Monday, July 31, 2017

VĂN BÚT NỬA ĐỜI. HUẾ TỪ PHONG VŨ


Hoàng Hương Thủy

Áo dài Quốc Học một thời

Chị Thủy, chị của tôi.
Rất ngắn, không có chị Thủy, tôi không phải là tôi ngày hôm nay. Không có bút, không có văn, không có nhạc, và
có lẽ cũng không có tâm, không có lòng trong tôi.
Rất ngắn, vì không thể viết hết những gì muốn viết về chị.
Chỉ biết, bây giờ - thấy CHỊ như thấy MẠ.
LoLo


“Huế Từ Phong Vũ” là tựa đề một bài thơ của Hoàng Xuân Sơn trong tập thơ “Huế BuồnChi”.
Tôi mượn lời và ý của bài thơ để dễ dàng đến với Huế, với Đồng Khánh và Quốc Học khi mà tôi đã rời xa nơi chốn thương yêu ấy cũng đã hơn 45 năm. Vậy xin cho tôi được trở lại Huế, làm học sinh của Huế, ngày hai buổi dầm mưa đến trường, áo dài trắng sũng nước, chiếc nón lá phập phồng muốn bay. Rét mướt và ướt át, thế mà sao lại thấy quá vui và ấm áp? Có lẽ vì trên con đường Lê Lợi ấy lũ lượt bầy con gái Đồng Khánh và lũ con trai Quốc Học, rổn rảng nói cười hay e ấp kéo vành nón để che giấu đôi mắt vương tơ khi có một chàng Quốc Học đạp xe qua với ánh nhìn lung linh sương khói.

Nhớ Huế, nhớ trường học là nhớ mùa mưa bão lụt lội. Sung sướng nhất là tin mưa gió nặng nề, Đập Đá ngập nước, học sinh được về sớm… để rồi con đường học trò ấy đón nhận bầy con gái áo trắng tuôn ra từ các cổng trường như những cánh bướm chập chờn tung bay…

“Khi những cành cây gió đổi chiều
Tôi về nghe nặng bước xiêu xiêu
Hỡi ơi mưa gió là phong vũ
Mà suốt đời em tôi đã yêu.”

Hoàng Xuân Sơn gọi Huế dấu yêu một thời Đồng Khánh Quốc Học với tiếng “em” ngọt mềm, với tình yêu và nỗi nhớ khôn nguôi. Ngày xưa tôi yêu tiếng “em” của Vũ Thành trong “Giấc Mơ Hồi Hương” khi nhạc sĩ giã từ Hà Nội. Tiếng gọi “em Hà Nội” đẹp và tình như nỗi bịn rịn của người Hà Nội khi phải rời xa thành phố dấu yêu của trai thanh gái lịch. “Nhìn em mờ trong sương khói, bước đi nhưng chưa nỡ rời, lệ sầu tràn mi, đượm men cay đắng biệt ly…”
Hoàng Xuân Sơn đã làm sống lại nhạc tình muôn thưở của một nhạc sĩ tài danh. Cám ơn Hoàng Xuân Sơn đã cho tôi trở về Huế, về với Đồng Khánh Quốc Học trong một cuộc tình lỡ “Tóc mai sợi ngắn sợi dài, lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm.”

