Nguyên Giác
Ngài
bhikkhubodhi. Source: Internet
Trong khi có những người mang hai quốc tịch một cách
thoải mái… lại rất hiếm người tự nhận là theo hai tôn giáo cùng một lúc. Hiển
nhiên, dầu với nước rất khó hòa hợp. Bạn cứ nhìn lại những cuộc thánh chiến nhiều
ngàn năm nay là biết: không dễ có thái độ bao dung để theo cùng lúc hai tôn
giáo một cách hòa hợp. Thực tế lịch sử cho thấy, bao dung nhất vẫn là Phật giáo
– một tôn giáo chưa từng khơi dậy thánh chiến bao giờ. Nhưng rồi một số nơi ở
Miến Điện vẫn xảy ra xung khắc giữa Phật tử bản địa và người Hồi giáo Rohinya
vào tỵ nạn.
Nhìn về phía Hoa Kỳ, có một
hiện tượng dị thường: rất nhiều người Do Thái trở thành Phật tử, và theo cả hai
tôn giáo cùng lúc.
Một Phật Tử Do Thái Giáo,
tiếng Anh gọi là Jewish Buddhist (còn viết tắt là Jewbu, Jew-Bu, Jewboo, Jubu,
Buju, vân vân.), theo định nghĩa từ Wikipedia là một người trưởng thành
trong môi trường Do Thái Giáo và tu tập
một phương cách thiền định của Phật Giáo.
Chữ Jubu đầu tiên sử dụng
trong tác phẩm The Jew in the Lotus
(1994) của tác giả Rodger Kamenetz. Trong vài trường hợp, chữ Jubu có thể chỉ
cho người thực tập cả hai tôn giáo đó; một số trường hợp khác, chỉ có nghĩa là
người sắc tộc Do Thái nhưng tôn giáo chính yếu là Phật Giáo. Trong trường hợp
khác, Jubu là người gốc Do Thái có quan tâm về Phật Giáo hay thiền tập, hoặc đã
trở thành Phật Tử thuần thành.
Và không chỉ sống với hạnh
nguyện Phật Tử, rất nhiều người Jubu đã trở thành cột trụ cho Phật Giáo Hoa Kỳ.
Vị Tam Tạng Pháp Sư nổi tiếng
trong giới Phật học Hoa Kỳ cũng là một Jubu: Bhikkhu Bodhi ra đời năm 1944 tại
Brooklyn, New York, từ ba mẹ cùng là sắc tộc Do Thái. Nhiều thiền sư hay trí thức
Phật Tử Hoa Kỳ nổi tiếng khác cũng mang dòng máu Do Thái trong người: Ayya
Khema, Thubten Chodron, Philip Kapleau, Jack Kornfield, Leonard Cohen, Surya
Das, Richard Davidson, Robert Downey Jr., Mark Epstein, Anthony Ervin, Zoketsu
Norman Fischer, Allen Ginsberg, Tetsugen Bernard Glassman, Philip Glass, Craig
Taro Gold, Natalie Goldberg, Daniel Goleman, Joseph Goldstein, Dan Harris, Jack
Kornfield, Larry Rosenberg, Sharon Salzberg, Nyanaponika Thera, vân vân.
Trong các Jubu đó, nổi bật
cũng có nữ tài tử Goldie Hawn, người sáng lập hội Hawn Foundation để dạy pháp Thiền Chánh Niệm tại nhiều quốc gia
trên thế giới.
Và một Jubu nổi bật khác
trong các trường đại học y khoa: Jon Kabat-Zinn, người soạn ra chương trình 8
tuần lễ chánh niệm giảm căng thẳng để chữa bệnh thân và tâm có tên là
Mindfulness-based Stress Reduction (MBSR) đang được áp dụng tại nhiều bệnh viện,
trường học, nhà tù...
Như thế, cho thấy sức quyến
rũ mạnh mẽ của Phật giáo đối với học giới Hoa Kỳ, đặc biệt với người Mỹ gốc Do
Thái. Và rồi với nhiệt tâm tu học, nhiều vị trong đó đã trở thành các Phật Tử cột
trụ hoằng pháp.
Có một câu chuyện được kể,
ghi lại trong tác phẩm “Awakening the
Buddha Within: Eight Steps to Enlightenment” (Đánh Thức Đức Phật Trong Tâm: Tám Bước Tới Giác Ngộ) nơi trang 4, ấn
bản 2009 của tác giả Lama Surya Das, một nhà sư người Mỹ gốc Do Thái tu học
theo truyền thống Phật Giáo Tây Tạng.
