khoa số 31, 15/4/1958). [5]
      Một tên tuổi văn hoá và chính trị lớn như Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, lúc ấy Nhất Linh cũng đang là hội viên danh dự và cũng là cố vấn Hội Văn Bút Việt Nam, và ngay giữa năm thứ tư thịnh vượng của nền đệ Nhất Cộng Hoà mà cũng không xin được giấy phép ra một tuần báo văn chương, sự kiện ấy rất đáng được ghi nhận và quan tâm. Nhưng giữa bối cảnh “Sáng Dội Miền Nam” (tên một tạp chí ảnh rất đẹp của ông Võ Đức Diên thời đệ Nhất Cộng Hoà) lúc ấy, và với chính sách một nền dân chủ tập trung hầu như vẫn được dân chúng miền Nam mặc nhiên chấp nhận.
 
      Trên số Bách Khoa 97 (15/1/1961), cũng là năm thứ Sáu của nền đệ Nhất Cộng Hoà, và là số Kỷ Niệm Đệ Tứ Chu Niên của tờ  Bách Khoa, ông Huỳnh Văn Lang đã có một bài viết với tiêu đề “Những Kẻ Phản Loạn” giọng điệu rất gay gắt lên án cuộc đảo chánh 11/11/1960 của nhóm sĩ quan cấp tá: Nguyễn Chánh Thi / Đại tá – Vương Văn Đông / Trung tá, có cả sĩ quan cấp uý Phan Lạc Tuyên, một cây bút của Bách Khoa lúc bấy giờ, cùng với đám chính khách đối lập thuộc Mặt trận Quốc dân Đoàn kết có tên Nhất Linh Nguyễn Tường Tam ủng hộ cuộc đảo chính. Do ông HVL lúc ấy đang là một “công thần của chế độ” đã không ngần ngại gọi ngay họ là bọn “phản quốc”, một tuyên án có trước cả Toà Án Quân Sự Đặc Biệt với Trung tá quân pháp Lê Nguyên Phu Uỷ là viên Chính Phủ được thiết lập sau này. Bị kết tội danh “phản quốc” cũng là một trong những nguyên nhân đưa tới tuẫn tiết của văn hào Nhất Linh ba năm sau,1963]. [5]
 
Hình 5: (1) Từ Bách Khoa số 1(15/01/1957) tới số 5 (15/03/1957),
với địa chỉ toà soạn 55 Bà Huyện Thanh Quan, Phòng 42, Sài Gòn,in tại nhà in An Ninh,
\44 Nguyễn An Ninh, Sài Gòn. (2) Từ Bách Khoa số 6 (1/4/1957) tới số 39, toà soạn dời về
địa chỉ nhà Văn Hoá in 412-414 Trần Hưng Đạo, Sài Gòn. (3) Bắt đầu từ BK số 40 (1/9/1958),
lần thứ ba toà soạn Bách Khoa dọn về 160 Phan Đình Phùng, Sài Gòn, một địa chỉ in đậm
“dấu ấn” của Lê Ngộ Châu xuyên suốt cho tới số 426 (19/4/1975), cũng là số báo cuối cùng,
chấm dứt cuộc hành trình 18 năm của Bách Khoa. [5]
 
      Ba năm sau cuộc đảo chánh lần thứ nhất thất bại (11/11/1960), do thấy rõ nguy cơ một cuộc đảo chánh quân sự khác lật đổ chế độ Gia đình Họ Ngô sẽ xảy ra, không ai khác hơn chính ông Huỳnh Văn Lang nhân vật số 2 của đảng Cần Lao, lại manh nha “phản loạn” – chữ mà ông đã gán cho nhóm đảo chánh 11/11/1960 trước đó.
 
     Huỳnh Văn Lang đã cùng với Phạm Ngọc Thảo (là một tay khuynh đảo “hai mang,” cấp bậc Đại tá của quân đội cả 2 bên). Hai người bắt đầu đi liên lạc vận động với một số tướng lãnh thân tín thuộc đảng Cần Lao như các tướng Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Đỗ Cao Trí… để lập một kế hoạch đảo chính chế độ Ngô Đình Diệm, với mục đích loại trừ vợ chồng ông cố vấn Ngô Đình Nhu, Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục và ông Ngô Đình Cẩn ngoài miền Trung nhưng giữ lại cụ Diệm – người mà ông HVL vẫn tôn vinh coi như là biểu tượng của chính nghĩa. Huỳnh Văn Lang đã nói với tướng Nguyễn Khánh là: mình đảo chính “ông cụ” để giữ “ông cụ”. [Huỳnh Văn Lang, Nhân chứng một chế độ, Một Chương Hồi ký, Tập Ba (trang 208 – 219). Tác giả Xuất bản 2001] [7]
     Với kế hoạch “đảo chánh nửa vời” ấy nhằm phân hoá một gia đình Họ Ngô vốn có truyền thống đoàn kết sắt son từ bao nhiêu thế hệ, phải nói là người chủ trương cuộc chính biến ấy đã quá “lãng mạn hoặc ngây thơ” và cũng chứng tỏ ông Huỳnh Văn Lang đã chẳng hiểu gì TT Ngô Đình Diệm, người mà ông được gần gũi và phục vụ trung thành trong suốt 9 năm và dĩ nhiên mưu đồ “đảo chánh” ấy của nhóm Lang – Thảo đã bất thành ngay từ trong trứng nước. [7]
     Để rồi chỉ ít lâu sau, một vụ chính biến quân sự khác nổ ra vào ngày 1/11/1963 của nhóm tướng lãnh Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Dương Văn Minh, Tôn Thất Đính, Đỗ Mậu do họ biết chớp lấy thời cơ của một tình hình đã chín muồi, đưa tới cái chết bi thảm của cả hai anh em ông Diệm ông Nhu, chấm dứt nền đệ Nhất Cộng Hoà.
    Hai tuần lễ sau, trên tờ Bách Khoa số 165 [15/11/1963], là một bài viết dĩ nhiên không phải của Huỳnh Văn Lang mà của một người ký tên Tiểu Dân –người dân bé nhỏ, với tiêu đề: “Cảm nghĩ về sự cáo chung của một chế độ độc tài”– đó là một bài viết với văn phong trầm tĩnh, đã không nêu đích danh lên án hoặc kết tội bất cứ ai. Mở đầu bài viết với mấy dòng chữ“Một chế độ lỗi thời, phản tiến hoá, vừa bị đào thải. Một chế độ mới hướng về Tự Do thực sự, Dân chủ chân chính đang được xây dựng.”
       Bài viết dài 6 trang là một phân tích bài học của 9 năm về nền đệ Nhất Cộng Hoà, với nhận định rằng:“Nếu không đớn hèn thụ động thoả hiệp đầu hàng, thì không bao giờ có được chế độ độc tài. Nếu có chế độ độc tài như đã xảy ra trong 9 năm đau buồn – thì chính chúng ta bất cứ ai cũng đều có một phần trách nhiệm không nhỏ.” Và đây là câu kết luận của bài viết: “Một dân tộc thế nào thì có một chính quyền thế ấy.” “Và ta nên nghiền ngẫm chân lý này để đấu tranh xây dựng một  chế độ chân chính Dân Chủ và thực sự Tự Do.”[5]
 