Cựu học sinh Quốc Học bây giờ đi tở mở khắp nơi. Các bạn cựu học sinh Quốc Học trong nước muốn gom lại những mảnh tình cho Huế, cho Quốc Học thành một khối tình của cái thời mới lớn, lãng mạn và đẹp nhất trong suốt cả cuộc đời để ghi dấu vào một tập san, mở rộng níu kéo bạn bè từ khăp nơi viết về Huế, về Quốc Học với những dấu ái khó quên…
Cô Diệu Trang dặn viết với chủ đề Quốc Học. Thật quá khó cho lũ con gái chúng tôi vào đầu thập niên 60, vì chúng tôi chỉ có một năm học cuối cùng ở đó. Lớp Đệ Nhất Quốc Học là niềm mơ ước của lũ học trò Đệ nhất cấp, của Đệ Tam và Đệ Nhị. Đàn anh, đàn chị mà! Quá oai!
Trước chúng tôi, các lớp đàn chị được học Quốc Học đến 3 năm vì Đồng Khánh chưa có cấp 3 Tú Tài. Sau lớp chúng tôi 3 năm, các cô đồng Khánh đàn em không phải rời Đồng Khánh, không được qua Quốc Học học chung với con trai, vì Đồng Khánh đã trưởng thành, lớn mạnh, có đủ thầy, cô, và học trò cho lớp Đệ Nhất.
Vào Đệ Nhất Quốc Học sau khi đã trầy vi tróc vảy để đậu được cái bằng Tú Tài bán của năm Đệ Nhi Đồng Khánh, chúng tôi đã phải vạch chương trình cho học hành, chăm chỉ.
Phải đọc nhiều sách, tham khảo nhiều bài giảng được các Thầy, Cô nghiên cứu, giảng dạy và in thành sách. Cho nên năm Đệ Nhất Quốc Học, chúng tôi đã bớt vui chơi, hết mộng mơ và khép kín trái tim cho Học, Thi đỗ và tìm đường đi vào Đại Học. Chỉ có đỗ đạt mới tiến thân được thôi! Xin chào buồn năm phút, vì chúng tôi đang vào tuổi 17, 18, 19, tuổi của trái tim mới biết rung động, xúc động và cảm động. Biết yêu, biết thích …
Học Quốc Học có nghĩa là chúng tôi lần đầu tiên học chung với con trai sau sáu năm tu hành trong ngôi trường nữ Đồng Khánh. Áo trắng, tóc dài tung bay như bướm lượn dưới các tàng cây phượng xanh um, đỏ ối, hay khẳng khiu của bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông. Đẹp thật nhưng thiếu tình vì thiếu bóng dáng con trai áo trắng quần xanh, tóc ngắn…
Cũng có vài ngoại lệ. Vài bạn trai gái đã biết nhìn nhau, rung động rồi yêu nhau. Đó là những cặp tình nhân đẹp nhất đối với chúng tôi hồi đó. Nhìn họ đi bên nhau, áo trắng nàng bay vướng chân chàng, đôi mắt ướt sũng yêu đương. Nhưng tôi nghĩ họ chỉ dám nhìn nhau, đi bên nhau, và đã để cho đôi tay buồn bã buông thõng hay ôm chặt cặp sách vào người. Chúng tôi nhìn họ lòng cũng rộn ràng ước mơ. Nhưng thôi hãy khép chặt bờ mi, ngậm ngùi thương tiếc một thời đang đẹp sắp đi qua…
Rồi cũng thi đỗ được Tú Tài 2. Đa số các bạn ở lại học Đại Học Huế. Đã có nhiều phân khoa: Sư Phạm, Văn Khoa, Khoa Học, Luật, Y khoa.
Những đôi nhân tình lại tiếp tục bên nhau trong giảng đường. Đại Học Huế lại bắt đầu đón nhận những tình yêu mới, chững chạc hơn, gắn bó hơn, vì các bạn trai gái đã lớn, đã biết trách nhiệm cuộc đời mình. Họ yêu nhau và cùng nhau nhìn về một hướng. Lại học hành, đỗ đạt, ra trường. Nhưng họ vẫn bên nhau, yêu nhau và nhìn đến một tương lai màu hồng cho một ngày mai…

Bây giờ nhìn lại, dù đi xa hay ở lại trong nước, những chuyện tình Đồng Khánh-Quốc Học đã đơm hoa, kết trái. Ở đâu cũng thấy những cặp “ôn mụ” rất Huế, rất Đồng Khánh-Quốc Học, thành vợ thành chồng, sinh sôi nẩy nở với những đứa con ngoan giỏi, rồi đến các cháu…
Dòng đời xuôi chảy, lũ chúng tôi đã vào tuổi 65, 66, 67. Con cái đã thành thân, thành nhân.
Rồi cũng chồng chồng, vợ vợ, con con… để cho tất cả chúng ta bây giờ đang được làm Ôn Mệ, nội và ngoại.

Tôi không có duyên với Đại Học Huế vì tôi đang ở trong một hoàn cảnh khó khăn. Anh chị em chúng tôi không thể cứ bám vào người mẹ vất vả kiếm sống nuôi con. Không muốn thivào những ngành nghề Trung cấp thì phải ráng tự xoay xở để vào học Đại Học. Nhiều ưu tư và trăn trở đã làm cho tuổi hoa niên của tôi không còn vui đẹp nữa. Và tôi đã chọn con đường vào học Đại Học Saigon vì ở Saigon tôi có việc làm ở nhà xuất bản Trường Thi. Chị họ tôi đã giúp tôi làm việc cho chị và dạy kèm hai đứa con của anh chị. Nhà xuất bản Trường Thi là nơi đã giúp đỡ rất nhiều sinh viên có điều kiện học hành, đỗ đạt và được tuyển chọn vào ban giáo sư để soạn bài, ra sách cho học sinh trung học.
Sinh viên Huế học hành vui vẻ, hăng say vì có đôi có bạn, có tinh thần học tập. Xứ Huế nhỏ, gọn và đẹp. Đại Học Huế đã gắn liền được bao cặp tình nhân xuất sắc để rồi khi ra trường thành vợ thành chồng, làm việc giỏi, xây dựng tương lai con cái đàng hoàng, sự nghiêp vững vàng và luôn tiến thân. Tôi có một vài đôi bạn vợ chồng đang là…
Học Đại Học Saigon là vô cùng cô đơn, và tôi đã thấm thía cái cô đơn ấy trong mấy năm.
May mà rồi tôi cũng kiếm được một chàng Quốc Học mà lứa của anh ấy hồi đó là học trò trường Khải Định (Quốc Học sau này). Có được một chàng Huế Quốc Học là yên tâm, nhưng Huế với chúng tôi cứ càng ngày càng xa. Chúng tôi làm việc ở Nha Trang, Đà Lạt và Saigon nên ít có dịp trở lại Huế