Chuyện được hiểu là để cười
cho vui, nhưng đã cho thấy nhiệt tâm tu học của một thanh niên Mỹ gốc Do
Thái và trở thành một đạo sư trên các đỉnh
Hy Mã Lạp Sơn. Đọc chuyện này, có thể hiểu là để cười cho vui, những cũng có thể
là truyện đời thật của một vị sư nào đó, nhưng có lẽ vị đó không muốn đem chuyện
nhà ra kể.
Bà cụ Margie Smith đi tìm
con đã biến mất từ lâu, sau nghe phong thanh chi đó, mới tới một đại diện văn
phòng du lịch.
Bà Smith nói, “Tôi phải
lên Hy Mã Lạp Sơn để nghỉ hè. Tôi phải nói chuyện với vị đạo sư nơi đó.”
Người đại diện văn phòng
du lịch nói, “Hy Mã Lạp Sơn, thưa bà Smith! Bà có thực muốn nghỉ hè trên đó? Sẽ
là chuyến đi dài đó, ngôn ngữ dị biệt nữa, thức ăn rất là tức cười, các xe bò
hôi rình khắp nơi. Sao bà không đi London, hay Florida? Thời điểm này trong
năm, Florida rất là tuyệt vời.”
Bà Smith kiên quyết, không
đổi ý. Bà phải đi Hy Mã Lạp Sơn để nói với một đạo sư. Do vậy, bà Smith, mặc bộ
trang phục màu xanh da trời đẹp nhất, hướng về Phương Đông, đi một chuyến bay,
rồi qua một chặng đường xe lửa, rồi một chặng xe buýt, và rồi ngồi trên một chiếc
xe bò hôi rình, cho tới khi bà tới một tu viện Phật Giáo xa xôi ở Nepal.
Nơi đó, một vị lạt ma già
trong áo nhà sư màu đỏ vàng bước ra, nói với bà rằng vị đạo sư bà tìm đang ngồi
thiền trong một hang động trên đỉnh ngọn núi, và không ai có thể quấy nhiễu.
Nhưng bà Smith đã đi từ gần như tận cùng địa cầu, bà quyết tâm không bỏ cuộc.
Cuối cùng, vị lạt ma già mới
nói, “Thôi thì. Nếu tín nữ phải gặp, thì gặp. Nhưng có một số quy định. Tín nữ
không thể ở lâu, và khi nói với vị đạo sư, tín nữ không có quyền nói quá 10 chữ.
Vị đạo sư kia đang sống nơi đó đơn độc, trong im lặng và trong thiền định.”
Bà Smith đồng ý, và nhờ
giúp đỡ từ một vài vị lạt ma, nhà sư và những người mang hành lý, bà bắt đầu
trèo lên núi. Chặng trèo núi gian nan, nhưng bà không bỏ cuộc. Với nỗ lực tận
cùng bình sinh, bà trèo tới đỉnh núi xong, tới trước cổng hang động, nơi vị đạo
sư ngồi thiền bên trong. Nhiệm vụ hoàn tất, bà Smith đứng nơi cổng hang động,
và với giọng nói rõ ràng bằng Anh ngữ, từng chữ, bà nói một câu mà bà chờ đợi để
nói từ nhiều năm, từ khi con bà bước ra khỏi nhà:
“Sheldon.... Đủ rồi. Má
đây con. Về nhà đi con.”
Nhà sư Lama Surya Das cho
câu chuyện ngưng ở đó. Người ta không rõ vị đạo sư có rời thiền định để bước ra
hay không. Nhưng chuyện này được kể nhiều trong giới Jubu, không rõ thực hư bao
nhiêu phần trăm.
Theo nhà văn Ellen
Frankel, viết trên trang Huffington Post ngày 24 tháng 1/2013, rằng ước tính tới
30% Phật Tử Tây Phương (hiểu là Hoa Kỳ, Anh, Pháp…) có mang trong người dòng
máu Do Thái.
Nhà khoa học gốc Do Thái nổi
tiếng nhất thế giới là Albert Einstein. Ông sinh trong một gia đình Do Thái thế
tục tại Đức quốc, học bậc tiểu học trong một trường Công giáo ở Munich. Có một
số email thường gặp trong cộng đồng người Việt nói rằng Einstein đồng ý với
quan điểm Phật Giáo, một số khác nói rằng ông theo Ky Tô Giáo. Thực sự phức tạp
hơn nhiều.
Einstein dùng nhiều nhãn
hiệu để tự nói về quan điểm tôn giáo của ông (https://en.wikipedia.org/wiki/Religious_and_philosophical_views_of_Albert_Einstein) trong đó nói
rằng ông chủ trương "agnostic"
(bất khả tri), "religious nonbeliever" (kẻ không tin vào tôn giáo),
và là một người tin vào "Spinoza's God" (mô hình Thượng Để của
Spinoza, nghĩa là Thượng Đế như nguyên lý, chứ không phải vì Thần Linh hình người).