 NHỮNG KHÓ KHĂN VỀ TÀI CHÁNH CỦA BÁCH KHOA
      Tạp chí Bách Khoa trước và sau đổi tên 5 lần, dù có những tên khác nhau nhưng cơ bản tờ báo luôn luôn có hai chữ Bách Khoa xuyên suốt từ số 1 tới số 426. [6]
1/ Bách Khoa từ số 1 (15/1/1957) tới số 193-194 (15/1/1965];
3/ Bách Khoa Thời Đại từ số 195 (15/ 2/1965) đến số 312 (1/1/1970)
4/ Bách Khoa (trở lại tên BK), từ số 313-314 [15/1-1/2/1970) tới số 377 (15/9/1972]
5/ Bách Khoa Đặc San số 378 (1/10/1972) tới số 379 (15/10/1972)
6/ Bách Khoa Giai Phẩm số 380 (1/11/1972 tới số 426 (19/4/1975)
 
    Sở dĩ có sự thay đổi tên gọi như trên nhiều phần vì lý do chính trị: từ chế độ cũ / đệ Nhất Cộng Hoà sang chế độ mới / đệ Nhị Cộng Hoà, và cả do những đường lối thay đổi rất bất thường của các Bộ Thông tin và chính sách kiểm duyệt báo chí thời bấy giờ.
 
       Viết về tờ báo Bách Khoa, ai cũng nghĩ đó là tờ báo không nhận nguồn trợ cấp từ chính quyền điều đó đúng, nhưng nếu nói Bách Khoa không có khó khăn về tài chánh thì sai – vì kể từ sau đảo chính 1963, khi ông Huỳnh Văn Lang vướng vào vòng lao lý, nguồn thu nhập về quảng cáo không còn như trước, rồi thêm tình trạng lạm phát khiến mọi chi phí cho việc in ấn mỗi số Bách Khoa ngày một gia tăng, số độc giả Bách Khoa cũng lên xuống bất thường do thiên tai lũ lụt ngoài Trung, do biến động chính trị và tình hình chiến sự lan rộng khiến  đường bộ mất an ninh và Bách Khoa không phát hành ra miền Trung được – mà ai cũng biết miền Trung tuy nghèo nhưng lại là vùng có số độc giả tiêu thụ sách báo lớn nhất của cả nước. Nhà thơ Thành Tôn bấy lâu vẫn tình nguyện giúp phát hành sách báo ở miền Trung trong nhiều năm cũng đã cho biết như vậy.
 
      Khi Bách Khoa thực sự bước vào những giai đoạn khó khăn về tài chính. Lê Châu đã phải bươn chải, thay đổi nhà in, tìm nơi in với giá rẻ, và giảm thiểu mọi chi tiêu ở toà soạn để Bách Khoa có thể sống còn, đây là một khía cạnh “tài năng khác” của Lê Ngộ Châu ít được ai biết tới. Một điểm son khác của Bách Khoa, dù trong tình trạng thiếu hụt nào, chưa bao giờ Bách Khoa không chu toàn phần nhuận bút với các cây bút cộng tác trong nước.
 
     Bách Khoa giai đoạn đầu, báo in ở (1) Nhà in An Ninh, 44 Nguyễn An Ninh Sài Gòn, rồi một nhà in khác (2) Nhà in Văn Hoá 412-414 Trần Hưng Đạo Sài Gòn,
    Bách Khoa giai đoạn hai, chuyển qua (3) Nhà in Tương Lai, 133 đường Võ Tánh Sài Gòn, rồi cuối cùng là (4) Nhà in Trí Đăng, 21 Nguyễn Thiện Thuật Sài Gòn, từ số 332 tới 426 [1/11/1970 – 19/4/1975].
    Trên số BK 221 (15/3/1966), giữa những tin chiến sự nóng bỏng như: chiến tranh mở rộng ra miền Bắc, trận đánh lớn Đồng Xoài; toà soạn Bách Khoa ra thông báo: “vì giao thông đường bộ gián đoạn, báo chuyển ra miền Trung từ nay phải hoàn toàn gửi bằng đường hàng không, nên độc giả báo dài hạn, báo biếu xin gửi thêm 20đ tiền tem.”
     Nhà in Tương Lai trên đường Võ Tánh trước kia do trúng thầu in vé Số Quốc gia có lợi nhuận lớn, nên trong nhiều năm nhận in thêm Bách Khoa với giá rất phải chăng; nhưng khi mất nguồn thu nhập này, Tương Lai không còn có thể in Bách Khoa với giá thấp như trước, Bách Khoa đứng trước nguy cơ “xập tiệm”.
     May lúc đó có nhà văn nhà báo Nguiễn Ngu Í vốn là bạn thân lâu năm của anh Trí Đăng từ hồi còn ở Quảng Ngãi, giới thiệu Lê Ngộ Châu với nhà xuất bản Trí Đăng. Anh Trí Đăng, tên thật là Nguyễn Liên tuy gốc nhà giáo có bằng Cao học Triết Đại học Văn Khoa Sài Gòn nhưng lại thích hoạt động trong ngành xuất bản. Anh có nhà in lớn, lại đang thành công trong công việc xuất bản sách giáo khoa, nên Trí Đăng đã nhận in Bách Khoa với giá vốn nhưng anh LNC vẫn chưa hết khó khăn cho dù đã giảm thiểu tối đa mọi chi phí ở toà soạn, với nhân sự chỉ còn 3 người: vợ chồng Lê Châu – Nghiêm Ngọc Huân và một thư ký.
     Bách Khoa đang phát hành mỗi kỳ hơn 4 ngàn số báo, với 1000 độc giả dài hạn và khoảng 100 độc giả ở nước ngoài, nay số phát hành có lúc  xuống chỉ còn 1 ngàn, sau có tăng dần nhưng cũng không thể nào trở lại con số ban đầu. Giá báo phải tăng từ 8$ lên 12$  rồi 15$… Tới một lúc, để có thể sống còn, Bách Khoa phải cùng với các tạp chí khác như Văn, Tân Văn, Phổ Thông, Văn Học, đồng loạt tăng lên 20$ một số báo.
     Rồi từ số BK 378 [tháng 10 năm  1972], với Sắc luật 007* nghiệt ngã và kỳ quái, nhiều tờ báo đã phải đóng cửa và Bách Khoa đã  phải ra với hình thức Giai Phẩm, giá mỗi số Bách Khoa vẫn tăng liên tục từ 50$, 70$, 100$ rồi 120$, rồi 150$ từ số Giai phẩm 405, rồi 200$ từ số 406.
 
       * Sắc Luật 007/ 72 do TT Nguyễn Văn Thiệu ký ngày 5/8/1972, bắt buộc mỗi nhật báo phải đóng ký quỹ 20 triệu đồng (80 VN$ tương đương với 1US$ lúc đó), còn báo định kỳ tuần san, bán nguyệt san phải đóng ký quỹ 10 triệu đồng nếu tờ báo nào không nộp đủ số tiền đó, sẽ bị rút giấy phép ra báo. Sắc luật 007 còn có thêm quy định tờ báo nào bị tịch thu lần 2 sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn. Chỉ riêng khoản  phải đóng ký quỹ 10 triệu đồng, Bách Khoa vĩnh viễn từ đây không thể nào có giấy phép và chỉ có thể ra từng tập với số kiểm duyệt như một “giai phẩm”.
 