“Đời đẩy tôi đi những phố câm
Em biết nơi mô tội nghiệp giùm
Ôi chút phong tình thơ ấu cũ
Là bão tan dần đôi cánh chim”

Càng xa Huế tôi lại càng nhớ Huế và nhớ khôn nguôi hai ngôi trường yêu dấu mà Quốc
Học là điểm hẹn cuối cùng của một thời tuổi trẻ.

“Tôi nhớ hơn là chim nhớ mây
Nhớ mùa thu, nguyệt xuống heo may
Nhớ ơi, xa quá… ơi là nhớ
Mưa giọt vô tình trong đêm nay.”

Tôi nhớ bạn tôi, rất nhiều trong ngôi trường lịch sử này. Đáng lẽ tôi vào Đệ Nhất niên khóa 60-61 với Ấu Lăng, Ngọc Trinh, Ngọc Túy, Nhụ Hương, Hoàng Lan, Minh Túy, … nhưng vì hoàn cảnh tôi đã bỏ dở cơ hội. Năm sau, niên khóa 61-62 tôi mới chính thức vào học Quốc Học. Năm trước tôi phải đi xa, vào Saigon lo vài công việc nhà và chữa bệnh đau đầu.

Niên khóa này tôi đã gặp Bích Diễm, Lê thị Hàn, Phước Định, Quyên, Diệu Anh, và một số bạn cũ Phương Thảo, Bích Đào, Nam Trân, Kim Hương, Minh Nguyệt, Xuyến …
Bạn trai cũng khá đông nhưng tôi chưa thuộc tên hết. Tôi nhớ có Phương, Thuận, Bửu Chánh, Bửu Dũng, Tôn thất Dũng, Anh Tuấn … và một vài chú Điệu đi tu học chung.
Đệ Nhất là năm được học môn Triết đầu tiên. Học Đạo đức với một ông thầy trẻ mà tôi đã quên tên, Siêu Hình với thầy Uyên, và Tâm Lý với cô Diệu Trang.
Cô Diệu Trang là một cô giáo trẻ đẹp và mang vóc dáng của tài tử điện ảnh Liz Taylor qua nụ cười đằm thắm và êm đềm. Cô lớn hơn chúng tôi khoảng 3, 4 tuổi và đó là năm đầu tiên cô dạy học. Chúng tôi cũng rất hân hạnh làm lứa học trò đầu tiên của cô giáo trẻ. Cho nên Cô và trò trông ngang nhau.
Có thể có vài chàng trai trong lớp thích Cô, yêu Cô vì tuổi mới lớn lần đầu biết rung động trước một người đẹp, dịu dàng và trìu mến. Bọn con gái chúng tôi đa số cũng rất thích và yêu mến Cô như chúng tôi cũng đã từng yêu quý một vài cô giáo trẻ lần đầu vào dạy Đồng Khánh với lũ nhóc con Đệ Thất, Lục, Ngũ. Tôi vẫn luôn luôn nhớ cô Thanh Tâm, cô Quế Hương, cô Diên Chi, cô Thu Ba, cô Minh Châu …
Giờ học của cô Diệu Trang rất vui vì Cô là người thầy đầu tiên đưa chúng tôi vào môn Tâm lý học. Môn học này giúp chúng tôi biết nhìn ngắm lại mình với cái tuổi 18 quá đẹp - tuổi của lãng mạn, mộng mơ, tuổi chớm biết yêu, biết buồn, biết nhớ …
Nhưng cái bằng Tú Tài quái ác đã triệt tiêu những rung động, tình cảm đầu đời. Tất cả cho học Thi và Đậu để làm nhịp cầu bước vào ngưỡng cửa Đại Học. Đôi khi buồn quá vì thấy hồn mình đang thiếu thiếu một cái gì nên tôi thường lẩm nhẩm hát bài “Thơ Ngây” để làm dịu lại những rung động đầu đời vì “lắm buồn nhớ bâng khuâng, lắm yêu đương, lắm tơ vương, nước mắt không vơi hết lúc thơ ngây.”
Và Quốc Học, Đồng Khánh, Huế là người tình đầu tiên của chúng tôi.
Tôi xa Huế từ năm 19, xa trường, xa bạn, và tưởng là cái xa đó quá dài, quá lớn. Thế mà rồi tôi còn phải xa cả Việt Nam vào năm 1990.
Sau năm 1975, tôi đi dạy trở lại sau thời gian làm việc ở Bộ Xã Hội và làm trình dược viên cho một công ty nhập cảng thuốc Tây.
Tôi lại được gặp cô Diệu Trang cũng đi dạy trở lại sau thời gian làm Hiệu Trưởng ở NhaTrang. Tình cô trò bây giờ chuyển sang tình chị em, vì thầy Hồng Giũ Lưu là bạn của anh tôi và chồng tôi. Thầy Lưu còn là thầy giáo Toán của con gái tôi. Con trai Cô Thầy là bạn cùng lớp với con gái thứ hai của tôi. Một vòng tròn thân ái khép kín tròn trịa – như một chút duyên của trùng trùng duyên khởi – thuyết Duyên Sinh của nhà Phật.
Chừng đó đủ cho tôi được trở về với Quốc Học xưa để kết dây thân ái với Thầy Cô bạn bè cựu học sinh Quốc Học Huế ở Saigon. Được xem đĩa DVD mừng Xuân Mậu Tý của cựu học sinh Quốc Học SG, tôi được nhìn lại những khuôn mặt thân quen của Thầy Cô bạn bè làm lòng tôi chùng lại và nhớ ôi là nhớ …

