Nguyễn
Lương Vỵ
Bìa
sách Thơ
Trần Nhân Tông
Trong kho tàng thi ca
cổ điển Việt Nam, Trần Nhân Tông là nhân vật lịch sử rất đặc biệt: Ngài không
chỉ là một bậc minh quân lỗi lạc hiếm có, mà còn là một vị thiền sư đã liễu ngộ
Phật pháp (được người đương thời tôn xưng là Điều Ngự Giác Hoàng hay Phật
Hoàng, trở thành vị tổ sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử của Phật giáo Việt
Nam), đồng thời, cũng là một nhà thơ lớn của dân tộc.
Tác
phẩm thơ của Trần Nhân Tông, trải qua nhiều thời kỳ loạn lạc chiến tranh đã bị
thất tán khá nhiều. Đến nay, di sản thơ của Trần Nhân Tông đã được sưu tập và
lưu giữ chỉ còn khoảng trên dưới 35 bài và một số câu thơ lẻ nằm rải rác ở các
bài giảng, ngữ lục, phú... Tuy số lượng thơ còn lại khá khiêm tốn, nhưng giá trị
về nội dung tư tưởng, nghệ thuật trong thơ Trần Nhân Tông được người đương thời,
cũng như các thế hệ đời sau rất tâm đắc, ca ngợi và ngưỡng mộ.
Thơ của một vị vua anh minh, đởm lược và nhân hậu
Trước
hết, với tư cách là vị vua của một nước nhỏ phương Nam, luôn bị áp lực đe dọa
xâm lược của nước lớn láng giềng phương Bắc, vua Trần Nhân Tông đã nối nghiệp
vua cha Trần Thánh Tông và là một vị vua anh minh, đởm lược, nhân hậu: Lên ngôi
khi còn rất trẻ, chưa tròn 20 tuổi (1278), nhưng đã hai lần (1285, 1287) thống
lĩnh toàn dân, toàn quân, đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược nước ta của
quân Nguyên khi tuổi đời chưa đến 30 tuổi. Thật là một vị vua thiên tài kiệt xuất
hiếm có.
Theo
sử sách ghi lại, ngày 26 tháng chạp năm Giáp Thân (01.1285), quân Nguyên tấn
công cửa ải Chi Lăng, Nội Bàng. Tướng Trần Hưng Đạo (Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn) cho lui quân về Vạn Kiếp để tránh sức tiến quân ào ạt của 50 vạn quân
Nguyên. Vua Trần Nhân Tông đã lập tức lên thuyền ra Hải Đông gặp tướng Trần
Hưng Đạo. Nhà vua không kịp ăn trưa, mãi đến chiều, người lính hầu Trần Lai mới
dâng cơm. Tướng Trần Hưng Đạo vâng lệnh vua, chọn những người khỏe mạnh và dũng
cảm làm tiên phong, lên thuyền vượt biển vào Nam. Thế quân ta mạnh dần, vô cùng
phấn chấn.
“Cối Kê cựu sự quân
tu ký,
Hoan Ái do tồn thập vạn
binh.”
(Cối Kê chuyện cũ,
ngươi nên nhớ,
Hoan Ái vẫn còn mười
vạn quân.)
Cũng
theo sử sách ghi lại, vua Trần Nhân Tông đã viết hai câu thơ trên và cho gắn ở
đuôi thuyền, nhằm hiệu triệu lòng tin tất thắng cho tất cả tướng sĩ.
Hai
câu thơ ngắn, nhưng tỏ rõ một tầm nhìn chiến lược, một bản lĩnh lớn lao: Nhà
vua liên hệ với tích “Cối Kê” thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tàu (lúc Việt Vương
Câu Tiễn phải lui quân về Cối Kê để dưỡng quân đợi thời cơ, đánh bại được Ngô
vương Phù Sai, lập nên nước Việt cường thịnh, bao gồm cả lãnh thổ nước Ngô) - với
việc châu Hoan châu Ái (thuộc vùng Thanh Hóa - Nghệ Tĩnh ngày nay) của nước Đại
Việt lúc bấy giờ, vẫn còn ém giữ được 10 vạn quân, sẵn sàng chờ lệnh xung trận
chiến đấu chống quân Nguyên trong thời điểm đó. Nhà vua đã tỏ rõ bản lĩnh đỡm
lược của một vị vua trẻ đầy khí phách và tài năng thao lược.
Sau
ngày toàn thắng quân Nguyên, khi đến viếng lăng mộ vua Trần Thái Tông (ông nội
của vua Trần Nhân Tông), chứng kiến cảnh mấy con ngựa đá trước lăng của ông nội
mình bị lấm bùn (do trước đây, bọn giặc Nguyên muốn đào lăng phá hủy nhưng
không kịp), nhà vua xúc động nhớ lại cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Nguyên Mông lần thứ Nhất (1258) do vua Trần Thái Tông lãnh đạo, nên đã cảm khái
viết hai câu thơ:
“Xã tắc lưỡng hồi lao
thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện
kim âu.”
(Đất nước hai lần lao
ngựa đá,
Núi sông ngàn thuở vững
âu vàng.)
Chỉ
cô đọng, ngắn gọn trong 2 câu thơ 7 chữ, nhưng mỗi chữ như vết khắc in sâu
trong tâm tưởng nhà vua: Vừa bày tỏ lòng tri ân, hoài niệm người xưa, vừa là niềm
cảm khái mang nét đẹp bi hùng và lòng tự hào, lòng tin son sắt của vị minh quân
yêu nước yêu dân!
Cũng
vậy, bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt “Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng” (Ngày Xuân Viếng
Chiêu Lăng) cô đọng nhưng đong đầy cảm xúc:
“Tì hổ thiên môn túc,
Y quan thất phẩm
thông.
Bạch đầu quân sĩ tại,
Vãng vãng thuyết
Nguyên Phong.”
(Ngàn cửa, uy nghiêm
lính,
Bảy phẩm, chỉnh tề
quan.
Người lính bạc đầu nhắc,
Chuyện Nguyên Phong
còn vang.)
Chuyện
Nguyên Phong
là nhắc về niên hiệu Nguyên Phong thứ 7 của vua Trần Thái Tông: Ngày
17.01.1258, quân Nguyên tràn tới cánh đồng Bình Lệ (phía Nam Bạch Hạc, Việt
Trì, Phú Thọ), vua Trần Thái Tông đã trực tiếp chỉ huy cuộc chiến đấu chống giặc:
“Vua tự làm tướng đốc chiến đi trước, xông pha tên đạn...” (theo Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư). Đến ngày 29.01.1258, tức chỉ nửa tháng sau, vua Trần
Thái Tông cùng thái tử Hoàng (vua Trần Thánh Tông sau nầy) đã phá tan quân
Nguyên ở Đông Bộ Đầu, chiếm lại Thăng Long, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
chống quân Nguyên lần thứ Nhất.
“Người
lính bạc đầu”
là nói về những người lính 27 năm về trước (trong cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên Mông xâm lược nước ta lần thứ 1), nay đã là những ông già đầu bạc, ngồi
ôn lại chuyện cũ với lòng tự hào và xúc động.
Mặc
dù đã đánh thắng quân nhà Nguyên xâm lược, nhưng trong chính sách ngoại giao với
đối phương, vua Trần Nhân Tông luôn giữ phong thái đĩnh đạc: Khiêm hạ nhưng
không yếu hèn, ôn nhu nhưng dũng lược, khoan hòa nhưng vẫn kiên định vững vàng,
khiến cho đối phương phải nể nang và tôn trọng.
Những
bài thơ “Quỹ Trương Hiển Khanh Xuân Bính”
(Tặng Bánh Ngày Xuân Cho Trương Hiển Khanh), “Tống Bắc Sứ Lý Trọng Tân, Tiêu
Phương Mai” (Tiễn Sứ Phương Bắc Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Mai), “Tặng Bắc Sứ Lý
Tư Diễn” (Tặng Sứ Phương Bắc Lý Tư Diễn), “Họa Kiều Nguyên Lãng Vận” (Họa Vần
Thơ Của Kiều Nguyên Lãng), “Tống Bắc Sứ Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng” (Tiễn Sứ
Phương Bắc Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng) đã minh chứng rõ ràng cho những điều vừa
nêu trên.
Bài
thơ thất ngôn tứ tuyệt “Quỹ Trương Hiển Khanh Xuân Bính” (Tặng Bánh Ngày
Xuân Cho Trương Hiển Khanh) được viết trong buổi tiệc chiêu đãi Trương Hiển
Khanh (tức Trương Lập Đạo) sang sứ nước Đại Việt lần thứ hai, năm 1291. Nội
dung bài thơ khá đơn giản: Miêu tả cảnh họp mặt vui vẻ với sứ thần phương Bắc
giữa tiết hàn thực, mồng ba tháng Ba (tiết Thanh Minh), vào cuối mùa Xuân,
không khí ấm áp trong lành, nhưng ngầm ý bày tỏ niềm tự hào về vẻ đẹp văn hóa vốn
đã có lâu đời của nước Đại Việt. Vẻ đẹp tuy dân dã, dung dị trên mâm bánh trao
tặng Trương Hiển Khanh, nhưng bài thơ hàm chứa niềm tự hào về tầng sâu văn hóa
của một đất nước vốn đã có nền văn hiến lâu đời:
“Giá Chi vũ bãi, thí
Xuân sam,
Huống trị kim triêu
tam nguyệt tam.
Hồng ngọc đôi bàn
xuân thái bính,
Tòng lai phong tục cựu
An Nam.”
(Giá Chi múa xong, thử
áo Xuân,
Lại thêm hàn thực, tiết
thanh nhuần.
Bánh rau như ngọc hồng
ăm ắp,
Tục Việt xưa nay đẹp
bội phần.)