      Ngày Ký Giả đi ăn mày cuối năm Dần [8/9/1974], với hình ảnh một học giả Hồ Hữu Tường nón lá và bị gậy đi giữa đông đảo đoàn ký giả thuộc thế hệ trẻ hơn ông là một bi hài kịch cuối cùng của tự do báo chí miền Nam, mấy tháng trước ngày mất nước 30/4/1975. 
 
Hình 6: trái, hình bìa số Giai phẩm Xuân Ất Mão 1974 của hoạ sĩ  Văn Thanh;
phải, trang sinh hoạt Bách Khoa với hình ảnh một học giả Hồ Hữu Tường đội nón lá
và bị gậy đi giữa đông đảo đoàn ký giả thuộc thế hệ trẻ hơn ông là một bi hài kịch cuối cùng
của tự do báo chí miền Nam, mấy tháng trước ngày mất nước 30/4/1975. [5]
 
       Trong số giai phẩm Xuân Ất Mão – cũng là số kỷ niệm 18 năm, Nhóm Chủ trương Bách Khoa viết: “Với số này, Bách Khoa đã bước sang năm 19 bằng những bước thực là chật vật và cực nhọc. Nói về giá giấy và chi phí ấn loát đã leo thang nhiều bậc thật dài, nói về mãi lực bạn đọc giảm sút đều đều, tháng này qua tháng khác… Cảm tình của bạn đọc có sức mạnh gây được niềm tin tưởng cho những anh em đã cộng tác và làm nên tờ Bách Khoa ngày nay, để hy vọng Bách Khoa còn đứng vững được trong những tháng sắp tới của năm mới, mặc dầu tình hình chiến sự đương khẩn trương hơn lúc nào hết, tình trạng kinh tế mỗi ngày một khó khăn và tương lai của ngành xuất bản và báo chí thì tối tăm như đêm ba mươi Tết…” Đó là trang mở đầu ảm đạm của số giai phẩm Xuân Ất Mão – thay vì là một thiệp chúc Tết vui tươi.
 
     Thêm một may mắn nữa, Lê Ngộ Châu gặp được một quý nhân hỗ trợ: đó là nhà giáo Phạm Tấn Kiệt, bút hiệu Long Điền hay Phạm Long Điền, (do quê anh  ở quận Long Điền, Bà Rịa Vũng Tàu), Long Điền cũng từng viết một số bài cho Bách Khoa [từ 1974] với các đề tài như: Cụ Phan Văn Trường với tập Hồi Ký “Một chuyện âm mưu của người An-nam tại Paris [BK 405], Nhân Kỷ niệm Phan Chu Trinh, nhắc lại Vụ án Nguyễn An Ninh 48 năm về trước (1926) [BK 408-409], Thuyết Pháp Việt Đề Huề và nhóm La Cloche fêlée [BK 410]… Viết về nghiên cứu văn hoá, nhưng anh Long Điền Phạm Tấn Kiệt lại có bằng cử nhân Vật lý Đại học Khoa học Sài Gòn, tốt nghiệp Đại học Sư phạm, là Giám đốc Nha Nghiên Cứu và Kế hoạch Bộ Giáo dục, và ở cương vị ấy Phạm Long Điền đã có một “hành động rất nghĩa hiệp” vượt qua nguyên tắc, linh hoạt giúp Bách Khoa có được “bông giấy” từ Bộ Kinh Tế, với quy chế Bách Khoa được “in như một tài liệu sách giáo khoa”.
     Lê Ngộ Châu duy trì được tờ Bách Khoa sống còn là nhờ phần giúp đỡ “vô vị lợi” của nhà giáo Phạm Long Điền. Và chính nhà in Trí Đăng đã sử dụng nguồn giấy “bonus” này để in báo Bách Khoa. Tình hình tài chính Bách Khoa phần nào tạm ổn định từ đây, và Giai phẩm Bách Khoa đã sống cho tới Tháng 4/1975.
       *Anh Long Điền Phạm Tấn Kiệt bị kẹt ở lại ở Việt Nam sau 1975, do anh là một công chức cao cấp bộ Giáo Dục VNCH, cả hai vợ chồng là nhà giáo nhưng không được đi dạy học trở lại, sống rất khổ cực cho tới khi được con gái – là thuyền nhân, bảo lãnh sang định cư bên Canada và anh Long Điền đã mất sớm sau đó.
 
Hình 7: Toà soạn Bách Khoa 160 Phan Đình Phùng Sài Gòn, những năm đầu tiên,
từ phải: với chủ nhiệm Lê Ngộ Châu (2006), Vũ Hạnh “Bút Máu”cán bộ cộng sản nằm vùng,
học giả Nguyễn Hiến Lê (1984), kịch tác gia Vi Huyền Đắc “Kim Tiền” (1976), nhà báo Lê Phương Chi (2012),
Võ Phiến “Người Tù” chống cộng (2015). Bách Khoa từng được nhà thơ Nguyên Sa
Trần Bích Lan (1998) ví như một vùng xôi đậu. (nguồn: Chân Dung VHNT & VH 2017) [1]
 
Hình 8: trái và giữa, bìa 2 số Bách Khoa Tết Mậu Thân 265 & 266
và Tân Niên 267 & 268 năm 1968 với chủ đề “Những người cầm bút viết trong khói lửa đầu năm”;
Bách Khoa 426 ra ngày 19/04/1975, với hình bìa là một không ảnh chụp đoàn xe trên đường di tản
hỗn loạn từ Cao nguyên về Nha Trang và đây cũng là số báo Bách Khoa cuối cùng. Bách Khoa có tuổi thọ
18 năm – bằng tuổi thọ báo Nam Phong của Phạm Quỳnh, trải qua 2 nền Cộng Hoà đầy
biến động của miền Nam Việt Nam. [5]
 
       Từ nhà in Trí Đăng, anh Nguyễn Liên có nhận xét về anh Lê Ngộ Châu như sau: “Điều hành tờ Bách Khoa trong bấy nhiêu năm, tuy anh Châu không có bài viết nào ký tên mình ngoài một bút danh chung “Bách Khoa”, nhưng tất cả các bài vở gửi đến đều được anh Châu trân trọng đọc. Khi tiếp nhận các bài vở đưa đến nhà in chúng tôi, nhìn bản thảo, tôi biết như thế. Bài nào được chọn đăng, đều có bút tích của anh Lê Châu sửa lại cho hoàn chỉnh, anh không bao giờ nói ra điều đó với ai.
 