“Mùa đông cứ Huế chao ôi nhớ
Những đứa con đau thắt nỗi nhà
Hỡi ơi cố lý là quê cũ
Áo trắng qua cầu em có qua.”


HOÀNG HƯƠNG THỦY
W e d n e s d a y, J u n e 2 5 , 2 0 0 8

Ghi chú:  đoạn mở đầu là của Hoàng Hà (LoLo), em út trong gia đình
                                                                                                HXS

THƯ THÔNG BÁO VÀ THƯ MỜI



Về Tuyển Tập Bốn Mươi Năm Thơ Việt Hải Ngoại


Kính thưa quý độc giả, văn hữu, các nhà thơ có mặt trong tuyển tập:
Chúng tôi vui mừng thông báo đến quý bạn, cuốn sách "Bốn Mươi Năm Thơ Việt Hải Ngoại" vừa được Văn Việt và Người Việt Books in xong, chuẩn bị ra mắt tại California. Sách hiện nay đã có mặt trên thị trường.

Có 53 nhà thơ có mặt trong tuyển tập:
1. Nguyễn Thị Hoàng Bắc, 2. Nguyễn Thị Thanh Bình, 3. Nguyễn Thanh Châu, 4. Nguyễn Hàn Chung, 5. Đinh Cường, 6. Nam Dao, 7. Hà Nguyên Du, 8. Thế Dũng, 9. Trần Nguyên Đán, 10. Trần Trung Đạo, 11. Phan Tấn Hải, 12. Pháp Hoan, 13. Luân Hoán, 14. Phạm Cao Hoàng, 15. Trần Nghi Hoàng, 16. Lê Thị Huệ, 17. Khế Iêm, 18. Đỗ Kh., 19. Lê Đình Nhất Lang, 20. Vi Lãng, 21. Du Tử Lê, 22. Trần Vấn Lệ, 23. Đinh Linh, 24. Trần Đình Lương, 25. Chu Vương Miện, 26. Vương Ngọc Minh, 27. Lâm Quang Mỹ, 28. Đỗ Quang Nghĩa, 29. Bắc Phong, 30. Đức Phổ, 31. Thường Quán, 32. Nguyễn Linh Quang, 33. Đỗ Quyên, 34. Lữ Quỳnh, 35. Như Quỳnh de Prelle, 36. Phan Xuân Sinh, 37. Hoàng Xuân Sơn, 38. Cao Tần, 39. Phan Ni Tấn, 40. Nguyễn Xuân Thiệp, 41. Vũ Hoàng Thư, 42. Trịnh Y Thư, 43. Nguyễn Đăng Thường, 44. Trangđài Glassey - Trầnguyễn, 44. Trần Mộng Tú, 46. Nguyễn Đức Tùng, 47. Cung Trầm Tưởng, 48. Huy Tưởng, 49. Lưu Diệu Vân, 50. Thi Vũ, 51. Nguyễn Lương Vỵ, 52. Ngu Yên, 53. Tô Thùy Yên

Một tác phẩm tập hợp tương đối đầy đủ các khuôn mặt thơ Việt hải ngoại trong hơn bốn mươi năm qua. Đây là kết quả của sự hợp tác đẹp đẽ hiếm có giữa những người viết trong nước và những người viết hải ngoại, vượt qua các rào cản về địa lý và lịch sử.
Chúng tôi hết sức cảm kích sự ủng hộ của độc giả, các nhà thơ và thân hữu trong thời gian qua.