Trong
bài thơ họa đáp lại, ngỏ lời cảm tạ với vua Trần Nhân Tông, Trương Hiển Khanh
đã viết một cách trân trọng, thủ lễ:
“An Nam tuy tiểu văn
chương tại,
Vị khả khinh đàm tỉnh
để oa.”
(Nước An Nam tuy nhỏ
nhưng đã có văn chương,
Chưa thể nói một cách
nông cạn, xem thường họ là ếch ngồi đáy giếng.)
Khi
tiễn hai sứ phương Bắc là Lý Trọng Tân và Tiêu Phương Nhai về nước, vua Trần
Nhân Tông đã viết bài thơ thất ngôn tứ tuyệt “Tống Bắc Sứ Lý Trọng Tân, Tiêu
Phương Nhai” để chia tay với tình cảm chân thành, nhưng vẫn bày tỏ mong ước
bang giao giữa hai nước được ôn hòa, tôn trọng lẫn nhau và được gìn giữ lâu
dài. Lời lẽ trong bài thơ khiêm hạ, nhưng cũng có ngụ ý nhắc nhở tế nhị với
vương triều phương Bắc rằng: Không nên dấy lên cảnh đao binh xâm lược phương
Nam nữa, để cho dân hai nước được an hưởng thái bình:
“Khảm khảm linh trì
noãn tiễn diên,
Xuân phong vô kế trụ
quy tiên,
Bất tri lưỡng điểm
thiều tính phúc,
Kỷ dạ quang mang chiếu
Việt thiên.”
(Thăm thẳm Linh Trì,
tiệc ấm đưa,
Gió Xuân khôn giữ ngọn
roi xưa.
Chẳng hay phước báu,
sao hai sứ,
Chiếu sáng trời Nam
được mấy khuya.)
Cũng
vậy, năm 1288, quân nhà Nguyên bị quân nhà Trần đánh bại, Thoát Hoan phải theo
đường tắt chạy trốn. Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ bị bắt. Sau đó, theo đối sách ngoại
giao mềm mỏng, vua Trần Nhân Tông đã cử sứ sang vương triều Nguyên để “cống” và
dâng biểu với lời lẽ khiêm hạ “xin lỗi”. Vì vậy, năm 1289, vua nhà
Nguyên cử sứ Lý Tư Diễn sang nước ta, chiêu dụ bằng chiếu “tha tội”,
phong tước cho vua nhà Trần như cũ. Đồng thời, yêu sách với vua nhà Trần trao
trả các tướng đã bị bắt. Trong buổi tiệc chiêu đãi nầy, Lý Tư Diễn làm thơ, vua
Trần Nhân Tông cũng đã viết bài thơ thất ngôn bát cú “Tặng Bắc Sứ Lý Tư Diễn”
để họa lại:
“Vũ lộ uông dương phổ
Hán ân,
Phượng hàm đan chiếu
xuất hồng vân.
Thác khai địa giác
giai hòa khí,
Tịnh hiệp thiên hà tẩy
chiến trần.
Tận đạo tỉ thư thập
hàng hạ,
Thắng như cầm điện
ngũ huyền huân.
Càn khôn kiêm ái vô
Nam Bắc,
Hà hoạn vân lôi phục
hữu truân.”
(Ơn Hán như mưa rưới
khắp nơi,
Chiếu son phượng ngậm,
mây hồng phơi.
Đất nước mở mang hòa
khí hẵn,
Thiên hà rửa sạch chiến
tranh rồi.
Mươi hàng chiếu chỉ
đâu nhiều lắm,
Năm dây đàn quí phải
nhường thôi.
Trời đất thương đều
Nam với Bắc,
Gian khó lo gì, sấm
sét trôi.)
Lời
lẽ trong bài thơ khá trân trọng, nhún nhường, “Tận đạo tỉ thư thập hàng hạ / Thắng như cầm điện ngũ huyền huân” (Mươi
hàng chiếu chỉ đâu nhiều lắm / Năm dây đàn quí phải nhường thôi). “Mươi hàng
chiếu chỉ” mà giá trị vẫn hơn “Năm
dây đàn quí”, thể hiện cái ý khiêm hạ, “biết người biết mình”. Trân trọng,
nhún nhường nhưng phong thái vẫn đĩnh đạc, đường hoàng với niềm tin: “Càn khôn kiêm ái vô Nam Bắc / Hà hoạn vân
lôi phục hữu truân.” (Trời đất thương đều Nam với Bắc / Gian khó lo gì, sấm sét
trôi).
Năm
1301, Kiều Nguyên Lãng (Kiều Công Lượng) là Thị lang bộ Lễ, nhân vật chủ chốt của
đoàn sứ nhà Nguyên sang nước ta. Trong buổi tiệc chiêu đãi tiễn khách về nước,
vua Trần Nhân Tông đã viết bài thơ thất ngôn bát cú “Họa Kiều Nguyên Lãng Vận”
(Họa Vần Thơ Của Kiều Nguyên Lãng):
“Phiêu phiêu hành lý
lĩnh vân nam,
Xuân nhập mai hoa chỉ
lưỡng tam.
Nhất thị đồng nhân
thiên tử đức.
Sinh vô bổ thế trượng
phu tàm.
Mã đầu phong tuyết
trùng hồi thủ,
Nhãn để giang san thiểu
trụ tham.
Minh nhật Lô giang
yên thủy khoát,
Bồ đào nộn lục tẩy
tâm đàm.”
(Như mây bay, nhẹ bước
về Nam,
Mùa Xuân, mai lác đác
khoe mầm.
Vua hiền đức lớn,
thương trăm họ,
Trai tài chí cả, nợ
muôn dân.
Tuyết rung đầu ngựa,
niềm lưu luyến,
Mắt chứa non sông, nhịp
lắng thầm.
Ngày mai sóng nước
sông Lô tiễn,
Bồ đào cạn chén ấm
lòng trần.)
Sau
khi bày tỏ ân tình với “thượng quốc”: “Nhất
thị đồng nhân thiên tử đức / Sinh vô bổ thế trượng phu tàm” (Vua hiền đức lớn,
thương trăm họ / Trai tài chí cả, nợ muôn dân) rồi cảm khái: “Mã đầu phong tuyết trùng hồi thủ / Nhãn để
giang san thiểu trụ tham” (Tuyết rung đầu ngựa, còn lưu luyến / Mắt chứa non
sông, nhịp lắng thầm), rồi bày tỏ mong ước, hy vọng: “Minh nhật Lô giang yên thuỷ khoát / Bồ đào nộn lục tẩy tâm đàm” (Ngày
mai sóng nước sông Lô tiễn / Bồ đào cạn chén ấm lòng trần). Đúng là giọng
thơ nghĩa khí đĩnh đạc của một bậc minh quân, giàu sức rung động, cảm hóa đối
phương bằng chính tấm lòng nhân hậu của mình.
Trong
dịp nầy, khi tiễn Ma Hợp và Kiều Nguyên Lãng về nước, vua Trần Nhân Tông đã viết
thêm bài thơ thất ngôn bát cú “Tống Bắc Sứ Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng” (Tiễn Sứ
Phương Bắc Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng) với lời chào tiễn biệt trân trọng và
tình nghĩa, kèm theo lời nhắn nhủ, nhắc nhở tế nhị với vương triều phương Bắc về
chiếu Trung Thống năm 1261 của Hốt Tất Liệt, vua nhà Nguyên, đại ý nói: “Các phong tục và mũ áo ban cho các quan, nước
Đại Việt được theo lệ cũ của mình mà sử dụng.” (Ngoài ra, vua nhà Nguyên
còn răn bảo các tướng phía quân Nguyên ở Vân Nam không được đem quân lấn chiếm,
cướp bóc và quấy nhiễu vùng biên giới nước Đại Việt). Cuối bài thơ có đoạn:
“... Tiết lăng chướng
vụ thân vô dạng,
Tiên phất Xuân phong
mã hữu tham.
Đỉnh ngữ nguyện ôn
Trung Thống chiếu,
Miễn giao ưu quốc mỗi
như đàm.”
(... Cờ tiết khí
hung, người vững bước,
Gió Xuân roi vút, ngựa
ghìm chân.
Trung Thống chiếu
xưa, lời hệ trọng,
Vận nước lo toan được
bớt dần.)
Lời
lẽ đoạn thơ trên rất ôn nhu, chân thành. Chiếu Trung Thống nhắc lại trong bài
thơ còn được gọi là “đỉnh ngữ”(lời chuông vạc), nghĩa là lời hệ trọng của vua
đã ban ra, phải vâng phục và làm theo. Vì vậy, lời nhắc nhở của vua Trần Nhân
Tông thật thấu tình đạt lý, buộc đối phương phải suy nghĩ, nếu muốn việc bang
giao giữa hai nước được duy trì tốt đẹp.
*
Năm
1290, vua Trần Nhân Tông đem quân đi đánh nước Lào, do vua Lào bội ước, nghe lời
xúi giục của nhà Nguyên, tạo điều kiện cho quân nhà Nguyên tấn công nước ta từ
phía Tây Nam. Bài thơ thất ngôn bát cú “Tây Chinh Đạo Trung” (Trên Đường
Chinh Tây), nhà vua đã viết trên đường hành quân chinh phạt:
“Cẩm phàm khinh sấn
lãng hoa khai,
Bồng để yêm yêm thủ bất
đài.
Tam Giáp mộ vân vô nhạn
đáo,
Cửu Than minh nguyệt
hữu long lai.
Thê lương hành sắc
thiêm cung mộng,
Liêu loạn nhàn sầu
đáo tửu bôi.
Hán Vũ phiên chiêu
cùng độc báng,
Nam nhi đắc đắc nhược
vi tai.”