      Với những tác giả mới, anh Lê Ngộ Châu có sự nhạy bén phát hiện tài năng và rồi cả gợi ý đề tài cho người viết. Anh Châu ẩn nhẫn làm công việc toà soạn bằng cái lòng chân thật yêu chữ nghĩa.  Kể cả các bài của những cây bút đã nổi danh vẫn được anh Châu chỉnh sửa, ngay với tác giả  khó tính như Bình Nguyên Lộc, vẫn được anh Châu edit lại, và anh BNL đã không có một lời than phiền. Ngoài ra, trong giao tế anh Châu rất ân cần với từng người. Với các người viết trẻ; anh vẫn thân ái “anh tôi” rồi, anh Châu nhớ cả ngày sinh, ngày giỗ của từng gia đình anh em, anh viết thơ tay thăm hỏi tới những người lính cầm bút nơi tiền đồn phương xa và trước sau anh được mọi người thương mến là như vậy.
 
Hình 9: Hình chụp tháng 7/1994 tại Universal Studio Hollywood, Universal City, California:
từ phải, anh chị Nguyễn Liên / Trí Đăng, anh Lê Ngộ Châu, anh chị Võ Phiến. Nhà in Nhà Xuất bản
Trí Đăng đã in báo Bách Khoa trong nhiều năm cho tới số báo cuốicùng, số 426 ngày 19/4/1975.
[tư liệu Viễn Phố]
 
      Nhà báo Nguiễn Ngu Í trong một chuyến đi xông đất “Tìm hiểu Nỗi lòng của Ban Biên Tập Bách Khoa”, khi tới thăm anh Lê Châu, phụ trách toà soạn báo… Trăm Khoa nhân dịp kỷ niệm 5 năm báo Bách Khoa, anh Nguiễn Ngu Í đã rất duyên dáng ghi lại cuộc nói chuyện với Lê Ngộ Châu:
      “Tân niên ! Quấy rầy anh [Lê Ngộ Châu] lúc này, không để anh thoát khỏi – dù chỉ trong giây lát – cái bề bộn, cái bận rộn, cái cứ như thế mãi cũng là một điều nên làm.
      – Này anh, người ta đồn “động Bách Khoa” là một động của ông già bà cả trên dưới 40, một nhóm người cửa đóng then gài… kín mít, chỉ chơi riêng với nhau.
      Mặt lúc nào cũng tươi của anh lại càng tươi, vì thấy câu hỏi sao mà dễ trả lời thế. Anh lấy một số Báck Khoa kỉ niệm có sẵn trước mặt đưa cho tôi và nói:
      – Đây, anh xem lại, tác giả số bài đăng trên số Bách Khoa có những người trên bốn mươi mà cũng có rất nhiều người dưới ba mươi, hai mươi…
      Ngừng một chút anh lại tiếp:
      – Tuy nhiên trẻ già, mới cũ, đâu có phải chỉ tuỳ thuộc ở số tuổi. Chính anh đã từng dự trại Hè Sinh viên mà trẻ trung hơn cả nhiều anh chị em sinh viên đấy! Chỉ cần xem lại những số Bách Khoa kỉ niệm trong 5 năm qua cũng đủ thấy một số lớn cây bút lúc đầu đã lần lần nhường chỗ cho mấy cây bút tới sau và mỗi năm Bách Khoa lại được thêm một số cây bút cộng tác khác với năm trước.
 
      Thêm nữa anh còn lạ gì, để tránh thành kiến chủ quan, Bách Khoa không có một chủ bút, mà có cả một “tập đoàn chủ bút”. Anh em trong toà soạn và những bạn bè cộng tác thường xuyên chia nhau đọc bài hợp với sở trường hoặc ngành chuyên môn của mình, rồi sau đó tập thể quyết định đăng hay không. Như vậy tinh thần bè phái trong Bách Khoa không thể có, mà thực tế Bách Khoa lúc nào cũng mở rất rộng cửa để mời đón các bạn cộng tác mới, nhất là các bạn văn nghệ, vì chúng ta vẫn mong muốn tờ báo “phản ánh được mọi xu hướng nghệ thuật dị biệt ngày nay.”
      – Anh được đọc tất cả các bài gửi về, anh có gặp những vui buồn gì ? Và anh đọc nhiều bài thế có thấy mệt không ?
      – Cái mệt phải đành thôi, tôi xin miễn nói. Nghề nào cũng có cái mệt của nghề ấy. Thấy bài đến nhiều là mình đã vui rồi, vui vì được nhiều người tìm đến,và khi mở bao mở bì ra đọc là lòng hồi hộp, chỉ mong gặp được bài hay để đăng mà thôi. Và tự nhiên nếu không được cái may mắn ấy, thì sao khỏi buồn đôi chút. Ân hận nhất là vì số trang có hạn và báo nửa tháng mới có một kỳ, nên nhiều bài thực giá trị mà vẫn phải để lần lữa mãi không sao đăng được ngay vì kẹt nhiều bài, mà cũng vì chủ trương của Bách Khoa vốn vẫn dành ưu tiên cho các bài có tính thời sự.
      – Sao rồi chẳng ai được đọc bài nào kí tên anh cả ?
      – Tôi có nhiệm vụ làm cho tờ báo thành hình, và đăng được đa số bài các anh em cùng các bạn xa gần gửi đến. Tất nhiên khi nào phải có thừa chỗ mới đến lượt tôi được.
(hết trích, BK 123, 15/2/1962, trang 106-109) [5]
 
       “Tập đoàn chủ bút”: đó chỉ là cách nói khiêm cung của Lê Châu, anh muốn nói tới tinh thần làm việc hài hoà của các thành viên trong toà soạn Bách Khoa. Thực ra, anh Châu rất nhậy bén khi đọc tất cả các bài viết và  tìm ra các bài hay để chọn đăng, chỉ trừ một vài bài có nội dung chuyên môn cao thì anh mới tham khảo một chuyên gia khác có thẩm quyền để có được một “ý kiến thứ hai” nhưng chọn đăng hay không quyết định cuối cùng vẫn là chủ nhiệm Lê Châu.
 
      Kinh nghiệm của người viết [Ngô Thế Vinh], trong bài “Đàm Thoại với Ngô Thế Vinh từ Vòng Đai Xanh tới Mặt Trận ở Sài Gòn”, đăng trong số Bách Khoa 370, ngày 1/6/1972 là do anh chính chủ nhiệm Lê Ngộ Châu thực hiện tại toà soạn nhưng khi báo ra chỉ ghi là Bách Khoa (khiến sau này, có nhà nghiên cứu văn học cũng tưởng rằng đó là bài PV của nhà báo Nguiễn Ngu Í, vì anh Nguiễn Ngu Í là người thường xuyên thực hiện các cuộc phỏng vấn cho báo Bách Khoa trong nhiều năm).
      Ai cũng thấy rằng nếu không có cái “nhẫn” và tài điều hành khéo léo của anh Lê Ngộ Châu thì tờ Bách Khoa đã không thể tồn tại lâu đến như vậy. Bộ báo đồ sộ 426 số Bách Khoa sẽ là nguồn tư liệu quý giá để tham khảo về văn hoá, xã hội, rất có giá trị cho các thế hệ sau về một giai đoạn lịch sử đầy biến động của Miền Nam.
 