Quý thi sĩ tác giả có mặt trong tuyển tập, xin cho chúng tôi biết địa chỉ để gởi tặng sách. Ngoài ra, quý vị có nhã ý ủng hộ hoặc đặt mua thêm sách tặng bạn bè, cũng xin vui lòng liên lạc bằng một trong hai cách sau:
- Nhà xuất bản Người Việt Books: 14771 Moran St, Westminster, CA 92683, USA, Tel: 714-892-9414, Fax:(Tòa Soạn) 714-894-1381, Fax: (Biên Tập) 714-893-7891, email: nguyen.phuong@nguoi-viet.com
- Nhóm chủ trương: ynhi1809@gmail.com hoặc bachnguyen@shaw.ca
Riêng quý độc giả muốn mua sách, xin vui lòng liên hệ trực tiếp với nhà xuất bản:

Ngày 3 tháng 9 năm 2017, từ 2 PM đến 4 PM, chúng tôi sẽ tổ chức buổi:
Ra Mắt Sách Và Đọc Thơ
tại hội trường báo Người Việt, 14771 Moran St, Westminster, CA 92683, USA, Tel: 714-892-9414, Fax: (Tòa Soạn) 714-894-1381
Đặc biệt với sự tham dự của một số nhà thơ tác giả, có mặt trong tuyển tập, đến từ California và từ nhiều nơi khác.
CHÚNG TÔI TRÂN TRỌNG KÍNH MỜI ĐỘC GIẢ VÀ THÂN HỮU