(Thuyền gấm rượt nhau
tung sóng hoa,
Chẳng ngẩng đầu lên,
mui ướt nhòa.
Tam Giáp mây chiều,
tin nhạn vắng,
Cửu Than trăng sáng,
bóng rồng sa.
Hành cung nuối mộng
thêm sầu nhớ,
Chén rượu vơi sầu một
bóng ta.
Vua Hán đánh Phiên, đời
chán ghét,
Làm trai như vậy,
đáng khen à?)
Bút
pháp giản dị nhưng rất tài hoa, nhạy cảm, giàu sức liên tưởng khi tác giả nhìn
phong cảnh hùng vĩ của thiên nhiên trên đường hành quân: “Tam Giáp mộ vân vô
nhạn đáo / Cử Than minh nguyệt hữu long lai” (Tam Giáp mây chiều, tin nhạn vắng
/ Cửu Than trăng sáng, bóng rồng sa). Hai câu cuối của bài thơ, “Hán Vũ
phiên chiêu cùng độc báng / Nam nhi đắc đắc nhược vi tai!” (Vua Hán đánh Phiên,
đời chán ghét / Làm trai như vậy, đáng khen à?!) liên tưởng đến việc vua
nhà Hán đánh nước Phiên ngày xưa để bày tỏ lòng mình rằng không muốn chuyện
binh đao với nước Lào (chỉ là chuyện bất đắc dĩ), không muốn mang tiếng hiếu
chiến như vua nhà Hán, cũng là xuất phát từ tấm lòng bi mẫn của một vị vua đầy
lòng nhân hậu, không muốn dấy lên cảnh chiến tranh máu lửa, khiến cho hai dân tộc
phải rơi vào cảnh tang thương, chết chóc.
Một thiền-sư-thi-sĩ thấu triệt Đời và Đạo
Trần
Nhân Tông là một vị vua nổi tiếng “thân dân”. Ngài thấu hiểu tình cảnh đau
thương, ly tán của muôn dân trong chiến tranh, nhất là thân phận của những người
cô phụ ở hậu phương, khi người chồng phải ra chiến trường đánh giặc. Bài thơ thất
ngôn tứ tuyệt “Khuê Oán” (Nỗi Oán
Nơi Phòng Khuê), người đọc có cảm tưởng như có tiếng than thầm
của người vợ đang sống trong cảnh cô quạnh, nhung nhớ, mong chờ:
“Thụy khởi câu liêm
khán trụy hồng,
Hoàng ly bất ngữ oán
đông phong.
Vô đoan lạc nhật tây
lâu ngoại,
Hoa ảnh chi đầu tận
hướng đông.”
(Ngủ dậy cuốn rèm,
xem hồng rơi,
Oanh không ca, oán
gió Xuân thôi.
Ngờ đâu chiều rụng lầu
Tây đó,
Bóng hoa vươn cánh hướng
Đông rồi.)
Chẳng
những có lòng nhân hậu với con người, vị thiền-sư-thi-sĩ còn có lòng thương cảm
ngay cả với vật dụng gần gũi. Bài thơ tứ tuyệt “Trúc Nô Minh” (Bài Minh Trúc
Nô) khắc ghi trong lòng hình ảnh chiếc gối tựa (hay chiếc gối kê tay) được
đan bằng trúc, luôn ở bên cạnh mình một cách thân thiết như người bạn tâm giao:
“Ngạo tuyết tâm hư,
Lăng sương tiết kính.
Giả nhĩ vi nô,
Khủng phi thiên
tính.”
(Tuyết trải tâm
không,
Sương phơi đốt cứng.
Làm tớ, cậy ông,
Ngại tính chẳng khứng.)
Chiếc
gối tựa (hay chiếc gối kê tay) nầy, ngày xưa thường được dùng vào mùa nóng,
giúp cho dịu mát, thoải mái cơ thể. Trúc có bản chất “Tuyết trải tâm không”,
“Sương phơi đốt cứng” còn hàm ý nói về tính khí cứng cỏi, trung kiên của
con người. Với nhà Phật, đây cũng là biểu trưng cho hành giả đã đạt được bản
tâm thanh tịnh, an nhiên, tự tại. Đây cũng là ẩn ý thâm diệu của bài thơ vậy.
*
Thơ
viết về mùa Xuân của Trần Nhân Tông khá nhiều, đầy ắp cảm xúc, tinh tế, bén nhạy,
tư tưởng sâu sắc, khoáng đạt.
“Xuân
Hiểu” (Sớm Xuân),
bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt, với hình ảnh giản dị nhưng rất sinh động:
“Thụy khởi khải song
phi,
Bất tri Xuân dĩ quy.
Nhất song bạch hồ điệp,
Phách phách sấn hoa
phi.”
(Ngủ dậy mở cửa
trông,
Nào hay Xuân mênh
mông.
Có một đôi bướm trắng,
Vỗ vỗ cánh vờn bông.)
Hai
câu thơ cuối, như một nét vẽ phác đơn giản nhưng rất sinh động: “Nhất song bạch
hồ điệp / Phách phách sấn hoa phi” (Kìa một đôi bướm trắng / Vỗ vỗ cánh vờn
bông). Màu trắng của đôi cánh bướm, hòa quyện vào âm thanh “phách phách”
(vỗ vỗ), gợi tả một cách tài tình hình ảnh sinh động, giữa cảnh sắc mênh
mông của mùa Xuân.
“Xuân
Cảnh” (Cảnh Xuân), bài
thơ thất ngôn tứ tuyệt, với vài nét chấm phá như một họa sỹ tài hoa, nhưng đầy ấn
tượng:
“Dương liễu hoa thâm
điểu ngữ trì,
Họa đường thiềm ẩn mộ
vân phi.
Khách lai bất vấn
nhân gian sự,
Cộng ỷ lan can khán
thúy vi.”
(Chim chậm lời ca, liễu
nở đầy,
Họa đường bóng lộng,
mây chiều bay.
Khách đến, chuyện đời
không hỏi nữa,
Cùng tựa lan can ngắm
biếc ngày.)
Động
và tĩnh quyện vào nhau cả âm vang và sắc màu, khiến cho cảnh Xuân đẹp một cách
sinh động và lãng mạn, làm cho “Khách lai
bất vấn nhân gian sự / Cộng ỷ lan can khán thúy vi” (Khách đến chuyện đời không
hỏi nữa / Cùng tựa lan can ngắm biếc ngày). Trước cái đẹp của Cảnh Xuân, “khách đến” chỉ còn biết thinh lặng, thưởng
thức, tận hưởng, nên “Chuyện đời không hỏi
nữa” vì đã có cái đẹp của Cảnh Xuân nói
hết rồi!
Bài
thơ thất ngôn tứ tuyệt “Nhị Nguyệt Thập Nhất Nhật Dạ” (Đêm Mười Một Tháng
Hai) thể hiện sự mẫn cảm, tinh tế của một vị vua còn rất trẻ, tuy đang sống
trong cung điện sang trọng, đài các, nhàn nhã, nhưng cảm xúc trước cảnh Xuân vẫn
rất nồng nàn, đắm say, hòa nhập vào khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, với rung
động đầy mỹ cảm, tinh tế của một thi nhân:
“Hoan bá kiêu sầu phong
vị trường,
Đào sinh, trúc đạm ổn
long sàng.
Nhất thiên như thủy,
nguyệt như trú,
Hoa ảnh mãn song,
xuân mộng trường.”
(Chén rượu vơi sầu ấm
mãi thôi,
Giường rồng chiếu
trúc khỏe thân rồi.
Trời trong như nước,
trăng ngời sáng,
Hoa đầy song cửa, mộng
Xuân dài.)
Bài
thơ ngũ ngôn tứ tuyệt “Động Thiên Hồ Thượng”(Cảnh
Trên Hồ Động Thiên), chỉ một vài nét phác đơn giản của hình ảnh “Hoa thảo giảm Xuân dung” (Hoa cỏ có vẻ giảm
sút nét Xuân tươi), khiến cho “Thượng
đế liên sầm tịch” (trời thương xót vẻ vắng lặng u tịch nơi nầy) rồi cảm ứng
với không gian mênh mông: “Thái thanh thì
nhất chung” (Thỉnh thoảng điểm một hồi chuông trên tầng biếc). Cảm xúc tinh
nhạy trước cái đẹp vắng lặng, tĩnh mịch của ngoại cảnh đi vào tâm thức một cách
trực tiếp, dậy lên một niềm rung động sâu xa:
“Động thiên hồ thượng
cảnh,
Hoa thảo giảm Xuân
dung.
Thượng đế liên sầm tịch,
Thái thanh thì nhất
chung.”
(Cảnh trên hồ Động
Thiên,
Dáng Xuân gầy hoa cỏ.
Trời thương xót niềm
riêng,
Một hồi chuông xanh tỏ.)
“Xuân
Vãn” (Chiều Xuân),
bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, như một sự bày tỏ chân thành: Trải qua những chiêm
nghiệm từ thời niên thiếu cho đến bây giờ, vị thiền-sư-thi-sĩ đã lĩnh hội được,
đã thấy được một cách thấu đáo về lẽ Sắc-Không của cuộc đời huyễn
ảo. Một khi đã tỏ ngộ, đã thấy rồi thì ung dung tự tại:
“Niên thiếu hà tằng
liễu Sắc-Không,
Nhất Xuân tâm sự bách
hoa trung.
Như kim khám phá đông
hoàng diện,
Thiền bản bồ đoàn
khán trụy hồng.”
(Thuở nhỏ chưa từng
thấu Sắc-Không,
Xuân tươi trăm đóa gửi
chuyện lòng.
Gương mặt chúa Xuân
nay đã tỏ,
Nệm cỏ ngồi xem rụng
cánh hồng.)