 MỘT BÁCK KHOA TAN TÁC SAU 1975
     Trước ngày mất Sài Gòn, Võ Phiến và Lê Tất Điều do có làm việc cho Đài Mẹ Việt Nam nên được kể trong số nhân viên của Đài được Mỹ lo cho di tản trước. Chứng kiến một Võ Phiến hai lần khóc khi phải ra đi vì biết không có ngày trở về, lần thứ nhất với Lê Ngộ Châu nơi toà soạn Bách Khoa ngày 23/4/1975, rồi lần thứ hai với Lê Tất Điều trên con tàu Challenger ngày 29/4/1975 khi rời đảo Phú Quốc. Một số những văn nghệ sĩ khác cũng may mắn thoát đi được, có thể kể thêm như Viên Linh Hóa Thân, Túy Hồng Tôi Nhìn Tôi Trên Vách, Thanh Nam Bóng Nhỏ Đường Dài, Vũ Khắc Khoan Thần Tháp Rùa, Nghiêm Xuân Hồng Người Viễn Khách Thứ 10, Mặc Đỗ Siu Cô Nương nhóm Quan Điểm, rồi cả Phạm Duy Con Đường Cái Quan…
 
Thế còn những người ở lại thì sao?
 
       Ngày 5 tháng 5, 1975, Lê Ngộ Châu đã kinh hoàng khi nghe tin một trong những cây viết lâu năm của Bách Khoa, Phạm Việt Châu tác giả loạt bàiTrăm Việt Trên Vùng Định Mệnh đã tuẫn tiết ngay tại tư gia khi cộng sản tiến chiếm Sài Gòn. Cái chết rất sớm và tức tưởi của một học giả có viễn kiến về lịch sử dân tộc, với sức sáng tạo đang sung mãn mới bước vào tuổi 43, đã như một hồi chuông báo tử cho rất nhiều tang thương diễn ra sau đó.
      Rồi cũng vào một ngày đầu tháng 5, 1975, khi chưa đi trình diện cải tạo, người viết tới thăm anh Lê Ngộ Châu, và đã gặp hai đứa con Vũ Hạnh trong bộ bà ba đen, tay cuốn băng đỏ, tới tòa báo Bách Khoa. Trước khách lạ, đứa con gái bằng một giọng hãnh tiến, nói với anh chị Lê Ngộ Châu: “Tụi con mới từ Hóc Môn về, cả đêm qua đi kích tới sáng.” Hình ảnh của đám nằm vùng cùng với đám “cách mạng 30” không khác một “phó bản” của một đám Vệ binh Đỏ của Mao trong cuộc cách mạng văn hoá, chúng đi reo rắc kinh hoàng giữa một Sài Gòn đang hoảng loạn lúc bấy giờ. Cũng chính những đám này là thành phần kích động chủ lực trong chiến dịch “lùng và diệt tàn dư văn hóa Mỹ Nguỵ”, chúng dẫm đạp những cuốn sách, nổi lửa đốt từng chồng sách rồi tới cả tới những kho sách. Những cuốn sách mà đa phần chúng chưa hề đọc, trong đó có cả một tủ sách “Học Làm Người” của học giả Nguyễn Hiến Lê.
    — Hoạ sĩ lập thể Tạ Tỵ, BS Trần Văn Tích hai người có bài viết trên số báo Bách Khoa 426 cuối cùng không thoát đi được, đã cùng với hầu như toàn thể các văn nghệ sĩ miền Nam, lần lượt trước sau bị bắt đưa vào các trại tù cải tạo của CS.
     — Nhà thơ nhà giáo Vũ Hoàng Chương, cùng thời với thi sĩ Hoàng Cầm, Hữu Loan ngoài miền Bắc, có nhiều bài thơ đặc sắc đăng trên Bách Khoa cho tới 1975, cũng bị CS bắt giam tù trong khám Chí Hoà, và chỉ được thả ra khi sắp chết, và ông đã chết tại nhà 5 ngày sau.
    — Học giả Nguyễn Hiến Lê, người viết nhiều nhất trên Bách Khoa, tới 1975 đã xuất bản tác phẩm thứ 100, bắt đầu phải sống qua những trải nghiệm đắng cay và vỡ mộng với những người cộng sản và mặt trận giải phóng mà bao năm trước đó ông đã không dấu mối thiện cảm và cả sự ngưỡng mộ.
    — Lê Ngộ Châu, tuy không bị bắt đi tù cải tạo nhưng bị vô hiệu hoá, thư viện phong phú của Bách Khoa một đời ông dày công sưu tập cũng không giữ được và cuối cùng cũng phải nộp cho Hai Khuynh tức Nguyễn Huy Khánh, là một trong “ngũ hổ tướng” của Thành uỷ Sài Gòn lúc bấy giờ. Sau này, cũng những cuốn sách ấy với cả thủ bút các tác giả ký tặng anh, đã được thấy bày bán nơi mấy tiệm sách cũ, mà các khách tìm mua có cả những  học giả từ miền Bắc vào. Nhà văn Thế Phong, trước 1975 nổi tiếng với Đại Nam Văn Hiến Xuất Bản Cục, in ronéo, đã kể lại cũng chính Thế Phong tìm mua lại được hầu như toàn bộ tác phẩm của mình xuất bản trước 1975 với thủ bút đề tặng Lê Ngộ Châu. Ai cũng hiểu rằng đó là niềm đau sót sâu thẳm của Lê Ngộ Châu mà anh không bao giờ anh nói ra.
 
Hình 10: Sau 1975 nhiều khách từ Hà Nội vào Nam đều muốn tới thăm
toà soạn Bách Khoa 160 Phan Đình Phùng, Sài Gòn; hình trái, chủ nhiệm Bách Khoa Lê Ngộ Châu (2006), học giả Đào Duy Anh (1988), ông Nguyễn Hùng Trương (2005), giám đốc nhà sách Khai Trí, 62 đường Lê Lợi Sài Gòn; hình phải, Lê Ngộ Châu, nhà thơ Cù Huy Cận (2005), tác giả Lửa Thiêng, đảng viên cộng sản kỳ cựu và là Bộ trưởng Văn hoá Giáo dục chính phủ CHXHCN Việt Nam.
[tư liệu của Viễn Phố]

 
— Vũ Hạnh, tên thật Nguyễn Đức Dũng còn có thêm bút hiệu cô Phương Thảo, tuy được biết từ lâu là một cán bộ CS nằm vùng trong Bách Khoa, từng bị bắt vào tù nhiều lần, nhưng đều được các văn hữu “với tấm lòng” cứu ra, trong số đó phải kể tới Linh mục Thanh Lãng chủ tịch Văn bút, chủ nhiệm Lê Ngộ Châu đã vận động để Vũ Hạnh được thả ra để rồi sau đó Vũ Hạnh lại công khai hoạt động. Sau 30/04/1975 Vũ Hạnh chính thức lộ diện là một cán bộ cộng sản và như một hung thần, Vũ Hạnh lập thêm công trạng bằng cả một danh sách chỉ điểm cho “cách mạng” truy lùng bỏ tù hầu hết các văn nghệ sĩ miền Nam còn kẹt ở lại, trong đó có cả những người đã từng ký tên đòi trả tự do cho Vũ Hạnh khi đang trong vòng lao lý.
 