VĂN VIỆT VÀ VIỆT BOOKS









Sunday, July 30, 2017

DẢI RUY BĂNG MÀU TÍM


Elena Pucillo Truong

Nguyên tác: il nastrino viola
Bản dịch của Trương Văn Dân


Portrait of a man. By Modigliani

      Nút thắt vừa được mở. Chiếc ruy băng màu tím dùng để cột những bức thư mà tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần, lần nào cũng đầy cảm xúc. Tất cả bắt đầu từ mười năm trước, khi tôi rời quê hương để tìm việc làm ở phía bên kia trái đất. Thật chẳng dễ chút nào... nhưng thời đó đâu có nhiều chọn lựa: Chết hoặc sống bấp bênh với những cơn đói thường trực... Thế  là phải nắm bắt cơ hội để có thể đổi đời...  mà nào chỉ là cuộc đời của riêng tôi.
      Đi, mà không biết điều gì sẽ xảy ra và thực tế là tôi đã phải trả một giá đắt đỏ. Ngay cả khi tìm được một công việc như rửa chén trong nhà hàng, tôi cũng chẳng bao giờ có thời giờ để suy tính. Chấm dứt công việc đó tôi tìm được một công việc khác, giữ chân bảo vệ ban đêm hay thay thế lão gác dan trong một khách sạn rẻ tiền. Ngày và đêm đều  giống nhau, chỉ có trái tim tôi là luôn hướng về một nơi chốn xa vời hơn mười nghìn cây số.
      Công việc bận bịu đến nỗi có nhiều lúc tôi chẳng có thời gian ăn uống. Buổi sáng nuốt vội một cái gì, một mẩu bánh mì và một tách cà phê, được nhà chủ bao cho sau một đêm làm việc, còn tiền lương thì tôi cố gắng tiết kiệm. Góp được đồng nào là tôi có thể gửi thêm về cho ba mẹ ở bên kia trái đất, hai người già có đôi mắt sáng, và chỉ vì tôi mà họ sống. Suốt đời, họ đã làm việc cật lực và cho tôi rất nhiều yêu thương, cho tôi biết mùi vị của sách vở, nhưng không đủ khả năng để lấp đầy cái khoảng trống nằm trong bao tử lúc nào cũng háu đói. Có lẽ chẳng mấy ai thật sự biết cái đói nó khủng khiếp như thế nào :  Cái lưỡi liên tục đưa qua đưa lại trong cái miệng chẳng có gì để nhai và kéo dài hằng giờ như thế mà chẳng có chút hy vọng nào là sẽ có được một chén cơm. Chỉ có trí óc mới có thể giúp ta quên nghĩ đến nó : Ba kể cho tôi nghe về những thế giới xa lạ, những cuộc phiêu lưu, nói về những cánh rừng có cọp và voi đi qua, về những cuộc nhào lộn trong lễ lạc ở các làng mạc xa xôi hay nói về âm nhạc với tiếng trống, chiêng và kèn rộn rã. Đó là những thế giới kỳ ảo, như các hình ảnh màu sắc rực rỡ trong kính vạn hoa, trong đó ánh sáng được nhân lên để làm cho cái góc tăm tối và nghèo nàn mà chúng tôi đang sống trở nên dễ chịu.  Đó là lý do mà dù đã ra đi nhưng tôi không thể nào quên được những ánh mắt và bốn bức tường thân thương của gia đình. Tôi làm việc, làm việc. Rồi ban đêm, khi công việc đã thưa đi, cũng có thể viết thư về nhà. Và những điều tôi viết cho họ bây giờ cũng giống như thế giới kỳ ảo mà ba tôi thường kể: Có rất nhiều người giúp đỡ tôi, một công việc nhàn hạ, thoải mái và tôi đang sống một cuộc đời đơn giản và chẳng có buồn đau...
      Đó là một món quà cho ba mẹ và cũng là sự đền đáp về tất cả những hy sinh mà suốt đời họ đã dành cho tôi.
      Sau đó thì những bức thư hồi âm từ xa xôi cũng đến với tôi. Thuở đó đâu được như bây giờ, chỉ cần viết rồi nhấn phím là lát sau có được tin trả lời. Thời đó, những bức thư phải cần vài tháng và trong khi chờ đợi hồi âm tôi thường tưởng tượng ra những điều mà họ sẽ viết.
     “ Cảm ơn số tiền mà con vừa gửi cho ba má. Nhờ nó mà mẹ con vừa may được một bộ đồ và ba cũng mua được một cái quần mới. Ba mẹ khỏe, con yên tâm. Hãy cố gắng sống bình an và hạnh phúc. Bên này ba má chỉ cần một ít tiền để sống, điều quan trọng là con viết thư liên lạc thường xuyên để ba má khỏi trông. Con biết không, cứ mỗi lần đọc lại những bức thư, ba má cứ tưởng là con vẫn còn hiện diện ở đây với gia đình chứ không xa ngút ngàn như sự thật...”
      Với tôi cũng thế. Tôi cũng thường đọc lại những bức thư nhà rồi cẩn thận xếp lại, cột tất cả bằng một dải ruy băng màu tím. Trong những lúc đó tôi cũng tưởng như mình vẫn còn sống trong gia đình, tôi lật qua lật lại những trang giấy mỏng và nhẹ như giấy quyến nhưng đầy ắp chữ cùng những lời khuyên để trưởng thành một người tử tế. Rồi tôi lớn lên với một nỗi nhớ thương liên tục trong tim.
      Làm việc nhiều nên tôi gầy như một que củi, thế nhưng khi nghe ai hỏi, tôi liền trả lời là tại thích chạy bộ để giữ gìn sức khỏe rồi vừa cười vừa lịch sự chào họ.
      Thời gian cứ thế trôi qua và tôi bắt đầu nói thạo thứ ngôn ngữ thật xa lạ của những ngày mới đến nên tôi đọc, đọc tất  cả những gì mà tôi tìm được trong khách sạn. Có khi một tờ báo, có lúc một tạp chí khoa học hay một vài quyển sách mà một người khách đãng trí nào đó đã bỏ quên. Rồi một ngày tôi như bị hút bởi một trang sách đầy những con số và đồ thị... rồi chợt hiểu là những phép tính trong toán học chính là một thế giới mà mình thích khám phá. Quyển sách ấy thế là chưa đủ, và tôi quyết tìm cách học thêm. Rồi hằng đêm tôi chăm chỉ học, đến nỗi quên cả thời gian đã trôi qua. Có nhiều lần mệt mỏi, thế nhưng  chỉ cần đọc lại những bức thư nhà là tôi cảm thấy tinh thần thư thái và có cảm giác là mình mạnh mẽ thêm lên. 
      “ Con yêu dấu, lúc này tuy ba má đã già hơn nhưng vẫn còn mạnh khỏe. Lúc này còn có những người hàng xóm thật tốt bụng và tử tế, thỉnh thoảng họ còn đi chợ giúp ba má hay nấu cho những món ăn ngon. Ít ra thì ba má cũng chẳng đơn độc. Nhớ viết thư thường xuyên nhé, như thể con đang tặng ba má một phần đời của con và ba má rất vui vì con hạnh phúc ”
      Họ đâu biết hạnh phúc của tôi chính là được ở bên cạnh họ. Nhưng như vậy cũng được thôi. Dù sao thì sự xa cách này cũng có một ý nghĩa. Hoặc chính tôi phải gắn cho nó một ý nghĩa vì mình chẳng thể làm gì khác.