Vẻ
đẹp của hoa mai khoe sắc trong mùa Xuân, đã cho thi sĩ nhiều xúc cảm thâm trầm,
sâu lắng trong bài thơ thất ngôn bát cú “Tảo Mai Kỳ Nhất” (Hoa Mai Sớm - Lần
Một):
“Ngũ xuất viên ba kim
niễn tu,
San hô trầm ảnh hải
lân phù.
Cá tam đông bạch chi
tiền diện,
Tá nhất biện hương
xuân thượng đầu.
Cam lộ lưu phương si
điệp tỉnh,
Dạ quang như thủy
khát cầm sầu.
Hằng Nga nhược thức
hoa giai xứ
Quế lãnh thiềm hàn chỉ
ma hưu”
(Tròn xoe năm cánh,
nhụy vàng phơi,
Chìm bóng san hô, vảy
cá trồi.
Đông ba tháng lạnh,
cành im trắng,
Xuân một ngày hanh,
nhánh ấm ngời.
Sương ngọt mùi hương,
lay bướm dậy,
Đêm ngời ánh nước,
khiến chim lơi.
Hằng Nga nếu biết hoa
mai đẹp,
Bóng quế cung thiềm sẽ
chán thôi.)
Tiếp
theo, bài thơ thất ngôn bát cú “Tảo Mai Kỳ Nhị” (Hoa Mai Sớm - Lần Hai),
cảm xúc càng sâu lắng hơn. Thiền-sư-thi-sĩ “lãn xuất môn” (lười ra khỏi cửa).
Nhưng cửa ở đây, không còn là cửa trong cung son điện ngọc nữa,
mà là cửa của một ngôi chùa ở Yên Tử, khi nhà-vua-thi-sĩ đã trở thành
thiền-sư-thi-sĩ, an nhiên thanh tịnh, chiêm nghiệm lẽ Đạo và lẽ Đời:
“Ngũ nhật kinh hàn
lãn xuất môn,
Đông phong tiên dĩ
đáo cô côn [căn].
Ảnh hoành thủy diện
băng sơ bạn,
Hoa áp chi đầu noãn vị
phân.
Thúy vũ ca trầm sơn
điếm nguyệt,
Hoạ long xuy thấp Ngọc
Quan vân.
Nhất chi mê nhập cố
nhân mộng,
Giác hậu bất kham trì
tặng quân.”
(Năm ngày sợ lạnh, biếng
rời nhà,
Gió Xuân vừa ghé gốc
cây già.
Mặt nước bóng chao,
băng sớm lở,
Cành hoa cánh ép, ấm
chưa ra.
Thúy Vũ chim vờn, trăng
xóm núi,
Họa Long sáo ướt, Ngọc
Quan nhòa.
Cành hoa lạc mộng người
xưa gặp,
Tỉnh giấc nên không tặng
được mà.)
Tuy
lấy cảm hứng từ 2 câu cuối của bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt “Tặng Phạm Diệp” của
Lục Khải (nhà thơ cuối đời nhà Hán, nước Tàu): “Giang Nam hà sở hữu / Liêu tặng
nhất chi Xuân” (Giang Nam chẳng có gì cả / Chỉ tặng bạn một cành Xuân)
nhưng tác giả đã chuyển ý rất sáng tạo và rất đẹp, hợp với tâm cảnh của mình ở
hai câu thơ cuối: “Nhất chi mê nhập cố nhân mộng / Giác hậu bất kham trì tặng
quân” (Cành hoa lạc mộng người xưa gặp / Tỉnh giấc nên không tặng được mà).
“Đăng
Bảo Đài Sơn” (Lên Núi Bảo Đài), bài thơ ngũ ngôn bát cú tuyệt bút nói về
mùa Xuân. Có thể xem đây là bài thơ quí hiếm trong kho tàng thơ cổ điển Việt
Nam. Ngôn ngữ thơ giản dị, nhưng dung hợp tài tình giữa cảnh và tâm,
thấu đáo giữa thấy và nghe của một người đã thực chứng bản thể của
cái-đang-là, cái mộng huyễn bào ảnh của vạn pháp, để rồi, trước
phong cảnh của núi Bảo Đài, tác giả đã “Ỷ lan hoành ngọc địch / Minh nguyệt
mãn hung khâm” (Tựa lan can nâng ngang chiếc sáo ngọc / Ánh trăng sáng chan
hòa, đầy tràn trước ngực):
“Ðịa tịch đài du cổ,
Thời lai Xuân vị
thâm.
Vân sơn tương viễn cận.
Hoa kính bán tình âm.
Vạn sự thủy lưu thủy,
Bách niên tâm dữ [ngữ]
tâm.
Ỷ lan hoành ngọc địch,
Minh nguyệt mãn hung
khâm.”
(Đất vắng, lầu càng
cũ,
Xuân mới về chưa lâu.
Mây núi gần xa tỏ,
Ngõ hoa râm sáng màu.
Vạn sự giòng nước cuốn,
Trăm năm tấc lòng cầu.
Tựa lan can nâng sáo,
Ngực sáng ánh trăng
cao.)
Hai
bài thơ thất ngôn tứ tuyệt “Sơn Phòng Mạn
Hứng Kỳ Nhất” (Mạn Hứng Tại Sơn Phòng - Lần Một) và “Sơn Phòng Mạn Hứng Kỳ Nhị” (Mạn Hứng Tại Sơn Phòng - Lần Hai) thấm
đẫm hương vị thiền rất thanh thoát, tự tại:
“Thùy phọc cánh tương
cầu giải thoát,
Bất phàm hà tất mịch
thần tiên.
Viên nhàn mã quyện
nhân ưng lão,
Y cựu vân trang nhất
tháp thiền.”
(Ai buộc gì đâu cầu
giải thoát,
Không phàm đừng nhọc
kiếm thần tiên.
Vượn nhàn ngựa mỏi
thân già yếu,
Vẫn một am mây một
chiếu thiền.)
.
“Thị phi niệm trục
triêu hoa lạc,
Danh lợi tâm tùy dạ vũ
hàn.
Hoa tận vũ tình sơn tịch
tịch,
Nhất thanh đề điểu hựu
Xuân tàn.”
(Phải quấy rụng cùng
hoa buổi sáng,
Lợi danh lạnh theo
mưa ban đêm.
Mưa tạnh hoa tàn, non
vắng lặng,
Một tiếng chim kêu,
Xuân úa thêm.)
*
Thơ
viết về mùa Thu của Trần Nhân Tông tuy ít hơn, nhưng thi tứ, thi cảnh trong từng
bài thơ rất cô đọng và rất đẹp. Những bài thơ thất ngôn tứ tuyệt đạt tới mức u
nhã, uyên mặc.
Bài
thơ “Thiên Trường Vãn Vọng” (Dạo Ngắm Cảnh
Chiều Ở Thiên Trường):
“Thôn hậu, thôn tiền
đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu tịch
dương biên.
Mục đồng địch lý quy
ngưu tận,
Bạch lộ song song phi
hạ điền.”
(Trước thôn sau thôn,
trời nhạt nhòa,
Nửa không nửa có,
bóng chiều tà.
Mục đồng thổi sáo,
trâu về hết,
Cò trắng trên đồng,
cánh nhẹ sa.)
Hình
ảnh bóng chiều tà “bán vô bán hữu” (nửa không nửa có) và hình ảnh “Mục
đồng địch lý quy ngưu tận / Bạch lộ song song phi hạ điền” (Mục đồng thổi sáo,
trâu về hết / Cò trắng trên đồng, cánh nhẹ sa) vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp,
có cả âm vang và sắc màu, tĩnh và động, thực và ảo của mùa Thu ở vùng nông thôn
Việt Nam, vừa tĩnh mịch, vừa thanh thoát, giao cảm đồng điệu với tâm hồn của
thi sĩ.
“Nguyệt”(Trăng),
bài
thơ tả một đêm trăng Thu, cũng là một bức tranh tuyệt đẹp, tứ thơ trầm mặc,
thanh thoát:
“Bán song đăng ảnh
mãn sàng thư,
Lộ trích Thu đình dạ
khí hư.
Thụy khởi châm thanh
vô mịch xứ,
Mộc tê hoa thượng
nguyệt lai sơ.”
(Đèn soi nửa bóng,
sách đầy giường
Sân Thu đêm thoáng,
mát hơi sương
Tỉnh giấc chày khua
đâu đó vẳng
Trăng trên bông quế
ngát đưa hương).
Như
bức tranh thủy mặc với những nét vẽ bảng lảng mênh mông, âm vang lắng trong sắc
màu: “Chiếc cầu, có bóng in ngược xuống mặt
nước, bắc ngang qua suối. Một vạt nắng chiều tỏa sáng bên ngoài ngấn nước. Ngàn
núi tịch mịch yên lắng, những chiếc lá đỏ rơi. Áng mây ướt như giấc mộng đời,
có tiếng chuông vang lên từ xa vọng lại.” Đó cũng là nội dung cô đọng trong
bài thơ thất ngôn tứ tuyệt “Vũ Lâm Thu
Vãn” (Chiều Thu Ở Làng Vũ Lâm) với bút lực tài hoa hiếm có, tác giả đã cho
người đọc một cảm xúc thanh thoát diệu kỳ:
“Họa kiều đảo ảnh
trám khê hoành,
Nhất mạt tà dương thủy
ngoại minh.
Tịch tịch thiên sơn hồng
diệp lạc,
Thấp vân như mộng viễn
chung thanh.”
(Ngược bóng, cầu
ngang suối bắt qua,
Ngấn nước chiều loang
vạt nắng nhòa.
Yên lắng non ngàn,
rơi lá đỏ,
Mây ướt mộng đời,
chuông gióng xa.)