    Sau 1975, nhiều nhà văn nhà báo miền Nam ấy đã chết rũ trong tù như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Hoàng Vĩnh Lộc, Nguyễn Mạnh Côn, Phạm Văn Sơn, Trần Văn Tuyên, Trần Việt Sơn, Vũ Ngọc Các, Anh Tuấn Nguyễn Tuấn Phát, Dương Hùng Cường… hay vừa ra khỏi nhà tù thì chết như Hồ Hữu Tường, Vũ Hoàng Chương. Nếu còn sống sót, đều nhất loạt phải gác bút: Dương Nghiễm Mậu Nhan Sắc sống bằng nghề sơn mài, Lê Xuyên Chú Tư Cầu ngồi bán thuốc lá lẻ ở đầu đường, Trần Lê Nguyễn tác giả kịch Bão Thời Đại thì đứng sạp bán báo để độ nhật, Nguyễn Mộng Giác Đường Một Chiều làm công nhân sản xuất mì sợi, Trần Hoài Thư Ngọn Cỏ Ngậm Ngùi ba năm ở tù ra trở thành Người Bán Cà Rem Dạo.
 
    Vũ Hạnh, tuổi đã ngoài 80 rồi 90, như một đao phủ bao nhiêu năm sau vẫn không nương tay tiếp tục viết các bài đấu tố những người cầm bút còn ở lại. Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên, là những nạn nhân điển hình khi  Công ty Phương Nam cho in lại mấy cuốn sách chỉ có tính cách văn học của Dương Nghiễm Mậu.
     Vũ Hạnh của Bút Máu viết: “Sách của Dương Nghiễm Mậu thì nổi bật tính phản động tha hóa lớp trẻ hầu đưa đẩy họ vào sự chống phá cách mạng, chống lại sự nghiệp giải phóng đất nước khỏi sự thống trị của bọn đế quốc xâm lược, còn sách của Lê Xuyên là tính đồi trụy.” Vũ Hạnh viết tiếp: “Vì những lẽ đó, rất nhiều bức xúc, phẫn nộ của các bạn đọc khi thấy Công ty Phương Nam ấn hành sách của ông Dương Nghiễm Mậu… Đem những vũ khí độc hại ra sơn phết lại, rêu rao bày bán là một xúc phạm nặng nề đối với danh dự đất nước.” Và rồi cũng Vũ Hạnh kể lể: “các tác giả Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên sống lại ở thành phố này vẫn được đối xử bình đẳng, không hề gặp bất cứ sự quấy phiền nào.” (Sài Gòn Giải Phóng, 22/4/2007).
      “Ngày Xưa Vũ Hạnh” cộng sản nằm vùng vẫn được sống thênh thang, vẫn được đối xử như một nhà văn, được quyền tự do phát biểu (Lý Đợi, talawas 10.5.2007) “Ngày Nay Vũ Hạnh” bên thắng cuộc – tên bộ sách của Huy Đức, thì vô cảm vênh váo, là tiếng nói hung hãn nhất trong Hội đồng đánh giá Văn Học Miền Nam tại Thư Viện Quốc Gia. Vẫn một cliché, vẫn một khẩu hiệu tung hô không suy suyển: “tác giả là gốc ngụy, nội dung tác phẩm là nô dịch phản động đồi trụy”. Vũ Hạnh xấp xỉ tuổi Võ Phiến, nay sắp bước vào cái tuổi 90 vẫn cứ nhân danh “đảng ta, chèo lái con thuyền chở đạo” vẫn không ngừng truy đuổi cả những thế hệ nhà văn trẻ nối tiếp có khuynh hướng tự do, điển hình qua bài viết phê phán Nhã Thuyên và Nhóm Mở Miệng với hai cây bút nổi trội là Lý Đợi và Bùi Chát (Thấy gì từ một luận văn sai lạc, Văn Nghệ 29/2013).
    Có lẽ tấn thảm kịch của Vũ Hạnh cũng như những người cộng sản tha hóa bước vào Thế Kỷ 21 là sự “ngụy tín / mauvaise foi” họ sống với hai bộ mặt, vẫn không ngừng hô hào cổ võ cho điều mà họ không còn chút tin tưởng.  Vũ Hạnh vẫn không ngưng nặng lời chửi rủa Mỹ, nhưng rồi vẫn gửi con cái trưởng thành sang sống ở Mỹ; Vũ Hạnh vẫn được ra vào nước Mỹ như một con người tự do.Vũ Hạnh, trong một lần qua Mỹ thăm con ở Nam California, đã viết thơ cho anh Trí Đăng tha thiết ngỏ ý muốn được gặp Võ Phiến, nhưng lời yêu cầu ấy đã bị Võ Phiến và gia đình dứt khoát từ chối.
 
NHỮNG ĐỨC TÍNH CỦA LÊ NGỘ CHÂU
     Tên tuổi Lê Ngộ Châu, nơi địa chỉ 160 Phan Đình Phùng đối với nhiều người là một  điểm hẹn đáng tin cậy. “Từ Calfornia, khi cần tìm lại một số bài viết từ trước 1975, tôi – người viết nghĩ ngay tới Lê Ngộ Châu và được anh cho biết sau 1975, tủ sách đầy đủ của toà soạn Bách Khoa anh đã không còn giữ lại được nhưng anh vẫn hứa sẽ cố giúp. Anh hỏi nhiều người, cuối cùng anh nhờ được LM Nguyễn Ngọc Lan, Dòng Chúa Cứu Thế và sau đó tôi đã có được đầy đủ các bài viết trên bộ báo Trình Bày; và rồi tuyển tập truyện ngắn Mặt Trận ở Sài Gòn do Văn Nghệ của anh Từ Mẫn Võ Thắng Tiết xuất bản lần đầu tiên ở hải ngoại 1996 do có sự nhiệt tình giúp đỡ của anh Lê Châu.”
    Đỗ Nghê / Đỗ Hồng Ngọc là cháu của nhà văn Nguyễn Ngu Í, vẫn còn nhớ tới lời khuyên của anh Lê Châu: “Anh Ngọc viết được gì thì viết ngay bây giờ đi (lúc đó Đỗ Nghê 60 tuổi, anh Lê Ngộ Châu đã 80), đừng để như tôi, biết bao nhiêu chuyện hay thú vị ở toà soạn Bách Khoa, định viết mà rồi không còn viết được nữa.”
    Tuy nói vậy, nhưng từ nhiều năm trước, mỗi lần có dịp gặp anh Lê Châu tôi đều có nhắc như một gợi ý là anh nên viết một hồi ký hành trình 18 năm với Bách Khoa, thì anh Châu chỉ dí dỏm trả lời bằng một câu hỏi khác: “Anh Vinh khi về bên đó hỏi Võ Phiến có cho tôi viết hay không?”  Ý tại ngôn ngoại, ai cũng hiểu rằng anh Châu muốn nói tới những quan hệ linh tinh giữa các nhà văn nam nữ và Bách Khoa thì như một trạm giao liên và Lê Châu thì rất kín đáo, không bao giờ nói ra.
 