      Mười năm trôi qua và giờ này thì tôi có thể sống và làm việc ở nơi chốn xa lạ này nhưng vẫn cảm thấy an tâm. Tôi không còn là một chàng thanh niên nữa... mà đã là một người đàn ông trưởng thành và rất tự hào về những điều mình thực hiện. Tôi không còn làm việc ở quán ăn, cũng  không còn thức đêm ở một khách sạn nằm ở ngoại ô thành phố. Bây giờ tôi dạy tin học và với vị trí này tôi có thể giúp đỡ nhiều sinh viên ngoại quốc đã đến đất nước xa lạ này để tìm kiếm một tương lai. Họ chẳng biết nỗi niềm của tôi nhưng tôi thì hiểu sâu sắc cuộc đời và những hy sinh mà họ đang gánh chịu. Nhiều em kể với tôi về những cơn đói lúc còn ở trên quê hương xa vời của họ và làm tôi như thấy lại bóng mình trong gương, với đôi mắt lạc thần cũng với nỗi sợ hãi về tương lai... luôn xuất hiện trong mắt tôi thuở đó.
      Những buổi tối rảnh rổi tôi thường đọc lại những bức thư  cuối cùng của ba mẹ vì rằng đã rất lâu rồi tôi không nhận được tin gì của họ. Hằng tháng tôi đều gửi một ít tiền đã dành dụm được, về sau càng ngày càng nhiều thêm, nhưng thư hồi âm của họ càng ngày càng thưa dần. Tôi nghĩ chắc vì tuổi già, mắt kém, nên với họ, viết  một bức thư cũng là điều khó nhọc. Và với ý nghĩ đó, tôi càng cố gắng viết cho họ nhiều hơn, hay khi bận rộn chỉ viết được vài hàng nhưng lần nào cũng bỏ kèm thêm một ít tiền. Nhưng tin tức về họ vẫn mịt mờ. Thế là cuối cùng tôi cũng phải chọn một quyết định, bây giờ thì tôi có thể  trở về quê thăm ba  mẹ và nhân tiện chào hỏi và cảm ơn những người hàng xóm tốt bụng.     
     Trong những bức thư cuối cùng hình như cả ba và mẹ đều viết cùng một giọng, nhưng có lẽ lúc này thì họ đã quá già rồi, và mặc dù đã nhiều lần tôi  yêu cầu gửi cho tôi một bức hình mới chụp nhưng họ vẫn không làm. Hình ảnh họ trong lòng tôi  chắc vẫn giống như trong bức hình đen trắng cũ đã mờ, trong đó mẹ trùm khăn trên đầu còn ba thì mặc chiếc quần rộng thùng thình có nhiều mảnh vá. Giữa họ, có tôi, lúc đó còn mặc quần ngắn nên phô ra đôi chân khẳng khiu, còn hai con mắt thì bị một lọn tóc vô duyên phủ lên một cách mất trật tự.
      Cầm lấy dải ruy băng màu tím để cột lại những bức thư cũ. Lòng tôi rạo rực vì sắp đến ngày khởi hành. Ba mẹ sẽ ngạc nhiên như thế nào trong chuyến về thăm bất ngờ, không báo trước ?
                                                           

      Tôi gõ mạnh lên bàn phím của máy tính, như thể trong tay đang cầm cây búa. Tôi muốn đập vỡ, tan tành, mà không sao làm được.  Nhưng thật ra tôi cũng chẳng biết mình đang làm gì. Đối với mọi người, tôi vừa trở về từ một cuộc đi chơi, một kỳ nghỉ, thế nhưng những quầng thâm dưới đôi mắt mệt mỏi, hiển nhiên đến không thể nào che giấu. Bao nhiêu nước mắt, trời ơi, bao nhiêu tiếng nấc nghẹn mà tôi vật vã nuốt trọn vào lòng, dù  vẻ ngoài vẫn cứ nở một nụ cười gượng gạo.
 
      Trở về thăm nhà sau mười năm xa cách và tôi hiểu ngay lý do của những bức thư thưa thớt đến từ gia đình. Nhưng làm gì còn một gia đình nữa mà  trông mong, chờ đợi! 
      Chẳng còn ai cả. Ba, mẹ... họ đã chết cách nhau chỉ vài tháng và thi thể được chôn cất trong hai nấm mộ nghèo nàn. Trên đó chỉ có một tấm bia ghi tên, lấm láp bùn đất.
      Họ đã chết cách đây năm năm, còn tôi, giờ đứng trước  hai nấm mồ lạnh lẽo để nhìn hàng chữ, những con số... “ mất ngày...” “ từ trần ngày...”. Họ đã quá già và hai trái tim cằn cỗi đã không còn chịu nổi. Còn tôi, nếu bỏ lại trái tim cạnh đó cũng vẫn còn chưa đủ.
     Tôi khóc nức nở cho đến hết những giọt nước mắt cuối cùng.

