Hoàng Xuân Sơn
Hoàng Xuân Sơn & Khánh Ly. Ở
Houston 2008
Tác phẩm Cũng Cần Có Nhau
Những ngày u
ám trước thời điểm 30 . 4 . 75, cả bọn công chức chúng tôi trong Văn Phòng Phụ
Tá Kế Hoạch / Tổng Cục Bưu Chính gồm có anh Đỗ Kỳ Quang đầu đàn (hiện cư ngụ ởToronto-Canada),
các bạn Lê Đình Thông (cựu nhà báo Độc Thủ, tiến sĩ, hiện định cư ở Pháp quốc),
Nguyễn Hoàng Dũng (Dũng còm, không biết tin tức), Lý Ngọc Châu (California?) và
Nguyễn Thị Châu Triền (không rõ tin tức – người nữ thư ký duy nhất trong văn
phòng) ; đứng ngồi không yên. Hết đi ra lại đi vào, lóng ngóng tin tức từ
chính trường ngày càng bi thảm; từ chiến trường mỗi phút giây thêm tồi tệ. Cả bọn bàn tán xôn
xao, hoạch định con đường . . . . chạy loạn.
Từ sau khi hết
làm cho Văn Phòng Tổng Trưởng Bộ Giao Thông và Bưu Điện (Kỹ sư Trần Văn Viễn ),
tôi được chuyển sang phục vụ cho Tổng Cục Bưu Chính vào cuối năm 1971 dưới ngạch
trật Thanh Tra Bưu Điện. Dù đã hết những ngày vàng son họp báo tụ hội
với các bạn bên Dân Vận Chiêu Hồi, bù lại tôi được làm việc trong một văn phòng
thu hẹp mà tất cả mọi người đối xử với nhau như người thân cật ruột. Phải nói anh Phụ Tá Đỗ
Kỳ Quang là người rất có cảm tình và cởi mở. Hàng tháng sau việc
làm chung cật lực là những buổi xả hơi cùng nhau ăn uống trò chuyện thật là vui
vẻ. Giờ đây mỗi
người một nơi, đứt liên lạc, nhưng tôi vẫn luôn ghi nhớ mãi những ngày hoạn nạn
vui buồn có nhau, và nhất là ghi nhớ tấm lòng cao quý của các bạn đã dành cho
tôi mọi phương tiện để hoàn thành luận án hậu đại học.
Đếm từng ngày,
từng ngày . . . Lý Ngọc Châu dặn: Chừng nào nghe
tiếng bấm chuông là nhào ra khỏi nhà đi liền nghe – xuống Bến Bạch Đằng có tàu
lớn chờ ở đó! Nhưng rồi cái
hẹn này cũng nhỡ! Cám ơn tấm lòng của bạn. Nhưng ruột rối tơ vò
biết đàng nào mà gỡ!
Rạng sáng 29
tháng tư – đùm đề một gánh thê nhi – cố chen lấn vào Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tìm một
chỗ an toàn dung thân (nơi đâu?) theo bản năng thôi thúc của những ngày hoảng
loạn. Mà rồi lực bất
tòng tâm , con còn quá nhỏ bế trên tay, sợ xô đẩy một hồi chắc chẳng còn chút
thịt xương. Thôi đành! Toại
ơi Toại ơi Toại ơi …..Ngậm ngùi nhìn bạn cùng bầu đoàn lọt được vào bên trong
an toàn (Cửa đã đóng. Chốt đã khóa. Than ôi đạn đã lên
nòng!). Thôi đành giã
biệt. Đành quay về.
Về đâu hỡi kẻ
bên lề du mộng?
Ba Mươi Tháng Tư Bảy Lăm. Trịnh Công Sơn tất tả
chạy ngang nhà Mạc Đỉnh Chi bấm chuông. Mặt hớt hơ. Và giọng hớt hải - Sơn Giang ơi mau lên đài hát Nối Vòng Tay Lớn!
Lắc đầu. Tự nhiên lắc đầu
(?!). Không. Thôi - Thôi anh đi một mình! -
Lố nhố xe
jeep bên kia đường bộ đội có, thường phục đeo băng đỏ có, đưa tay ngoắc giục Sơn lên xe đi mau [1].