Nét
sầu u tịch trong buổi chiều mùa Thu ở Lạng Châu với nét đẹp mênh mông diệu vợi
trong bài thơ “Lạng Châu Vãn Cảnh” (Cảnh Chiều Ở Châu Lạng):
“Cổ tự thê lương Thu
ái ngoại,
Ngư thuyền tiêu sắt mộ
chung sơ.
Thủy minh sơn tĩnh bạch
âu quá,
Phong định vân nhàn hồng
thụ sơ.”
(Chùa xưa sầu ngất,
mây Thu nhuốm,
Thuyền cá buồn tênh,
chuông chiều rơi.
Núi tạnh nước trong,
âu trắng lượn,
Gió lặng mây nhàn, lá
đỏ phơi.)
Cám
cảnh u tịch của mùa Thu để gửi gắm lòng mình, bài thơ “Đề Phổ Minh Tự Thủy Tạ”
(Đề Thơ Ở Nhà Thủy Tạ Chùa Phổ Minh) toát lên vẻ đẹp thanh thoát lạ thường:
“Huân tận thiên đầu
mãn tọa hương,
Thủy lưu sơ khởi bất
đa lương.
Lão dong ảnh lý tăng
quan bế,
Đệ nhất thiền thanh
Thu tứ trường.”
(Thơm ngát ngàn
hương, tỏa khắp nhà,
Dòng nước êm trôi, dịu
mát qua.
Dưới bóng đa già,
chùa khép cửa,
Ve rân một tiếng, tứ
Thu xa.)
*
Bài
thơ thất ngôn bát cú “Thiên Trường Phủ” (Phủ Thiên Trường), tác giả viết
khi về thăm quê cha đất tổ (sau khi nhà Trần khởi nghiệp lên ngôi vua, đã xây một
hành cung ở hương Tức Mạc, đến năm 1262 vua Trần Thánh Tông đổi tên là phủ
Thiên Trường, hàng năm đều có tổ chức thăm viếng, cúng tế tổ tiên):
“Lục ám hồng hi bội tịch
liêu,
Tễ vân thôn vũ thổ
hoa tiêu.
Trai đường giảng hậu
tăng quy viện,
Giang quán canh sơ
nguyệt thượng kiều.
Tam thập tiên cung
hoành dạ tháp,
Bát thiên hương sát động
xuân triều.
Phổ Minh phong cảnh hồn
như tạc,
Phảng phất canh tường
nhập mộng nhiêu.”
(Xanh thẫm hồng phai,
đêm lắng yên,
Tạnh mưa, mây sáng, đất
khô liền.
Trai đường sau hội,
sư về nghỉ,
Sông quán đầu canh,
trăng mới lên.
Ba chục cung tiên say
giấc ngủ,
Tám ngàn ngọn tháp
ngát triều đêm.
Phổ Minh cảnh vật như
hôm trước,
Mộng thấy vua cha chạnh
nỗi niềm.)
Đoạn
cuối của bài thơ bày tỏ niềm hồi nhớ vua cha Trần Thánh Tông rất cảm động: “Phổ Minh phong cảnh hồn như tạc / Phảng phất
canh tường nhập mộng nhiêu.” (Phổ Minh cảnh vật như hôm trước / Mộng thấy vua
cha chạnh nỗi niềm). “Canh tường,”
2 chữ trong câu cuối của bài thơ, tác giả mượn tích về lòng hiếu thảo của vua
Thuấn đối với cha là vua Nghiêu để bày tỏ lòng mình: Trong sách Hậu Hán Thư (do Phạm Diệp biên soạn vào
thế kỷ thứ 5, đời nhà Hán, nước Tàu) đã thuật lại chuyện khi vua Nghiêu mất,
vua Thuấn tưởng nhớ luôn trong 3 năm. Vì thế, vua Thuấn lúc ngồi thì thấy bóng
vua Nghiêu trên tường, lúc ăn thì thấy bóng vua Nghiêu trong bát canh.
Tứ
thơ đẹp một cách phóng khoáng, nhưng tâm thái rất an nhiên thanh tịnh trong bài
thơ thất ngôn bát cú “Đại Lãm Thần Quang Tự” (Chùa Thần Quang Trên Núi Đại
Lãm):
“Thần quang tự liểu
(yểu) hứng thiên u,
Sanh thố phi ô thiên
thượng du.
Thập nhị lâu đài khai
họa trục,
Tam thiên thế giới nhập
thi mâu.
Tục đa biến thái vân
thương cẩu,
Tung bất tri niên
tăng bạch đầu.
Trừ khước chú hương
tham Phật sự,
Tá dư niệm liễu tổng
hưu hưu.”
(Thần Quang yên lắng,
hứng trong lòng,
Ôm thỏ cưỡi quạ, bay
chơi rong.
Mười hai lầu mở khung
tranh đẹp,
Ba ngàn cõi đọng mắt
thơ chong.
Mây-chó thói đời xanh
trắng đổi,
Sư-tùng niềm nỗi
tháng năm mong.
Học Phật, dâng hương,
chừng ấy việc,
Lo toan buông hết, thế
là xong.)
Hãy
chú ý 2 cặp đối rất hay và rất đẹp trong bài thơ trên: "Thập nhị lâu đài khai họa trục / Tam thiên thế giới nhập thi mâu"
(Mười hai lầu mở khung tranh đẹp / Ba ngàn cõi đọng mắt thơ chong) - "Tục
đa biến thái vân thương cẩu / Tùng bất tri niên tăng bạch đầu" (Mây-chó
thói đời xanh trắng đổi / Sư-tùng niềm nỗi tháng năm mong) với thi hứng
tràn đầy, hình ảnh ẩn dụ thâm trầm, để rồi kết thúc bằng 2 câu thơ cuối rất tự
tại, thanh thoát, buông xả: "Trừ khước
chú hương tham Phật sự / Tá dư niệm hữu tả hưu hưu" (Học Phật, dâng hương,
chừng ấy việc / Lo toan buông hết, thế là xong).
*
Trúc
Lâm Đại Đầu Đà (vua Trần Nhân Tông) trọn đời luôn kính ngưỡng và tri ân người
thầy của mình là Tuệ Trung Thượng Sĩ (Trần Tung, Trần Quốc Tung), thành viên
trong hoàng tộc nhà Trần và cũng là một thiền sư trí huệ lỗi lạc. Ngay từ thời
tuổi trẻ, Trần Nhân Tông đã được Tuệ Trung Thượng Sĩ giáo dục và truyền tâm ấn
Phật pháp. Bài thơ “Tán Tuệ Trung Thượng Sĩ” (Ca Ngợi Tuệ Trung Thượng Sĩ)
chỉ vắn tắt cô đọng trong 4 chữ 6 câu, nhưng thâu tóm được tinh túy cốt lõi về
sự liễu ngộ Phật pháp của Tuệ Trung Thượng Sĩ:
“Vọng chi di cao,
Toàn chi di kiên.
Hốt nhiên tại hậu,
Chiêm chi tại tiền.
Phu thị chi vị,
Thượng sĩ chi thiền.”
(Càng trông càng cao,
Càng khoan càng cứng.
Thình lình phía sau,
Liền thấy phía trước.
Thốt lên cho mau:
Thiền của Thượng Sỹ.)
Phía
dưới bài thơ, tác giả có ghi thêm: “Tự pháp đệ tử Trúc Lâm Đại Đầu Đà cẩn
tán” (Học trò nối pháp là Trúc Lâm Đại Đầu Đà kính cẩn xưng tụng), chứng tỏ
lòng kính ngưỡng và tri ân sâu nặng của vị tổ thứ Nhất dòng thiền Trúc Lâm Yên
Tử đối với bậc Thầy của mình biết dường nào! Ngoài bài thơ cô đọng nầy, Trần
Nhân Tông đã viết bài văn “Thượng Sĩ Hành Trạng” (Hành Trạng của Tuệ Trung
Thượng Sĩ) thuật lại công lao tu tập hành trì và đắc pháp của vị ân sư.
Khi
đọc xong bài thơ trên và bài văn “Thượng Sĩ Hành Trạng,” kẻ hậu bối nầy
dâng trào cảm xúc, nên có viết bài thơ tán thán, kính ngưỡng tri ân, thay cho lời
bình như sau:
“Càng trông lên càng
thấy cao
Càng khoan càng cứng
trước sau hiện tiền
Tuệ Trung Thượng Sỹ
như nhiên”
Chân tâm thấu suốt
chân thiền diệu Không
Khép hai bờ cỏ mơ
mòng
Mở thiên thu hát
thong dong chốn về
Qua đi dứt tuyệt cuồng
mê
Tri ân chánh pháp chở
che kiếp người
Tri ân giọt lệ nụ cười
Chân tâm diệu hữu
trang đời nhẹ đưa
Diệu âm hoa rụng sân
chùa
Nhặt bông nắng lạ xin
thưa: Đang-Là
Triệu năm trong Cõi
Người Ta
Tỉ năm cũng vậy sát na
sáng lừng
Gió đưa gió đẩy sáng
trưng
Sương rung bắt nhịp
tưng bừng hòa thanh
Tri ân tiền bối viên
thành
Câu thơ tinh mật tinh
anh tinh ròng
Càng nghe càng thấm
càng thông
Bạn cùng cô quạnh để
mong gặp mình
Trông lên mây trắng
như kinh
Thấy ra diệu nghĩa tận
tình Như Lai
Hít sâu thở nhẹ một
vài…
Đếm thầm nghe rõ
trong ngoài đang trôi…
(04.2015)
Đặt biệt nhất, “Hữu Cú Vô Cú” (Câu Có Câu Không), bài thi kệ có giá
trị tư tưởng rất uyên áo thâm viễn, thể hiện sự liễu ngộ về Phật pháp của tác
giả.
