nguyễnxuânthiệp
Gánh phở ngày xưa
Mùa thu
đã về trên đầu phố… Hôm nay xin đăng lại bài này đặc biệt để tặng bạn văn Huy
Phương người đã có những bài rất hay
viết về phở trên những Tạp Ghi của mình.
Mùa thu và phở. Gớm
cái ông Nguyễn này bộ hết chuyện nói rồi sao mà kết hợp mùa thu với tô phở. Dạ
thưa, thú thiệt Nguyễn này đôi khi cũng bí đề tài, đâm ra nói chuyện trên trời
dưới đất, không đâu vào đâu cả và cũng chẳng theo một logic nào ráo trọi. Thế
nhưng, chuyện mùa thu và phở có cái lý riêng của nó đấy. Cũng như chuyện mùa
thu và... thịt chó ấy mà. Ôi chao... Vị nữ nhân tú lệ của vùng Wuthering Heights sẽ lại la lên: Ông Nguyễn ơi, nhà
văn nhà báo gì mà dung tục. Mùa thu đẹp thế, rực rỡ thế, vậy mà liên tưởng tới
thịt chó và tô phở. Rõ ràng là tham ăn tục uống.
Quả đúng là dung tục.
Nhưng không phải tự dưng Nguyễn xắn quần vào chợ đâu. Do người ta nói, và
Nguyễn bắt chước nói leo đấy thôi. Mà người nói đó không ai khác ông bạn Châu
Liêm của Nguyễn. Để rồi có dịp tới đây Nguyễn sẽ nói về ông bạn CL và bài văn
Mùa Thu và Thịt Chó của hắn ta.
Bây giờ chỉ xin tản mạn (tức bàn lan man) về
Mùa Thu và Phở.
Này nhé, xin các bạn cùng Nguyễn tưởng
tượng chút xíu, nhé. Lúc này, nơi Nguyễn ở là 4, 5 giờ chiều. Trời nhiều mây,
gió thu lành lạnh, lá vàng bay trên đường. Bụng chợt thấy đói. Bèn rủ bạn ra
quán phở ở ngã tư Plano-Beltline làm một tô chín gân vò viên nóng hổi. Sướng ơi
là sướng. Mùa thu và phở đấy, một bản ballad rộn ràng. Ôi, mùa thu. Ôi, phở.
Nói tới phở, tức là nói tới những gì thân
thiết gần gũi nhất của đời sống. Nói tới tâm tình và văn hóa. Sao không? Ai
không nhớ bát phở ăn hồi nhỏ, ở một góc phố nào đó khuất sau màn sương của trí
tưởng. Bát phở của một gánh phở rong thơm lừng đường phố. Và qua màn sương vừa
nói, lung lay ánh lửa của nồi nước lèo trong khuya. Rồi tiếng rao theo gió lạnh
chạy dài trên khu phố. Tô phở ăn vào lúc khuya khoắt ấy trong đêm mùa thu hay mùa
đông ngồi học bài, thấy nóng ấm cả người. Vị ngọt của nước phở, cay của ớt,
nồng của hành khiến cơ thể và trí óc bàng hoàng. Hồi ức của tô phở hồi còn nhỏ
tỏa ra ánh sáng của yên vui và hạnh phúc, điều sau này ít thấy trong đời. Sau
này, qua cuộc "đổi đời" (chứ không phải "lên đời" như mấy
ông bên nhà), trên đường lưu lãng, phở và hồi ức về phở càng thêm nồng thêm ấm.
Cho đến nỗi nhà văn Huy Phương -người cũng có tâm hồn ăn uống như Nguyễn- phải
thốt lên: "Những ngày đi đâu ở xa về, qua một chặng đường dài trên máy
bay, xuống tới đất, làm một tô phở là thấy tỉnh cả người. Mùi vị của phở làm
cho người ta đói, và làm cho những người xa quê thấy nhớ nhà. Ở đất khách,
nhiều vùng dân mình không tập trung đông đúc, người ta phải lái xe năm bảy chục
miles để kiếm một tô phở, ăn cho đỡ... thèm".
Hôm xưa, trong hội thoại trên đài về việc ăn
phở từ trong nước ra đến nước ngoài, Nguyễn tôi có nhắc tới những tô phở ở Sài
Gòn. Có thể nói, rất chủ quan và đầy thách thức, phở Sài Gòn là ngon nhất. Ấy
là vào thời điểm trước 1975. Phở Pasteur, Hiền Vương, Công Lý. Phở 79, phở Xe
Lửa, Tàu Bay. Sau này có Phở Quyền, Phở 2000 -nơi nghe nói Bill Clinton từng
ngồi ăn khi đến thăm Việt Nam cách đây mấy năm. Ngoài ra, ở Sài Gòn xưa ấy, còn
có xe phở của Bà Nhẫn ở trước nhà đường Hòa Hưng, kẻ này và tiện nội không thể
nào quên được. Những đêm mưa Sài Gòn, ngồi ăn tô phở của Bà Nhẫn, có thêm đĩa
xíu quách thơm lừng, phải nói hạnh phúc nằm chính trong khứu giác và vị giác
của ta khi nó được đánh thức tưng bừng.