Ba Mươi Tháng Tư Bảy Lăm. Từng đoàn cán binh CS
rầm rập tiến vào Sàigòn. Súng đạn vẫn
còn rền vang khắp các ngã đường. Chia nhau: Giang bảo bọc phần mạ
ở lại Mạc Đỉnh Chi cùng gia đình anh chị Phú /Thủy. Mình cùng
vợ con trở về nhà nhạc phụ ở Cao Thắng. Trưa tang tóc ngật ngầy.
Một mình trên
gác xép. Lặng người
nghe kẻ-sĩ-giờ-thứ-hai-mươi-lăm Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Kêu gọi rả ngũ. Tuổi
trẻ ta chưa một ngày quân ngũ – Mà nửa đời bỗng nhớ chiến trường xưa! Tự nhiên khóc ròng. Khóc mùi mẫn.
Tấm tức. Và khóc . . .
Ôi dòng nước mắt
chẩy hoài
Dòng nước mắt
đời đời
Giọt nước mắt
thương ai
Ba Mươi Tháng Tư Bảy Lăm. Giờ này trên một góc
bể lênh đênh . . . Toại ơi! Chắc cũng mũi lòng nghe đớn đau vỡ oà con
sóng. Rừng núi giang tay nối lại biển xa . . . Nối lại? Mà có nối được đâu. Bỏ đi . Bỏ đi thật rồi.
Toại Sơn . .
. ơi . . .
Rồi sẽ không tìm ra nữa đâu
Ngày xanh ôm
mặt nhật qua cầu
Quỳnh huơng
một đóa vùi lau lách
Cồn xa cát lạnh
biết nằm đau
Ngày lại ngày. Những chuỗi ngày bi
thảm nối tiếp. Cơm độn. Khoai sắn ngút ngàn. Rách. Rách tả tơi. Lưu dung ôi lưu dung?
Kẻ được tạm
tha ngay trên quê hương xứ sở mình! Lăn lóc bụi-và-rác. Người và ngợm. Đứng chợ trời. Chà đồ nhôm (nói lái
chôm đồ nhà) mại dzô! Cà phê vỉa hè chật phố. Lố nhố Đặng Tường
Vy/Nguyễn Khắc Nhân/Huy Tưởng . . . Hoàng Trúc Ly kéo rít điếu cày méo xệch mồm
. Ai như Từ
Công Phụng thất thểu lê guốc mòn qua cửa Cái Chùa im ỉm đóng. Bùi Giáng chửi đổng. Thi ca lập nghiêm đi
vào bãi rác. Và rồi bia
hơi mù mắt. Say xỉn
mịt trời cho quên đi tất cả.
Mặt đất bao la anh em ta về
Gặp nhau mừng
như bão cát quay cuồng trời rộng
biển xanh sông
gấm – nối liền một vòng tử sinh . . .
Một vòng sống chết thật nhưng đâu
còn hoa gấm nữa Sơn ơi!
Trịnh
Công Sơn được anh em bạn bè thân thương cũ dẫn độ về Huế làm công tác tư tưởng
!!! Cửa vẫn khép
chặt và không có con đường phía trước. TCS một thời phản chiến có lợi cho CS,
cho “ công cuộc
cách mạng ” (theo quy kết của một số người) cũng chưa được
đoái hoài. Tất cả mọi ca khúc TCS còn bị cấm lưu hành vào thời điểm đó là đằng
khác![2]
Và rồi mấy năm trời cũng miên trường
điêu đứng theo cơn nín thở. Người bên ngoài đã xơ xác theo từng cuốc chạy
miếng ăn bá thở. Người bên
trong còn tồi tệ hơn: Trại tập trung mở rộng vòng tay lùa đám công
chức quân nhân chế độ cũ, bị xưng danh là ngụy quân ngụy quyền, vào lò “cải
tạo” mịt mù mút mùa lệ thủy. Đói khổ, bệnh tật và
chết chóc. Ôi cái chết đau thương vô tình – ôi đất nước
u mê ngàn năm
. . . Những cái chết mỏi mòn trong vòng lao lý. Những cái chết dấp dí
nơi nước độc rừng thiêng. Năm năm. Mười năm. Và ngày về mong manh
tựa khói. Rồi khi chỉ
còn xương da, những thân người tàn tạ được búng ra khỏi cổng trại giam. Như một lời bào chữa
cho thương tật nhân quyền. Tha về nhỏ giọt. Chỉ có gông cùm là thỏa hiệp lâu năm với tội ác. Ừ thì về. Về thôi. Nhưng về đâu?