     Chuyện dật sự bây giờ mới kể, là sau khi đã phải “hiến” thư viện Bách Khoa cho Hai Khuynh, Lê Châu nghĩ tới tình huống căn nhà 160 Phan Đình Phùng nơi anh cư ngụ bất cứ lúc nào có thể bị công an tới khám xét. Chuyện sau 1975 mà ai cũng biết, ngay như với Giáo sư Y khoa Phạm Biểu Tâm, một tên tuổi lớn của trí thức miền Nam mà chế độ mới đang rất cần ông trong những năm đầu nhưng họ vẫn không bao giờ tin ông. Bằng cớ là căn nhà của GS Tâm trên đường Ngô Thời Nhiệm, giữa thanh thiên bạch nhật, ít nhất đã hai lần bị công an thành phố xông vào lục xét. Và cứ sau một lần như vậy, không phát hiện được gì thì Thành Ủy đã lại đứng ra xin lỗi coi đó chỉ là hành động sai trái của thuộc cấp. Sự giải thích ấy thật ra chỉ là hai bản mặt của chế độ.
      Không thể nói anh Lê Ngộ Châu không hiểu cộng sản, nên còn bao nhiêu thư từ chung và riêng của Bách Khoa đã giữ gìn bấy lâu, anh cẩn thận xếp để vào trong hai hộp giấy, đem tới gửi nơi nhà chị Nguyễn Khoa Diệu Chi, vợ nhà văn Nguyễn Mộng Giác bên Thị Nghè. Năm 1990, khi chị Diệu Chi và con gái sắp đi đoàn tụ với chồng bên Mỹ, hàng trăm bức thư cả chung và riêng ấy – như một phần lịch sử của Bách Khoa, có tính văn học hay không, thì tất cả cũng đã trở thành tro than, thả về cho người trăm năm cũ.
 
     Trần Hoài Thư viết về chủ nhiệm Bách Khoa: “Lê Ngộ Châu mà tôi được biết trong vài lần ghé thăm tòa soạn Bách Khoa: (1) Mỗi tác giả đều có một hồ sơ riêng (folder), bài không đăng, có thể lấy lại từ tòa sọan. (2) Ông không ngại đọc bản thảo viết tay quá xấu, như trường hợp cá nhân tôi, vì ngón tay cầm viết bị miểng lựu đạn cắt nên chữ viết rất khó đọc, vậy mà ông không nề hà. Ông cầm cái kính lúp soi từng hàng chữ, rồi sửa lại chi chít, trước khi đưa chị Châu đánh máy, anh không hề than một tiếng… Điều đó chứng tỏ ông rất trân trọng sự đóng góp của người viết. Tôi nghĩ nếu Bách Khoa không có ông Lê Ngộ Châu thì không biết có Hoàng Ngọc Tuấn, Thế Uyên, Lê Tất Điều, Trùng Dương, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ? Riêng bản thân tôi, tôi sẽ nói nếu không có Bách Khoa, không có ông Lê Ngộ Châu thì chắc chắn tôi sẽ không có dịp đi vào con đường chữ nghĩa như ngày hôm nay.” [2]
 
VẪN MỘT LÊ NGỘ CHÂU CỦA HÒA GIẢI
    Năm 1994, Lê Ngộ Châu đưa người con gái thứ hai sang Mỹ định cư. Với 18 năm điều hành tờ Bách Khoa, anh Châu có rất nhiều bạn và Võ Phiến có lẽ là người anh thân thiết nhất. Trong chỗ rất riêng tư, khi biết giữa Võ Phiến và Nguyễn Mộng Giác, “có vấn đề” trong sự chuyển tiếp tờ Văn Học Nghệ Thuật sang tờ Văn Học. Cả hai cùng là người Bình Định,nhưng với cái tình đồng hương ấy cũng không sao tránh được trục trặc trong điều hành tờ Văn Học, khi mà Võ Phiến còn đứng tên chủ nhiệm và Nguyễn Mộng Giác là chủ bút. Rất bén nhạy, Lê Ngộ Châu cảm thấy ngay được sự “nghẽn mạch” giữa hai anh em. Anh sốt sắng đóng vai “hòa giải” – vẫn chữ của Lê Ngộ Châu.
    Rồi như một cái cớ, tôi tổ chức buổi họp mặt tiếp đón anh Lê Ngộ Châu tại một clubhouse, nơi tôi cư ngụ trên đường Bellflower, Long Beach. Dĩ nhiên có anh Võ Phiến và Nguyễn Mộng Giác và có khoảng hai chục thân hữu quen biết anh Lê Ngộ Châu và tạp chí Văn Học có mặt hôm đó: các anh Từ Mẫn Võ Thắng Tiết, Từ Mai Trần Huy Bích, Trúc Chi, Thạch Hãn Lê Thọ Giáo, Khánh Trường, Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân Huy… Chỉ riêng cái tình “tha hương ngộ cố tri” ấy, qua những trao đổi, như từ bao giờ anh Lê Ngộ Châu vẫn lối nói chuyện vui dí dỏm và duyên dáng, anh đã như một chất xi-măng nối kết mọi người. Và cũng để hiểu tại sao, trong suốt 18 năm, anh Lê Ngộ Châu đã điều hợp được tờ Bách Khoa, vốn là một vùng xôi đậu phức tạp như vậy.
    Đó là lần thăm Mỹ duy nhất 1994 của anh Lê Ngộ Châu, cũng như giám đốc Nhà sách Khai Trí, nhưng rồi cả hai đều chọn trở về sống ở Sài Gòn. Năm 2001, trong dịp trở lại thăm Đồng Bằng Sông Cửu Long, tôi gặp lại anh Lê Ngộ Châu nơi tòa soạn Bách Khoa ngày nào, anh vẫn nhớ và nhắc tới buổi gặp gỡ “hoà giải” hôm đó.
 

Hình 11: Ngô Thế Vinh tổ chức buổi họp mặt tiếp đón tiếp anh Lê Ngộ Châu 30/10/1994
tại một clubhouse trên đường Bellflower Long Beach, từ trái: Nghiêu Đề (1999), Võ Phiến (2015),
Bùi Vĩnh Phúc, Hoàng Khởi Phong, Hà Thúc Sinh, Nguyễn Mộng Giác (2012), Trúc Chi Tôn Thất Kỳ,
Như Phong Lê Văn Tiến (2001), Lê Ngộ Châu (2006), Lưu Trung Khảo (2015), Trần Huy Bích.
[photo by Ngô Thế Vinh]

Hình 12: Hình chụp tháng 7/1994 tại nhà anh chị Võ Phiến, từ trái, Ngô Thế Vinh,
Lê Tất Điều, anh chị Võ Phiến, anh Lê Ngộ Châu, Gs Trần Ngọc Ninh, Nguyễn Mạnh.
[tư liệu Ngô Thế Vinh]

Hình 13: Chủ nhiệm Bách Khoa Lê Ngộ Châu tới thăm nhà văn Linh Bảo
tại Thành phố Giữa Đường / Midway City  (1995); từ phải, Ngô Thế Vinh, Linh Bảo,
Lê Ngộ Châu, Võ Phiến. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

Hình 14: Anh Lê Ngộ Châu trong chuyến thăm bạn hữu ở California (1994),
từ trái, Dohamide / Đỗ Hải Minh (cây bút chuyên khảo về văn minh Champa trên Bách Khoa ngày nào),
Lê Ngộ Châu, Ngô Thế Vinh, Võ Phiến. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