Phở từ Hà Nội xuôi Nam, tới Sài Gòn rồi tỏa
đi các nơi khác. Con đường đi của phở tất yếu là như vậy. Ai không đồng ý thử
chứng minh ngược lại xem. Từ Sài Gòn, phở đến Mỹ Tho. Những năm cuối thập niên
50 và đầu 60, kẻ này dạy học ở đó thấy có tiệm phở của một ông Bắc Kỳ to béo,
râu ria, là có vị phở hơn cả. Đó là Phở Bắc Hải, nằm trên bờ sông, chỗ gần Cầu
Quay. Ngoài ra, sau lưng trường Nguyễn Đình Chiểu, ở kiosk sát bến xe, cũng có
một tiệm phở. Phở ở đây có mùi và vị củ cải, và bánh phở là bánh hủ tíu. Không
có gì gọi là chính thống cả, hoàn toàn Nam Kỳ, ấy vậy mà ăn vào rất ngon. Các
bạn cùng dạy học ngày ấy -Lâm, Hy,
Ruyên... hẳn chưa quên tiệm phở này. Còn cô học trò, hiện là cô giáo ở Irvine,
ngày ấy mới mười ba, giờ ra chơi còn buộc hai vạt áo lại nhảy lò cò với bạn
dưới bóng cây me tây, cô làm sao biết được tiệm phở đó -cũng gần nhà cô thôi,
chừng mươi phút đi bộ. Giờ đây, làm sao Nguyễn này về lại bến sông xưa, và biết
tiệm phở ấy còn không?
Ở Đà Lạt thời của Nguyễn và các bạn cũng có
mấy tiệm phở ngon. Trước hết là phở Ga Xe Lửa, nơi mỗi sáng các giáo sư Võ Bị -những
Hứa Hoành, Nguyễn Thạc, Nguyễn Ngọc Khánh, Nguyễn Minh Diễm, Đào Phú Thọ (nhà văn
Đào Trung Đạo bây giờ)... thường ghé ăn cho ấm bụng trước khi vào lớp giảng
bài. Rồi phở Bằng đường Hàm Nghi, sau này có thêm tiệm phở Cao Nguyên ở Khu Hòa
Bình. Còn nữa, phở Ngọc Lan ở bến xe. Ở đây, đặc biệt miếng thịt chín gân thái
rất to, và tô phở lúc nào cũng đầy ắp, hậu hĩnh. Nói tới phở Đà Lạt mà quên
tiệm phở của ông Chín dưới chân Đài Phát Thanh là cả một thiếu sót lớn. Không
biết Uyên và Phương mỗi tuần lên thâu chương trình Mây Cao Nguyên có ghé ăn tô
phở ông Chín không. Chứ còn như Yến và
Ngọc Hân thì ăn thường xuyên, chính mắt kẻ này trông thấy. Ăn sáng, ăn trưa và
có khi ăn chiều. Phở không ngon lắm, nhưng lúc bụng đói, làm một tô cũng thỏa
dạ. Rồi nhìn chim én lượn bay dưới mái Hotel du Parc...
Phở Sài Gòn, phở Mỹ Tho, phở Đà Lạt -đối với
kẻ này- là như thế. Còn thiếu sót rất nhiều, cố nhiên, nhưng đó là những nơi
đầy bóng vang của tuổi xanh tôi, không bao giờ tìm lại được. Từ ấu thơ, phở đã
cùng tôi đi qua suốt hành trình dài dặc của kiếp nhân sinh -vui có, nhưng buồn
thì vô số kể. Giờ đây, ở xứ người, lại ăn phở.
Ôi, mùa thu và Phở. Giá có Tô Thẩm Huy ở đây,
Nguyễn sẽ mời ông ra Phở Bắc ăn một tô chin gầu béo ngậy, thơm lừng, uống cạn bình
trà xanh do chủ nhân khoản đãi, rồi bắt ông ngâm Thu Hứng của Đỗ Phủ. Lúc bấy
giờ nhìn ra sẽ thấy, trong trí tưởng, “Lưng
trời sóng rợn lòng sông thẳm / Mặt đất mây đùn cửa ải xa.”
Tháng
11. 2015
NXT
No comments:
Post a Comment