Ta về một bóng trên đường lớn
thơ chẳng ai
đề vạt áo phai
sao vẫn nghe
đau mềm phế phủ
mười năm, đá
cũng ngậm ngùi thay
Vĩnh biệt ta
. mười năm chết dấp
chốn rừng
thiêng ỉm tiếng nghìn thu
mười năm mặt
sạm soi khe nước
ta hóa thân
thành vượn cổ sơ
.
. .
Dưới ánh mặt trời thân phận rõ mồn một:
đây là cõi
dương gian hay miếu đền âm phủ?
Ta về nhang khói lắt lay
thôi
âm hồn nọ
vẫn ngày
dương gian
tả tơi một nắm
hương vàng
cỏ xanh mồ mới
tro tàn cuộc
yêu
.
. .
Cuối năm 1980, có tin vui giữa giờ
hoạn nạn. Tôi cầm được
giấy xuất cảnh đi nước ngoài theo diện đoàn tụ gia đình. Trời phật ạ! Chẳng qua là nhờ ông
cụ nhạc tôi chạy vạy khắp nơi, mà rồi kết quả cũng không phụ lòng người. Mặc dù gia sản từ
trên xuống dưới xem như trắng tay. Nhạc phụ nhạc mẫu tôi đã từng chạy nạn đỏ một
lần nên tởn tới già. Số vợ chồng tôi chui nhủi dăm ba lần không
xong, phải nhờ thầy xem quẻ (thế sự đảo điên, không tin vào quỷ thần, tin ai
bây giờ?). Thầy bói toán
bảo rằng: Nhà ông mạng lớn, cứ ở yên đó có người đưa rước
lên xe lên tàu; khỏi phải luồn lách chi cho mệt! Mà rồi lời thầy cũng ứng
nghiệm thiệt. Xin tạ ơn
trên! Xin bái lạy mười phương
cứu rỗi.
Khi biết được mình sẽ thoát khỏi cảnh
đời nghiệt (trên răng dưới lựu – khúc « trữa »độn mì khoai kinh niê ), tôi đã “
hồ hởi ” quyết định rong chơi tháng ngày đợi giờ dứt
tụ.
Khoảng năm 79/80, toàn thể gia đình
Trịnh Công Sơn cũng dời Huế vào SàiGòn, cư ngụ trong một ngôi nhà mới cất khá
khang trang ở 47C Duy Tân (có tin đồn công trình
xây cất này là một tổ hợp giữa TCS/Khánh Ly và Phạm Nhuận?). Tôi không biết rõ,
nhưng mừng cho gia đình anh Sơn thoát khỏi nhiều khó khăn trong cuộc sống ở đất
Thần Kinh. Nơi được mô tả
là thí điểm đầu tiên trong quá trình xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở miền nam VN sau 1975.
TCS lúc này uống rượu nhiều, uống tợn,
và trở nên nghiện rượu hạng nặng. Sáng sớm bảnh mắt chàng đã súc miệng bằng vodka sec. Và TCS cũng vẫn rít
thuốc lá như điên, liều lượng có phần tăng thêm (người vẫn trung thành với
Bastos xanh, cùng “gu”
với Gaulois/Gitane của Pháp). Rượu / thuốc liên
miên trường kỳ chắc hẳn đã gây nên tình trạng suy nhược trầm trọng cho đến cuối
cuộc đời của anh . Phuơng chi TCS ăn rất ít hoặc không ăn lúc uống
rượu!!!
Theo phong trào cà phê vỉa hè, Diệu/Ngân,
các em gái TCS cũng mở một quán cà phê bỏ túi trước ngõ hẻm vào nhà. Nói là vì sinh kế thì
cũng không đúng vì lợi lộc chẳng bao nhiêu. Quán, chắc cũng chỉ
là cái cớ để làm nơi tụ họp bạn bè văn nghệ của TCS. Ở đó, tôi đã từng thấy
Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lê Văn Tài . . . trở về trong lốt đồ bộ đội [3].