Hình 15: Sau lần gặp anh Lê Ngộ Châu ở Mỹ (1994), 5 năm sau
gặp lại anh tại toà soạn Bách Khoa 160 Phan Đình Phùng, Sài Gòn,
anh Lê Châu còn rất tráng kiện và minh mẫn ở tuổi 76; từ phải: Lê Ngộ Châu và Ngô Thế Vinh.
[photo by Nghiêm Ngọc Huân 11/1999]
 
HÀNH TRÌNH ĐI TÌM BÁCH KHOA [6]
 
Hình 16a: Khi toàn bộ báo 426 số báo Bách Khoa được sưu tập và số hoá (2017)
thì Lê Ngộ Châu đã mất trước đó 11 năm, thọ 84 tuổi (1923-2006), với thời gian, tên tuổi
Lê Ngộ Châu vẫn toả sáng, được các cây bút cộng tác xem Lê Ngộ Châu như “linh hồn”
của báo Bách Khoa cho tới năm 1975. [5]

 
Hình 16b: trái, đĩa DVD chứa toàn bộ 426 số báo Bách Khoa được số hoá / digitalized
hoàn tất ngày 15/10/2017 do công trình sưu tập của chị Phạm Lệ Hương [6], là một thủ thư
lâu năm và anh Phạm Phú Minh chủ bút Diễn đàn Thế Kỷ. [5] phải, Phạm Lệ Hương và Phạm Phú Minh đang cắt bánh mừng bộ đĩa Bách Khoa đã thành tựu. Sau đó bộ báo Bách Khoa được lưu trữ / phổ biến miễn phí trên Thư viện Người Việt Online với link https://www.nguoi-viet.com/ThuVienNguoiViet/BachKhoa.php  [tư liệu Ngô Thế Vinh]
 
       Phục hồi Di sản Văn học Miền Nam là mối ưu tư của nhiều người, trong đó có phần tìm lại toàn bộ báo Bách Khoa và đó là công lao của hai khuôn mặt rất quen thuộc trong sinh hoạt văn học ở hải ngoại: chị Phạm Lệ-Hương và anh Phạm Phú Minh. Cả hai đã rất thành công trong việc tổ chức cuộc Hội Thảo về Tự Lực Văn Đoàn, Hội Thảo Trương Vĩnh Ký với việc xuất bản cuốn Kỷ yếu TLVĐ, Kỷ yếu Triển Lãm và Hội Thào Trương Vĩnh Ký là những tài liệu được đánh giá rất cao cả ở bên trong và ngoài nước. Cuộc hành trình đi tìm Bách Khoa không đơn giản, với công sức đóng góp của nhiều người khác nữa nhưng kết quả cuối cùng là toàn bộ 426 số báo Bách Khoa được sưu tập trọn vẹn, được số hoá và upload lên internet. Kể từ đây, Bách Khoa đã phục sinh, để cùng sống với những thế hệ mai sau xa hơn cả “tam bách dư niên hậu”. [6]
 
******
 
      Lê Ngộ Châu mất ngày 24/9/2006 năm Bính Tuất tại Sài Gòn, thọ 84 tuổi. Linh cữu được quàn tại Nhà tang lễ Thành phố trên đường Lê Quý Đôn Quận 3 Sài Gòn. Ông được an táng trong khu đất riêng của chùa Phổ Chiếu, Gò Vấp. [Hình 17b] Lê Ngộ Châu đã để lại rất nhiều tiếc thương cho những người từng được quen biết và làm việc với ông. Nguyễn Minh Hoàng, một dịch giả cộng tác viên lâu năm của Bách Khoa ngày nào, đã viết hai câu thơ viếng cảm động trong sổ tang của gia đình Lê Ngộ Châu:
       Duyên nợ Bách Khoa, anh vội ra đi, mây chiều gió sớm,
       Cuộc đời dâu biển, tôi còn ở lại, ra ngẩn vào ngơ…
 
Hình 17a: Bà Nghiêm Ngọc Huân Lê Ngộ Châu, và các ông Lê Phương Chi,
Trần Văn Chánh, Dũ Lan Lê Anh Dũng tại nhà tang lễ Thành phố Chủ Nhật 24/09/2006. [4]
 
Mang Viên Long, một nhà thơ trẻ miền Trung từng viết cho Bách Khoa, nay  vẫn còn nhớ ngày anh Lê Ngộ Châu mất: “Hôm nay – gần đến ngày giỗ thứ 5 của Anh, nơi chốn quê nhà quạnh hiu này – tôi lại nhớ anh: “Một nhà báo chân chính, tài năng , và vô cùng độ lượng đã suốt đời hy sinh cho sự nghiệp văn học! Xin được thắp cho anh một nén hương muộn nhưng rất chí tình.”  
 
Hình 17b: mộ bia Lê Ngộ Châu, anh được chôn cất trong nghĩa trang gia đình
nơi sân sau ngôi chùa Phổ Chiếu, địa chỉ : 93/1023 Nguyễn Văn Lượng, P.6, Quận Gò Vấp, Sài Gòn.
 [photo by L.A. 05/2021]
 
      Bài viết này như một tưởng niệm 98 năm sinh của anh Lê Ngộ Châu. Để kết luận, có thể nói rằng: nếu không có chủ nhiệm sáng lập Huỳnh Văn Lang, sẽ không có một tờ báo mang tên Bách Khoa từ 1957. Nhưng nếu không có được cái “nhẫn” và tài năng điều hành toà soạn 160 Phan Đình Phùng của Lê Ngộ Châu, sẽ không có một tạp chí Bách Khoa khởi sắc với 426 số báo với tuổi thọ 18 năm cho tới 1975 và cũng sẽ  không có một bộ báo Bách Khoa như một công trình văn hoá đồ sộ của miền Nam để lưu lại cho các thế hệ mai sau và chúng tôi vẫn mãi biết ơn Anh.
 
NGÔ THẾ VINH
California 26/06/2021
[Tưởng niệm 98 năm sinh Lê Ngộ Châu]
 
THAM KHẢO:
1/Ngô Thế Vinh. Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hoá.
Việt Ecology Press 2017
2/Trần Hoài Thư. Thư Quán Bản Thảo số 48, chủ đề viết về tạp chí Bách Khoa
https://tranhoaithu42.com/tqbt-so-48-tap-chi-bach-khoa/
3/Đặng Tiến. Ông Lê Ngộ Châu, 160 Phan Đình Phùng.
https://damau.org/9238/le-ngo-chau-160-phan-dinh-phung
4/Dũ Lan Lê Anh Dũng. Vĩnh biệt ông Bách Khoa Lê Ngộ Châu. http://vietsciences.free.fr  
5/ Phạm Phú Minh. Bách Khoa điện tử Toàn tập [từ số 1 tới 426], Thư Viện Người Việt Online. https://www.nguoi-viet.com/ThuVienNguoiViet/BachKhoa.php
6/ Phạm, Lệ-Hương. Hành trình đi tìm Bách Khoa. Phỏng vấn cá nhân.
Huntington Beach 21/6/2021. – p.16
7/ Huỳnh Văn Lang, Nhân chứng một chế độ, Một Chương Hồi ký, Tập Ba ([trang 208 – 219). Tác giả Xuất bản 2001