Bài
thi kệ nầy, viết theo thể 4 chữ (4 câu cho mỗi đoạn, tổng cộng 9 đoạn, 36 câu).
Đây là câu trả lời rất cô đọng, nhưng rất uyên áo thâm viễn của Điều Ngự Giác
Hoàng Trần Nhân Tông về “Có” và “Không”.
Theo
sử sách ghi lại, trong một buổi giảng kinh tại chùa Sùng Nghiêm, tháng 12 năm
Giáp Thìn (1304), khi có một tăng chúng hỏi:
“Hữu cú vô cú / Như đằng
ỷ thụ / Như hà?”
(Câu Có câu Không,
như dây bìm bám cây. Ý là như thế nào?)
Câu
hỏi trên, xuất phát từ tên một công án trong thiền tông “Sớ Sơn Hữu Cú Vô
Cú”. Nội dung công án nầy nói về việc thiền sư Sớ Sơn Khuông Nhân cuối đời
Đường, nước Tàu, tham yết thiền sư Trường Khánh Đại An tại Qui Sơn, Phúc Châu để
tham học ngài Đại An câu “Hữu cú vô cú, như đằng ỷ thụ.” (Nguồn: Từ
Điển Phật Quang).
Từ
câu hỏi đó, Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đã trả lời bằng bài thi kệ “Hữu
Cú Vô Cú” nầy:
“Hữu cú vô cú,
Đằng khô thụ đảo.
Kỷ cá nạp tăng,
Chàng đầu hạp não.
Hữu cú vô cú,
Thể lộ kim phong.
Căng già sa số,
Phạm đao thương
phong.
Hữu cú vô cú,
Lập tông lập chỉ.
Đả ngõa toàn quy,
Đăng sơn thiệp thủy.
Hữu cú vô cú,
Phi hữu phi vô.
Khắc chu cầu kiếm,
Sách ký án đồ.
Hữu cú vô cú,
Hỗ bất hồi hỗ.
Lạp tuyết hài hoa,
Thủ chu đãi thố.
Hữu cú vô cú,
Tự cổ tự kim.
Chấp chỉ vong nguyệt,
Bình địa lục trầm.
Hữu cú vô cú,
Như thị như thị.
Bát tự đả khai,
Toàn vô ba tị.
Hữu cú vô cú,
Cố tả cố hữu.
A thích thích địa,
Náo quát quát địa.
Hữu cú vô cú,
Điêu điêu đát đát.
Tiệt đoạn cát đằng,
Bỉ thử khoái hoạt.”
(Câu Có câu Không,
Cây ngã dây héo.
Mấy vị sư ông,
Đầu sưng óc méo.
Câu Có câu Không,
Gió thu phơi xác.
Sông Hằng ngập cát,
Cam chịu vết thương.
Câu Có câu Không,
Dựng chỉ lập tông.
Khoan rùa đập ngói,
Lên núi lội sông.
Câu Có câu Không,
Chẳng Không chẳng Có.
Khắc thuyền mò gươm,
So tranh tìm ngựa.
Câu Có câu Không,
Chẳng qua chẳng lại.
Nón tuyết giày bông,
Ôm cây đợi thỏ.
Câu Có câu Không,
Xưa nay vậy đó.
Nhớ ngón quên trăng,
Vùi thây đất nọ.
Câu Có Câu Không,
Vậy đó vậy đó.
Tám chữ mở tung,
Còn gì để nói?!
Câu Có câu Không,
Nhìn phải ngó trái.
Lải nhải lằng nhằng,
Om sòm tranh cãi.
Câu Có câu Không,
Đau đau xót xót.
Cắt dứt lòng thòng,
Nầy kia thông suốt.)
Trước
hết, Điều Ngự Giác Hoàng dành 20 câu thi kệ đầu (4 đoạn) để chỉ ra sự nguy hại
của thái độ định kiến, chấp thủ đối với hai phạm trù Có và Không.
Những định kiến, chấp thủ (cũng gọi là chấp thủ trong vô minh) do không thấu hiểu
về bản-chất-như-thật-của-chính-nó, thì rất dễ gây nên những tác hại nguy
hiểm giống như “chàng đầu hạp não” (đập đầu méo óc), “phạm đao thương phong”
(phạm vào dao kiếm, bị thương vì mũi nhọn) hay phí công vô ích như “đả ngõa
toàn quy” (khoan rùa đập ngói), “đăng sơn thiệp thủy” (lên núi lội sông), “khắc
chu cầu kiếm” (khắc thuyền mò gươm), “sách ký án đồ” (so tranh tìm ngựa),”lạp
tuyết hài hoa” (lấy tuyết làm nón, lấy bông làm giày), “thủ chu đãi thố” (ôm gốc
cây đợi thỏ).
Nguyên
nhân chính của việc định kiến, chấp thủ Có / Không này là không nhận rõ
sự sanh khởi và đoạn diệt của tất cả các pháp là do Duyên Khởi (Nghĩa
là: Do cái này Có nên cái kia Có / Do cái này Không nên
cái kia Không / Do cái này Sinh nên cái kia Sinh / Do cái
này Diệt nên cái kia Diệt - Kinh Phật Tự Thuyết). Trong kinh Trung Bộ, Đức Phật nói: “Ai thấy Duyên Khởi tức là thấy Pháp.
Ai thấy Pháp tức thấy Như Lai.” Trong kinh Tăng Chi
Bộ, đức Phật nói: “Tất cả Pháp lấy Tác Ý làm sanh khởi.”
Thật
vậy, chúng ta sẽ không có bất cứ nhận thức hay cảm nhận nào về bất cứ Pháp
gì nếu như trước đó, chúng ta không có sự hướng tâm hay Tác Ý tới Pháp
đó. Nếu có Tác Ý, tức là ngay lúc đó, Ý tiếp xúc với Pháp,
lập tức Ý khởi lên, sự phối hợp đó gọi là Xúc, nhân có Xúc
cho nên có Cảm Thọ, nhân có Cảm Thọ nên có Ái Dục, nhân có
Ái Dục nên có Chấp Thủ, nhân có Chấp Thủ nên có Hữu,
nhân có Hữu nên có Sanh, nhân có Sanh nên có Già Chết,
và toàn bộ Khổ Uẩn tập khởi. Khi Tâm không có Tác Ý, thì không có
Tham-Sân-Si, tuyệt nhiên không có một vật nào xuất hiện (Bổn
lai vô nhất vật - Câu cuối trong bài kệ đắc pháp của thiền sư Huệ Năng
trong kinh Pháp Bảo Đàn). Đây là điều hết sức vi diệu mà chúng ta cần
tỉnh thức suy nghiệm và hành trì tu tập mới có thể thấu hiểu được. Vì sao? Vì đức
Thế Tôn là người chỉ nói lời chân chánh, không có vọng ngữ: “Như Lai là người nói sao làm vậy, làm sao
nói vậy.” Khi đức Thế Tôn nói: “Tất cả Pháp lấy Tác Ý làm Sanh
Khởi”, đó chính là nói đến sự vận hành của Tác Ý: Nghĩa là khi có Tác
Ý xảy ra, thì các Pháp sẽ sanh khởi và đưa tới chấp Hữu, nếu
chúng ta không đích thực tuệ tri. Điều này đúng với tất cả các Pháp.
8
câu thơ của 2 đoạn kế tiếp chính là tâm điểm, huyết mạch của bài thi kệ:
Hình
ảnh có tính ẩn dụ trong câu “chấp chỉ vong nguyệt” (nhớ ngón tay mà quên
trăng) xuất phát từ câu trả lời của đức Phật khi có người hỏi: “Giáo pháp của Ngài có phải là một học thuyết
hay chủ thuyết chăng?” Câu trả lời của đức Thế Tôn đại ý rằng: “Giáo pháp của Như Lai là một phương tiện để
đi vào thực-tại-hiện-tiền chứ không phải để miêu tả thực-tại-hiện-tiền”. Vì
vậy,"Giáo pháp của Như Lai giống như ngón tay chỉ lên mặt trăng.” (kinh
Viên Giác, chương Thanh Tịnh Tuệ). Như vậy, ngón tay
là phương tiện, mặt trăng là mục đích. Mối quan hệ giữa phương
tiện và mục đích tuy có tính biện chứng mật thiết, nhưng người hành
trì tu tập cần hết sức cẩn trọng để khỏi rơi vào hai cực đoan, nhầm lẫn hay chấp
thủ giữa phương tiện và mục đích. Vì vậy, Văn-Tư-Tu chính
là phương tiện thiện xảo giúp cho người hành trì tu tập đạt được Giới-Định-Tuệ,
nhằm thể nhập vào thể tánh của thực-tại-hiện-tiền, tức chân tánh. Nếu cứ
“Chấp chỉ vong nguyệt” (Nhớ ngón tay mà quên trăng) thì tất yếu sẽ dẫn đến
“Bình địa lục trầm” (Vùi thây đất nọ), tức là chìm đắm vào bi kịch trầm
kha trong vô minh tự cổ chí kim của con người mà thôi. Định kiến, chấp
thủ thì không bao giờ đi vào Trung Đạo để Kiến Tánh được.
Đây cũng là lời cảnh báo rất hệ trọng về phương pháp hành trì tu tập.
“Bát tự đả khai” (Tám
chữ tháo tung):
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, “Tám chữ”
trong câu nầy, xuất phát từ câu trích trong kinh Niết Bàn: “Sinh diệt diệt dĩ,
tịch diệt vi lạc” (Sinh diệt nếu diệt rồi, thì tịch diệt là vui). Như vậy,
khi đã thấu hiểu “Bát tự đả khai” (Tám chữ
tháo tung) thì sẽ “Toàn vô ba tị”
(Không còn gì để nói nữa!) Đến đây thì không còn chấp thủ gì với ngón tay (phương tiện) vì ngón tay đã chỉ đúng, đã giúp cho hành
giả nhận ra mặt trăng (mục đích) rồi,
thì hành giả cứ thong dong bước vào Trung Đạo, tự mình hành trì tu tập để đạt mục
đích tối thượng là liễu ngộ chân tánh của vạn pháp!