Tôi có nhận
ra Tài, đưa tay chào, nhưng Tài nhìn tôi ngờ ngợ và lờ đi. Thôi thế cũng tốt. Có
hề chi vàng một chút rong rêu phải không Phạm Nhuận?
Trịnh
Công Sơn là một nhạc sĩ thiên tài. Điều này không ai chối cãi. Và phải nói “phía bên
kia”từ dân chí quan đều mê nhạc TCS như điên, như điếu đổ. Sau một thời gian bị
đì lúc đầu, đã tới lúc có nhiều khuôn mặt lớn văn nghệ, chính trị từ Bắc vào
Nam tìm cách hội diện TCS: Như Văn Cao, Nguyễn Tuân, Phạm Tuân (Anh Hùng Vũ
Trụ VN?!), Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng v. v. Nghe nói TCS được Võ Văn Kiệt
(đương kim Bí Thư Thành Uỷ SàiGòn và Thủ Tướng CH/XHCN Việt Nam sau đó),
ưu ái và che chở hết lòng. Lúc này đây, TCS sinh hoạt với Hội Âm Nhạc
thành phố HCM (Sàigòn cũ). Có các nhạc sĩ chính quy lẫn nằm vùng như
Hoàng Hiệp, Phạm Trọng Cầu, Trần Long Ẩn, Trương Thìn . . . luôn lui tới. Và đặc biệt có nhà
văn (?) Nguyễn Quang Sáng luôn luôn cặp kè bên Sơn; và hầu như ăn dầm ở dề
trong nhà 47C Duy Tân. Nhà văn cũ Lữ Quỳnh cũng thường xuyên xuất hiện
bên Sơn[4]. Ở đó, lúc Cà phê Diệu,
khi nơi nhà Sơn, dầu sao tôi cũng đã có được biết
bao ngày vui trước khi xa lìa bến cũ. Ở đó không hẹn mà đến, hay nói theo tựa một
cuốn phim VN thời bấy giờ: “Đến Hẹn Lại Lên”.
Ở đó, cứ trưa
trưa đợi chờ nhau ở Cà-phê Diệu, bia hơi từng can, từng can bày chật bàn. Và bắt đầu sẩm tối là
những cuộc rượu thâu đêm suốt sáng (nhớ không anh Trịnh
Quang Hà, rất vui hơn 30 năm sau gặp lại ở Sacramento). Ở đó, chúng tôi được
dịp hát cho nhau nghe thả dàn những bản tình ca xưa cũ của TCS, của bằng hữu mà
không phải núp lén, cảnh giác; cho dù “nhạc vàng”là một thứ cấm kỵ (có phải nhờ
lá bùa Võ Văn Kiệt ?). Ôi bè bạn đông vui dường bao – TCS hát, Hoàng
Xuân Sơn/Hoàng Xuân Giang duo, Hoàng
Thi Thao, Nguyễn Công Bảo, Tường Vi . . . hát mời mọi người cùng hát theo. Và tuyệt vời làm sao khi
nghe toán thanh ca nữ – do Phạm Trọng Cầu gầy đựng – gồm toàn các em tuổi trăng
rằm hòa ca những sáng tác của mình, của người [4] :
Tiếng đàn hòa trong tim em – Hát nên khúc nhạc
mới
Tiếng ca
nóng bỏng như nắng hạ – Tiếng ca êm mát như suối thơ
Môi em cười
như hoa thắm – Mắt nai tròn xoe đen láy
.
. .
Và bài dao ca tiếng Pháp thiệt dễ
thương qua nghệ thuật hát bè vững vàng của các em :
Le coq est mort – le coq est mort
Le coq est mort - le coq est mort
Il ne dira plus : cocodi –
cocoda
Il ne dira
plus : cocodi – cocoda
Cocodicodi – cocodicocoda . . .