Einstein nói rằng ông không tin vào những câu chuyện trong Kinh Thánh Ty Tô ông
học thời nhỏ, và Do Thái Giáo cũng chỉ là dị đoan rất trẻ con (... the Bible a collection of honourable, but
still primitive legends which are nevertheless pretty childish -- link: https://www.theguardian.com/science/2008/may/12/peopleinscience.religion). Có lúc Einstein tự nói về mô hình Thượng Đế như
"pantheistic" (phiếm thần, nghĩa là Thượng Đế đồng nhất với vũ trụ),
nhưng rồi có lúc ông nói là ông cũng không phải phiếm thần.
Có một câu nói thường được
trích dẫn và ghi là của Einstein, nhưng nhiều nhà nghiên cứu nói rằng Einstein
chưa bao giờ nói câu này: “Tôn giáo của
tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ… Nếu có bất kỳ tôn giáo nào đáp ứng được
nhu cầu khoa học hiện đại, đó sẽ là Phật Giáo.” Thực tế, người ta không hề
tìm ra câu nói đó trong bất kỳ tác phẩm nào của Einstein.
Theo giáo sĩ Do Thái Giáo
Rabbi Rami trong bài viết trên tạp chí Spirituality
& Health và đăng lại trên trang nhà riêng của ông, có nhiều lý do Phật
Giáo quyến rũ nhiều người gốc Do Thái.
Một số lý do quan trọng nhất
là, theo Rabbi Rami:
-- Người ta có thể tu học
Phật pháp mà không cần học tiếng Pali (Nam Phạn), tiếng Sanskrit (Bắc Phạn), Tạng
ngữ, Hoa ngữ, Nhật ngữ. Trong khi đó, theo Do Thái Giáo mà không học cổ ngữ
Hebrew là hỏng.
-- Phật Giáo là vô thần,
không tin một Thượng Đế Tạo Hóa; trong khi hầu hết (nếu không phải đa số) người
Do Thái Giáo Hoa Kỳ nghĩ rằng Đấng Thượng
Đế Tạo Hóa kia đã chết trong lò thiêu người ở Auschwitz.
-- Không giống như tín đồ
Công Giáo, Tin Lành và Hồi Giáo, Phật Tử không bao giờ tìm cách cải đạo, ép buộc,
tra tấn và tàn sát người Do Thái Giáo.
-- Bạn có thể tu học Phật
Pháp mà không cần chính thức quy y.
-- Phật Pháp có thể thử
nghiệm, có thể ứng dụng… và có thể chứng minh. Phật Tử nói về bản chất khổ, về
dứt khổ, về tương tác (duyên khởi) của đời sống, về vô thường. Tất cả những điều
nói lên đó, ai cũng có thể chứng ngộ qua thiền tập. Trong khi Do Thái Giáo nói
về Thượng Đế Tạo Hóa, về dân tộc Do Thái được Chúa chọn riêng, về đức tin mà
không cần chứng minh. Nhưng đức tin đó không còn bao nhiêu ở người Do Thái Hoa
Kỳ. Phật Giáo nhiều phần là khoa học, hơn là tôn giáo, và như thế phù hợp với
tâm thức người Do Thái Hoa Kỳ. Đó là lý do dân Do Thái Hoa Kỳ ưa thích Phật
Giáo.
Tới đây, chúng ta có thể
nghĩ tới một tương lai: sẽ có thêm rất nhiều người Jubu rời bỏ luôn Do Thái
Giáo để sống thuần túy là Phật tử, vì với thời gian, khoa học sẽ ưu thắng hơn,
trong khi Phật Pháp sẽ hiển lộ thêm sức quyến rũ thực tiễn, lợi ích và khả dụng.
Phong trào đưa thiền tập vào sử dụng ở bệnh viện, trường học, quân đội, nhà tù…
cũng là một cách tiếp cận mới. Không cần cải đạo ai, không cần ép buộc ai…
trong khi hạnh phúc và lợi ích ai cũng có thể chứng nghiệm được tức khắc, ngay
khi tu học Phật pháp, ngay ở đây và bây giờ.
Như thế, người Do Thái Hoa
Kỳ không cần cầu nguyện Đấng Tạo Hóa nào, không cần mơ tới thiên đàng nào, những
đấng và cõi mà Albert Einstein gọi là chuyện của trẻ con.
Và trong cương vị cá nhân,
mỗi khi người viết mở ra những bản Anh dịch của Nyanaponika Thera, của Bhikkhu
Bodhi... sâu thẳm trong lòng vẫn biết ơn các Phật Tử Jubu vô cùng tận -- họ đã
sống chánh pháp, và rồi đã hộ pháp, đã hoằng pháp trong những cách siêu xuất
tuyệt vời.
NG
No comments:
Post a Comment