8
câu thơ của 2 đoạn thi kệ cuối cùng, Điều Ngự Giác Hoàng còn khuyên hành giả phải
dẹp đi những “A thích thích địa / Náo
quát quát địa” (Lải nhải lằng nhằng / Om sòm tranh cãi) và phải “tiệt đoạn cát đằng” (dứt bỏ mọi việc rối rắm
như dây bìm leo) thì mới vượt lên được và không còn kiến chấp, chấp thủ với
hai khái niệm Có và Không, lúc đó mới thấu suốt được thực-tại-hiện-tiền của pháp giới Duyên Khởi, đạt được tự tại thanh tịnh,
tức chân tánh của vạn pháp.
Có và Không cũng
là câu hỏi lớn của nhân loại từ ngàn xưa của các nền triết học, tư tưởng
lớn Đông Tây.
Như
được biết, nền triết học Hy Lạp cổ đại, khởi đi từ Parmenides, triết gia thời
tiền Socratic, đã sớm nhận ra: “Thinking and Being is the same” (Tư Duy và
Hiện Hữu là một). Điều này có nghĩa là Hiện Hữu, tức phạm trù Có
mang ý nghĩa rằng, nó chỉ Có trong tư duy, trong khái niệm mà thôi. Cho
nên, Có, chỉ là một phạm trù quy ước. Cái Có này là vô thường, luôn
luôn biến hoại đoạn diệt. Vì thế, Có, chỉ nên được thiết lập tạm thời để
phơi bày đặc tính duyên khởi của nó, không nên chấp thủ, khẳng định
nó. Ngược lại, trong khi nó đang-là, không cần thiết phải mang khái niệm
Không để phá hủy cái đang-là của nó. Khi nào hết duyên, nó
sẽ tự nhiên Không.
Lão
Tử, nhà triết học Trung Quốc cổ đại, khi giải thích bản thể của vũ trụ, cũng đã
nói trong Đạo Đức Kinh: “Thiên hạ vạn vật
sinh ư hữu, hữu sinh ư vô” (Vạn vật trong thiên hạ đều sinh ra từ Hữu, Hữu sinh
ra từ Vô).
Từ
Đạo Hạnh, một thiền sư lỗi lạc của nước ta, đời nhà Lý, cũng đã có bài thi kệ “Hữu
Không” rất uyên áo thâm viễn:
“Tác Hữu trần sa Hữu
Vi Không nhất thiết
Không
Hữu Không như thủy
nguyệt
Vật trước Hữu Không
Không.”
(Khởi niệm, tác ý Có
thì từ hạt bụi đến hạt cát li ti cũng Có. Khởi niệm, tác ý Không thì cả vũ trụ
này cũng Không. Cái Có cái Không kia cũng giống như ánh trăng trên mặt nước. Đừng
chấp vào cái Không của Có-và-Không!” [Đừng lầm tưởng cho rằng cái Có cái Không ấy
là không có]).
Thiền
sư Huyền Quang, tổ thứ 3 của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử dịch:
(Có thì Có tự mảy may
Không thì cả thế gian
này cũng Không
Kìa xem bóng nguyệt
lòng sông
Ai hay Không-Có
Có-Không là gì!)
Bài
thi kệ của ngài Từ Đạo Hạnh cũng là ngụ ý cảnh báo chúng ta không nên chấp thủ
vào Có và Không để thấu suốt chân tánh của vạn pháp.
Gần
với chúng ta hơn, thế kỷ 15, câu “To be or not to be, that is question”
(Tồn tại hay không tồn tại, đó là vấn đề), là câu hỏi lừng danh trong vở kịch
“Hamlet” của William Shakespeare, nhà viết kịch, nhà tư tưởng vĩ đại của
nước Anh. Đến thế kỷ 19, phạm trù về “Being” (Cái-đang-là, hữu thể, hiện
thể, hiện tồn), là chủ đề chính về bản thể luận (ontology) của Martin
Heidegger, nhà triết học lừng danh của nước Đức, chuyên nghiên cứu về Hữu thể
và Thời Gian (Being and Time) cũng xuất phát từ câu hỏi lớn
như trên. Với tác phẩm này, Heidegger tiếp tục tư duy theo chiều hướng của
Parmenides, khảo sát Có (Being) trong mối liên hệ mật thiết với Dasein
(Dasein, là thực tại Người được nhận diện qua hai đặc tính căn bản
là một hiện hữu biết tư duy và có khả năng cảm xúc tồn tại trong
một bối cảnh không gian và thời gian đang-là, tức là đang-đi-đến cái
Không).
Như
vậy, Có và Không chỉ là qui ước tạm thời về nhận thức, không phải
là cái để ta kiến chấp, chấp thủ. Hiểu được như vậy thì mới có thể thoát ra
khung cửa nhị nguyên Có và Không, để trực nhận về Cái-Đang-Là,
về Thực-Tại-Hiện-Tiền của nguyên lý Duyên Khởi.
Thiết
nghĩ, chỉ có thấm nhuần trí huệ của Phật pháp, cùng với nỗ lực tự tu, tự chứng,
tự mình đoạn tận tất cả các kiến chấp, chấp thủ tiềm tàng ở nội tâm thì mới đạt
được nhận thức viên mãn, siêu vượt lên Có và Không, thể nhập và
liễu ngộ được chân tánh của vạn pháp, tức Phật tánh trong bản thân mình.
Tóm
lại, bài thi kệ “Hữu Cú Vô Cú” của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông,
cách nay đã trên 700 năm, với ngôn ngữ diễn đạt giản dị như một bài đồng dao đầy
Việt tính, nhưng đã chuyển tải những ẩn dụ hàm súc, thâm diệu của Phật pháp,
giúp cho chúng ta biết cách buông bỏ những kiến chấp, chấp thủ về Có và Không,
đạt tới chánh kiến viên mãn, thấu suốt Thực-Tại-Hiện-Tiền để tự mình
quay về chân tâm, liễu ngộ Phật tánh. Thật là điều rất đáng kính ngưỡng và tri
ân vậy.
*
Sách
Thánh Đăng Ngữ Lục có ghi đại ý rằng: Tháng Mười năm Mậu Thân (1308), nhận
được tin công chúa Thiên Thụy ốm nặng, Điều Ngự Giác Hoàng từ Yên Tử về thăm.
Sau khi vấn an công chúa, Ngài lại quay trở về Yên Tử. Đi được nửa đường, Ngài
nghỉ tại ngôi chùa làng ở hương Cổ Châu. Sáng hôm sau, trước khi lên đường,
Ngài viết lên vách tường của ngôi chùa bài thơ “Đề Cổ Châu Hương Thôn Tự” (Đề
Thơ Nơi Chùa Làng Cổ Châu):
“Thế số nhất tức mặc,
Thời tình lưỡng hải
ngân.
Ma cung hồn quản thậm,
Phật quốc bất thăng Xuân.”
(Số đời, một hơi thở,
Tình người, đôi mắt
thôi.
Cung ma nhốt chặt hết,
Xứ Phật rợp Xuân rồi.)
“Thế số nhất tức mặc”
(số phận đời người giống như một hơi thở ra hít vào), thở ra mà không hít
vào thì xem như một đời người sẽ kết thúc. Vì vậy, Sống-Chết mong manh như hơi
thở mà thôi. “Thời tình” (tình của đời
người) chỉ là “lưỡng hải ngân” (đôi mắt).
Nếu thấy thấu suốt điều ấy thì sẽ liễu ngộ lẽ Sống-Chết, vượt thoát hết “ma cung” đã từng “hồn quản thậm” (hồn bị nhốt chặt, khóa chặt hết) mọi chúng sinh.
Chỉ có liễu ngộ lẽ Sống-Chết được như vậy thì mới “Phật quốc bất thăng Xuân” (Xứ Phật tràn ngập màu Xuân khôn xiết kể)
được.
Cũng
vậy, khi mở đầu cho một bài giảng ở chùa Sùng Nghiêm bằng bài thi kệ 4 câu
(trích trong sách Trần Nhân Tông Toàn Tập
của giáo sư Lê Mạnh Thát, đặt tựa bài là “Thân Như”):
“Thân như hô hấp tỵ
trung khí,
Thế tự phong hành
lĩnh ngoại vân.
Đỗ quyên đề đoạn nguyệt
như trú,
Bất thị tầm thường
không quá xuân.”
(Thân như hơi thở ra
vào mũi,
Đời tợ gió vờn mây đỉnh
xa.
Đỗ quyên xót tiếng
trăng ngày sáng,
Chớ lụy tầm ruồng
xuân luống qua.)
Thiết
nghĩ, đây cũng là sự chiêm nghiệm về Ngũ Uẩn Giai Không của Phật pháp.
Phải thấu suốt bản chất mong manh, tạm bợ, vô thường, không thật của Năm Uẩn,
để từ đó xa rời mọi kiến chấp, thủ chấp, sân hận, đố kỵ, tham luyến, nhằm đạt đến
cảnh giới thanh tịnh, an lạc. Hai câu thi kệ cuối trong bài “Thân Như” nầy
giống như lời cảnh báo, thức tỉnh: Hãy quay về chân tâm của chính bản thân mình
mà tự thực nghiệm, thực chứng để thấu triệt, liễu ngộ Ngũ Uẩn Giai Không
thì mới mong kiến tánh, giải thoát.