Ở đó Đinh Cường sang sảng đọc thơ
sáng tác liền tại chỗ, Trịnh Cung, Tôn Thất Văn gật gù. Tịnh, Hà luôn tay châm
thêm rượu. Ở đó có anh bạn
bụi đời Đức-lai-râu-quai-nón ôm đàn ứng khẩu hát những
bài Blue/Jazz ray rứt nồng nàn. Và nhiều khuôn mặt dễ
thương vây quanh: Bê, Chà, Huy, La Quang Thanh, Nhân, Lã Quý
Trang, Khánh Trường, Bảo Yến . . .
Cũng từ không khí thắm đượm này, tôi
đã viết được những dòng thơ làm nền cho tập Viễn Phố đầu đời được in sau này tại
hải ngoại do nhóm Việt Chiến Toại-Tuyên-Hùng và bằng hữu ở Virginia/Hoa Kỳ chủ
trương và hỗ trợ (1988)
Đêm ngập tràn âm thanh òa vỡ
nơi ta ngồi
chuốc rượu thâu canh
đến với nhau
những hồn đơn lẻ
bước lại gần,
đêm bát ngát . xanh . . .
Những trái tim nhớ thời đã mất
đêm bây giờ
vẫn hẹn nghìn xưa
vẫn anh em
chỗ ngồi thân thiết
tiếng hát cười
vây những cơn mưa
.
. .
Anh mất quê nhà ngay đêm nay
ngồi bên
nhau tưởng xa bao ngày
anh biết mai
này đi biệt xứ
hồn trở về
không lúc rượu say ?
.
. .
Vâng! Cũng ở đó, trên căn
gác trưa lặng thầm, chỉ mình TCS và tôi lắng nghe tiếng hát trầm, nhẹ như gió
phẩy Tôi muốn hỏi tại sao … Tôi muốn hỏi những gì … của một người nữ
mang tên Quỳnh Hương – cùng tên một khúc nhạc tình diễm lệ của TCS – ngồi ôm
đàn dạo ca khúc hát đầu đời của mình. Để rồi một xô xát nhỏ xãy ra trước cổng
nhà Duy Tân, khiến người nhạc sĩ ốm o của chúng ta đau lòng viết nên ca khúc
Bên Đời Lặng Lẽ (Trong Nỗi Đau Tình Cờ)
Tôi đã yêu em bao ngày nắng
Tôi đã yêu
em bao ngày mưa
Yêu em bên đời
lặng lẽ
Tôi đã yêu
em như trẻ thơ
Những sáng
mênh mông tôi ngồi nhớ
Yêu em trái
tim thật thà
Yêu đầy mùa
nắng mùa mưa
Yêu trong nỗi
đau tình cờ
Đâu ngờ tình
gian dối quá
Khiến tôi
chia lìa – những giấc mơ
.
. .
Tôi đi trước. Mạ và Giang còn ở lại.
Trong tâm cảm
anh em ruột thịt sẽ chia lìa, Hoàng Xuân Giang viết nhiều ca khúc cảm động. Nhớ mãi
một hôm gặp gỡ quán bên đường, có Sơn/Hà/Tịnh; có Nguyễn Ánh 9, có Cung Piano,
có Vui Saxo . . . và nhiều bạn khác; Giang và tôi cùng hát Ngày Sau Sẽ Nhớ
…Quên, một sáng tác của Giang:
Rồi đây xa xôi – mỗi người mỗi nơi
Biết tìm đâu
những bạn bè thân quen
Một khi xa
xôi – núi đồi biển sông
Sẽ là ai - lòng mỏi mòn trông theo
Rồi khi xa mãi – đất trời rộng thênh
Tiếng ai gọi
ai nghe buồn tênh
.
. .
Tới điệp khúc: Rồi
đây sẽ cách xa – biết đâu đời có gặp – bạn bè những đứa quen – mất còn là những ai? . . .tự nhiên anh em nhìn
nhau và cùng bật khóc. Mọi người chan theo cảm xúc ngùi ngùi. Và cùng rơi lệ.
Ôi dòng nước mắt trong tim – chẩy lai láng
vào hồn – nửa đêm gọi đến mình.