      Những giọt nước mắt đầu tiên chảy xuống khi tôi đứng trước căn nhà thời thơ ấu. Vài tấm ngói còn nằm chông chênh trên bốn bức tường rệu rã và xiêu vẹo giữa đống cây cỏ um tùm. Tôi gào lên, vô ích: “Ba, Má... các người đang ở đâu?”. Cuối cùng tôi đọc tấm giấy  đã úa vàng bọc trong chiếc bao ny-lon rách nát : “ Thư từ xin liên hệ ở nhà số 52....”
      Một ông lão đang ngồi hút thuốc bên ngoài căn nhà bên cạnh đã chỉ tôi tìm ba mẹ ở nơi nào.
      -“ Họ nằm ở đó, trong nghĩa trang ở cuối làng!”
      Tôi chưa hiểu. Bước đi vài bước rôi tôi quay người để hỏi thăm căn nhà  những người hàng xóm tốt bụng.
      “Đó, căn nhà cao ba tầng đó là căn nhà số 52”
      Mỗi bước chân tôi nặng như treo đá. Thất thểu lê người đến trước cổng nhà to lớn và bắt đầu nhấn chuông.
       “Ai đó? Chuyện gì vậy?” 
       Đáp lời tôi là một giọng cáu kỉnh và một người đàn bà ra mở cổng, ló đầu ra :
       “Anh là ai? Cần gì?”
       Chỉ vừa nói tên tôi thì mặt bà ta tái mét. Bà lẩm bẩm vài lời... đáng lý phải báo tin... phải cho ông hay...  Một sự ngượng ngập cũng xuất hiện trên nét mặt người chồng, nhưng ông ta im lặng. À, phải rồi,  trong những tình huống như thế này thì người đàn bà luôn được đưa ra để phân trần, nhỏ vài giọt nước mắt, và phía bị hại thế nào cũng mủi lòng, hay ít ra không thể phản ứng mạnh.
       Giờ thì mọi việc đâu có thể thay đổi! Năm năm đã trôi qua mà họ vẫn không cho tôi hay biết. Thời gian đầu... họ “cũng” định trả lời những bức thư của tôi, nói cho tôi biết sự thật...nhưng sau...
       Tôi khinh khỉnh nhìn những ánh mắt lấm lét trên khuôn mặt trơ trẽn của họ, nhưng không thể nói được gì. Còn bà vợ thì nói, nói rất nhiều, như thể để lấp đầy sự yên lặng tráo trở sau mỗi câu nói. Cuối cùng tôi mới nói được vài lời.
      - Còn tất cả những số tiền mà tôi gửi về cho ba mẹ? Đâu rồi ?
       Hai người kín đáo nhìn nhau  rồi im lặng nhìn ra xung quanh. Tôi đã hiểu tất cả và bây giờ tôi không muốn làm gì khác hơn là chạy thật xa hai con ma không có trái tim và trốn khỏi căn nhà khốn nạn đó.
       Thời gian vừa đủ để tôi có thể gọi một chiếc  xe để đưa tôi về một khách sạn trong thành phố và sau đó vội  sắp xếp cho chuyến trở về trước thời hạn. Đâu còn lý do gì để ở lại, và cho ai bây giờ?

       Thế nhưng bây giờ đây, mỗi ngày cơn giận của tôi cứ dần dà trào ra. Một cánh cửa bị dập mạnh, một câu trả lời cáu gắt bất ngờ buông ra một cách thiếu lịch sự. Năm năm chồng chất những nỗi đau, hao tốn, nhưng vì nó đời tôi còn có một mục đích. Còn bây giờ... Hình như tôi chẳng còn lý lẽ gì để tin về những điều mình làm. Mỗi buổi sáng thấy bóng mình trong gương mà như thể đang nhìn một con người khác: Hàm râu mọc dài, má hóp, hai hốc mắt trũng sâu và không còn ánh sáng. Tôi không còn là tôi nữa. Tôi không còn lịch sử, một cuộc đời ở phía sau lưng. Tệ hơn nữa là tôi cũng chẳng nhìn thấy vì điều gì để sống trong tương lai. Như thể tôi cũng bị chôn vùi trong hai huyệt mộ ở quê nhà.
      Đã nhiều ngày ... nhưng tôi chẳng thiết đi làm.  Tôi như bị chôn sống trong nhà và chẳng quan tâm đến bất cứ việc gì.  Những ngày đầu, tôi có nghe vài tiếng chuông điện thoại nhưng sau đó thì không. Tôi đi đi lại lại trong nhà không mục đích, di dời vài vật dụng từ bàn đến tủ sách, cầm trên tay quyển sách, mở một hộc bàn nhưng đóng liền sau đó. Rồi tôi bước qua một căn phòng khác hay lập lại những động tác vừa rồi, di dời, rờ rẫm, mở rồi lại đóng...    
      Sau một thời gian, a, đây rồi, tôi nhìn thấy  đầu của một dải ruy băng màu tím đã bạc màu. Tôi cầm lấy xấp phong bì, nhưng vì mở vội nút thắt nên làm các bức thư rời ra, lả tả. Tôi cầm lấy một bức hình đã úa màu và cảm giác như mình đang chạm vào một cái gì đó rất thiêng liêng. Rồi bằng một cảm xúc mãnh liệt tôi bắt đầu lật những trang giấy đã úa vàng và  tìm thấy trong mỗi hàng chữ một sức mạnh mới.
       “ Con yêu dấu,  cảm ơn con về tất cả những niềm vui dành cho ba má. Nhưng con đừng bận tâm. Mỗi lần đọc những hàng chữ này thì cũng như ba má đang ở bên con. Hãy sống hạnh phúc. Cuộc đời đầy những khó khăn. Ba má lúc nào cũng cầu nguyện cho con, ngõ hầu con có thể sống một cuộc đời tốt đẹp. Hãy bảo trọng nhé, con yêu ”

ELENA PUCILLO TRUONG
Sài Gòn 7/2014

(Nguồn : tập san VHNT Quán Văn số 25, 8-2014)