Tôi bứt lìa xứ sở sang tạm cư tại
thành phố Montreal-Gia Nã Đại từ cuối năm 1981. Con thuyền chao đảo rồi
cũng cập bến bờ. Dòng sống
hoán chuyển không ngừng. Biết bao đổi thay từ cuộc đổi đời không chờ đợi
sau 75. Điều an ủi không
cùng là ở đời lưu xứ vật lộn, bươn chải mưu sinh rồi cũng thu vén được một mái ấm
gia đình nho nhỏ vợ đảm con ngoan. Biết ơn dường bao người-nữ-bên-cạnh-cuộc-đời
đã cùng sống, cùng thở theo nhịp đời nổi trôi.
Tháng năm dài nghiệt ngã
bàn tay em dịu
mềm
vuốt ve nỗi
buồn anh khốn khó
sáng hôm nay
thức giấc một niềm vui không dưng
nhìn vợ con
say ngủ
ta cảm nhận
yêu thương tràng ngập bến bờ
mùi hương bếp
núc đêm qua còn giữ lại
một tấm áo vắt
ngang thành ghế
cũng mang đầy
vẻ thiết tha trìu mến
làm sao diễn
tả được
phút giây có
mình trong mọi thứ
trong buộc
ràng thê tử
từng góc bếp
xó nhà
từng xót xa
rung động
.
. .
Và bạn bè. Những gạch nối khôn
lìa tiếp liên đời sống. Quá đỗi vui mừng khi hội ngộ những thâm tình
nối khố từ buổi hoa niên. Thương biết ngần nào
Võ Thành Tân, Thân Trọng Mẫn, Liên Kỳ, Võ Công Liêm, Nguyễn Công Tư Đỉnh . . . Rồi Trần Hiếu Lai. Và nhất
là Ngô Vương Toại. Hỡi Nhuận, hỡi Sử, hỡi Khê Kinh Kha – một thời
sống chết có nhau. Rồi biết bao bằng hữu
gặp gỡ sau này. Đông vô số kể.
Hằng hà sa số. Từ trời Tây nối
liền Bắc Mỹ. Từ Úc châu xa
xôi kết thêm tình xứ lạnh. Bạn bè hỡi! Ngày ngày lóng ngóng
tin nhau. Hỏi thăm sức
khỏe nhau từng giây từng phút. Bảo trọng!Bảo
trọng
!. Rán nghe ôn mệ. Để mình còn “chộ” nhau. Để tâm nguyện lúc nào cũng có nhau. Cũng được gặp gỡ nhau
bất cứ lúc nào trên mặt đất. Để cùng nhau nâng cao (không phải giương cao
ngọn cờ); cạn chén tao phùng. Cho điệp khúc rộn ràng 1
2 3 chúng ta cùng dzô được rền vang mãi mãi. Hỡi ơi những lúc
không có bạn, rượu “mình ênh” buồn như chấu cắn, chỉ làm tăng thêm mối buồn vô hạn.
Ta như con ngựa què mất cẳng
một giải yên cương bạn đã cầm
nào ai biết
được đường đi thẳng
rồi cũng lui
về phố tịnh tâm
Cái lạnh nơi
đây dài muốn chết
nhớ những
chiều mưa rượu uống càn
dăm bồ tửu.
cụng quên trời đất
mấy cuộc vui
buồn. giọng hát khan
Đôi lần trò chuyện văn nghệ với báo
chí, tôi vẫn hằng thố lộ: Với tôi, bằng hữu là nguồn cảm hứng vô tận
cho dòng bút mực viết nên. Nhiều người chỉ trích và né tránh con đường
làm văn nghệ dẫn qua ngỏ thù tạc. Tôi. Tôi không làm văn chương. Tôi thèm
viết ra những tâm tình từ bạn bè và cho bạn bè. Có thế. Mặc ai nói gì thì nói.
Ừ! Vui biết mấy khi đời về
chiều gom được tất cả những gì viết cho bạn
in chung một tập dưới tựa đề THÙ TẠC nhỉ?
Bạn tôi, nhà thơ Luân Hoán có lý khi
níu được niềm vui giữa bằng hữu văn nghệ sống còn: Cứ áo thụng vái nhau
đâu có chết con ma nào! Bạn văn Cao Vị Khanh cũng tâm đắc
phương thức Sinh Niệm thay vì Chiêu Niệm, Tưởng Niệm hay Mặc Niệm gì đó. Ca ngợi bạn lúc còn
sinh thời bổ ích gấp vạn lần một mai bạn khuất núi. Hà cớ gì phải chờ đợi
tới khúc Bác Dương thôi đã thôi rồi . . .mới thốt nên những lời ai oán. Chết là hết. Phủi tay rồi nợ sông Hương . . .Ai
nghe ai thấu cho cùng? Báo chí văn nghệ hải ngoại lâu nay cũng bắt đầu
thực hiện được những số sinh niệm cho Võ Phiến, Kiệt Tấn, Nguyễn Mộng Giác (sinh và chiêu niệm) v.v. Đó là một điểm son đáng khuyên.
Rồi cũng sẽ chìm trôi. Tất cả. Trịnh Công Sơn rồi nhắm
mắt xuôi tay. Rồi Hoàng
Xuân Giang, Hoàng Ngọc Tuấn . . . Và biết bao bằng hữu thân thương của một giai
đoạn cực kỳ sôi bỏng nhưng rất chí tình dần dà ám hôn tan theo
cùng cát bụi
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai
tôi về làm cát bụi
Ôi
cát bụi phận này
Vết mực nào
xóa bỏ không hay
Vết mực này. Mong vết mực này ghi
lại được một chút thân thương, dù mỏng manh, giữa người còn sống và kẻ đã khuất.
Điểu-Lộc-Yến,
Nghiêu Đề, Ngô Mạnh Thu (giờ mới thêm Nguyễn Đức Quang) bên kia đường biên
tái
. . . Mai-Toại-Nhuệ
Giang vẫn còn đó, một thời . . .
Ôi phù du – từng tuổi
xuân đã già – một ngày kia đến bờ – đời người như gió qua .
Rồi ra, nghiệm thấy một điều. Chỉ xin nghiệm một điều:
Bạn ơi! Lúc tuổi đã dần dà ám
sương, dù đã bằng hữu hay chưa bằng hữu; hãy đến với nhau, nhìn ngắm nhau thân
thiện. Hãy thăng hoa
lòng tử tế. Và đừng nên
nói với nhau những lời cay đắng. Để làm gì?
HOÀNG
XUÂN SƠN
Viết
xong ngày 12 tháng 9 năm 2007
Tại
Laval – Quebec – Canada
Cập nhật và sửa chữa trước khi xuất bản, tháng 4 năm
2013
Chú thích:
Thơ, văn, lời ca . . . trích dẫn
(theo thứ tự xuất hiện) trong phóng bút này là của :
Trịnh Công Sơn, Hoàng Xuân Sơn, Dương Thiệu Tước, Hồ Đình Nghiêm, Duyên Anh, Nguyễn Đức Quang, Thanh
Trang, Nguyễn Xuân Thiệp, Trần Dạ Từ, Thanh Tâm Tuyền, Phạm Đình Chương, Truyện
Kiều, Du Tử Lê, Nguyễn Bắc Sơn, Phạm Duy, Steve Addist, Nguyễn Bính, Trầm Tử
Thiêng, Trần Thiện Thanh, Hoàng Ngọc Tuấn,
Hoàng Xuân Giang, Tô Thùy Yên, Phạm Nhuận, nhóm Thanh Ca Dây Leo Xanh, Dao ca
Pháp …
[1] Theo lời TCS kể lại, trong đám đông ấy có nguyên
sinh viên kiến trúc Nguyễn Hữu Thái, thuộc thành phần thứ 3, thân cộng
[2] Nghe nói TCS có bị điều đi công tác tháo gỡ mìn bẫy
thặng dư của cuộc chiến trên vùng Khe Sanh Lao Bảo?
[3] Nghe nói Lê Văn Tài bị lùa đi bất đắc dĩ theo cộng
quân sau tết Mậu Thân ở Huế, chứ không chủ tâm thoát ly
[4] Nhóm ca nữ trẻ này còn tiếp tục sinh hoạt dưới
danh xưng nhóm Dây Leo Xanh (theo Trần Hiếu Lai). Một trong những người viết nhạc
và trình diễn của nhóm này rất được TCS ưu ái là Bích Anh, tác giả của ca khúc
Sợi Dây Leo Màu Xanh.
No comments:
Post a Comment