“Kệ
Vân” là
bài thi kệ nằm ở phần cuối cùng, kết thúc cho bài Phú bằng chữ Nôm của Phật
hoàng Trần Nhân Tông: “Cư Trần Lạc Đạo Phú” (Bài Phú Sống Với Đời Vui Với Đạo).
Đây là một bài phú tuyệt hảo, tuệ giác thâm diệu, tóm thâu tinh túy
cô đọng nhất tư tưởng “Cư Trần Lạc Đạo” của Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
Bài phú gồm có 10 hội, kết thúc bằng bài “Kệ Vân” (trích nguyên văn dưới
đây), đã trở thành tư tưởng cốt yếu, là kim chỉ nam tu tập hành trì của thiền
phái Trúc Lâm Yên Tử cho đến tận ngày nay. Đối với Phật Hoàng Trần Nhân Tông,
Phật pháp đã, đang và mãi mãi hiện diện trong cuộc đời nầy. Cuộc đời rất Thật
mà cũng rất Ảo. Vì vậy, không có sự cách ly phân biệt giữa Đạo
và Đời. Phật pháp nằm chính ngay trong lòng cuộc đời. Người tu tập hành
trì Phật pháp phải thấu triệt tư tưởng đó, ung dung tự tại, để đạt đến “vô
tâm đối cảnh,” giác ngộ chân tánh:
“Cư trần lạc đạo thả
tùy duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc
miên.
Gia trung hữu bảo hưu
tầm mịch,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn
thiền.”
(Ở đời vui đạo, cứ
tùy duyên,
Đói phải ăn thôi, mệt
ngủ liền.
Của quí trong nhà,
tìm đâu nữa,
Vô tâm đối cảnh, hỏi
chi thiền?)
Bài
thi kệ “Thị Tịch”, cũng là bài thi kệ cuối cùng của Trần Nhân
Tông. Trong sách Trần Nhân Tông Toàn Tập của giáo sư Lê Mạnh Thát có
ghi, đại ý: “Ngày mồng một tháng 11.1308, vào lúc nửa đêm, sao
mai sáng rực, Thượng hoàng hỏi Bảo Sát: “Lúc này mấy giờ rồi?”. Bảo Sát
trả lời: “Giờ Tý”. Thượng Hoàng dùng tay mở cánh cửa sổ ra nhìn rồi nói:
“Đây là giờ ta đi”. Bảo Sát hỏi: “Tôn đức đi đâu?”. Thượng hoàng
nói bài thi kệ sau đây:
“Nhất thiết pháp bất
sinh,
Nhất thiết pháp bất
diệt.
Nhược năng như thị giải,
Chư Phật thường hiện
tiền,
Hà khứ lai chi hữu.”
(Hết thảy pháp không
sinh,
Hết thảy pháp không
diệt.
Nếu thấu suốt như vậy,
Chư Phật luôn hiện tiền,
Chốn nào đi đến nữa?!)”
“Không
sinh không diệt, không đến không đi”. Đó cũng chính là Chân Không Diệu Hữu
của vạn pháp. Trong khoảng không-thời-gian vô thỉ vô chung, mọi sự vật, về thực
chất, là sự vận hành do Lý Duyên Khởi tác động, chuyển đổi, chuyển hóa từ
một thể dạng nầy sang một thể dạng khác. Do chấp thủ, định kiến nên chúng ta
không thấy ra dòng chảy bất tận của vạn pháp, rồi cho rằng cái nầy
sinh, cái kia diệt, cái kia đến, cái nầy đi. Nếu thấy
được “Nhất thiết pháp bất sinh / Nhất thiết pháp bất diệt” thì “Chư
Phật thường hiện tiền”, “Chư Phật” cũng là Chân Như, Chân Tánh. Đây
cũng chính là bài kệ đắc pháp thâm diệu của vị Phật hoàng vậy.
Lời Kết
Thơ
Trần Nhân Tông, bắt nguồn từ Phước Duyên rất lớn và cũng là kết quả của nỗ lực
bản thân hành trì tu tập của thiền-sư-thi-sĩ.
Trải
qua quá trình Văn-Tư-Tu, thâm nhập Giới-Định-Tuệ một cách kiên
trì, kham nhẫn ngay từ lúc còn rất trẻ cho đến cuối cuộc đời, ngài Điều Ngự
Giác Hoàng đã liễu ngộ đươc lẽ Có-Không, Sinh-Tử, cảm nhận thấu
đáo Ngũ Uẩn Giai Không nhờ cái thấy xuyên suốt Thực-Tại-Hiện-Tiền.
Vì vậy, thơ Trần Nhân Tông không chỉ dừng lại ở giá trị nghệ thuật thi ca đơn
thuần, mà đáng kể hơn là tầng sâu rộng hoằng viễn, uyên áo về tư tưởng của Phật
pháp. Đặc biệt nhất là tư tưởng Cư Trần Lạc
Đạo, cũng là linh hồn của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, mà Điều Ngự Giác
Hoàng là vị tổ sáng lập, dung hợp mật thiết giữa Đời và Đạo, vừa nhập thế tận
hiến cho Nước cho Dân, vừa kiên trì kham nhẫn tu tập hành trì, liễu ngộ tâm Bát
Nhã.
Đọc
thơ Trần Nhân Tông, kẻ hậu bối nầy tự biết sức đọc, sức học, sức thấy, sức
cảm thụ còn thô lậu nông cạn. Nhưng do lòng kính ngưỡng, quí trọng ngay từ thời
trai trẻ đối với một vị minh quân đỡm lược hiếm có trong lịch sử dân tộc, một vị
thiền-sư-thi-sĩ liễu ngộ thâm sâu hoằng viễn Phật pháp, nên bản thân đã tự nguyện
dồn hết tâm lực tra cứu, nghiền ngẫm, lắng lòng vào thơ vào kệ, viết xuống những
dòng cảm nhận chân thành nầy, kèm theo bài thơ cảm ứng dưới đây (viết từ tháng
07.2015) tạm gọi là bày tỏ lòng kính ngưỡng và tri ân sâu nặng đối với bậc tiền
bối:
CẢM
ỨNG THƠ TRẦN NHÂN TÔNG
1.
người
lính già kể chuyện nguyên phong
rù
rì theo sắc nắng thương mong
đầu
bạc bên chiêu lăng lặng lẽ
tình
quê nợ nước vẫn chưa xong
2.
một hơi thở một đời
thế thôi
gió
cuốn đi thực mộng quên rồi
chùa
làng lưu lại câu tâm bút
thơ
bay đi theo mây rong chơi
3.
núi bảo đài thơm ngát ánh trăng
đời
đang trôi như thầm nhủ rằng
năm
tháng xa gần nâng sáo ngọc
nửa
bóng râm và nửa tuyết băng
4.
mây
giăng ảo diệu trên yên tử
chuông
chiều thở nhẹ quanh thiền tự
cánh
hồng rụng nhớ cánh bướm bay
nệm
cỏ sư ngồi tứ niệm xứ
5.
thị phi hoa rơi rụng
buổi sáng
lợi danh lạnh theo
mưa ban đêm
bật
một que diêm trong im vắng
rít
điếu thuốc tàn chẳng nghĩ thêm
6.
xã tắc lưỡng hồi lao
thạch mã
sơn hà thiên cổ điện
kim âu
đời
nay ngu ác đày dân khổ
trào
đình hèn mạt sợ thằng tàu
7.
thơ
là kệ hay kệ là thơ
hỏi
làm chi xác chữ cứng đơ
thần
hồn tạnh ráo sáng con mắt
pháp
không sanh không diệt sang bờ
8.
tịch
mịch rền câu có câu không
thuở
anh niên đội nắng băng đồng
trời
chẳng nói và đất chẳng nói
nắng
đầu xuân gọi nắng đầu đông
9.
tịch
mịch vui trăng non vừa nhú
tịch
mịch sầu vớt lên tuyệt cú
sông
thu vừa hớp ngụm sương mai
trời
thu vừa nở thêm một nụ.
Calif., Westminster,
hoàn tất bản thảo vào mùa Thu 2016,
hiệu đính cuối tháng 12.2016
hiệu đính cuối tháng 12.2016
Nguyễn Lương Vỵ
Ghi chú:
1.
Phần trích thơ Trần Nhân Tông: Chỉ
trích phần phiên âm nguyên tác chữ Hán và phần phỏng dịch thơ Việt của người viết.
Riêng 2 cặp thơ lẻ (còn gọi là phiến)
ngôn ngữ và ý nghĩa khá rõ ràng, người viết dựa theo các bản dịch thơ trước đây.
2. Duyên khởi (縁 起, Pali: Paṭiccasamuppāda),
cũng được gọi là Nhân Duyên Sinh (因
縁
生), và vì bao gồm 12
thành phần nên cũng có tên khác là Thập
Nhị Nhân Duyên (十 二
因
縁). Duyên
Khởi là một trong những giáo lý trọng yếu nhất của Phật pháp. Thuyết này chỉ rõ
là mọi hiện tượng tâm lý và vật lý tạo nên đời sống đều nằm trong một mối liên
hệ với nhau, chúng là nguyên nhân của một yếu tố này và là kết quả của một yếu
tố khác, làm thành một vòng với mười hai yếu tố. Các yếu tố này làm các loài hữu
hình cứ mãi vướng mắc trong Luân Hồi SinhTử. Theo kinh Duyên khởi, mười hai nhân duyên cụ thể như sau:
.
Vô minh (無 明), sự không thấu hiểu Tứ Diệu Đế, không hiểu
Khổ là tính chất căn bản của đời sống.
.
Vô minh sinh Hành
(行), hành động tạo Nghiệp.
Hành động này có thể tốt, xấu hay trung tính. Hành có thể ở trong ba dạng:
thân, khẩu và ý.
.
Hành sinh Thức
(識), làm nền tảng cho một
đời sống tới. Thức này đi vào bụng mẹ. Thức lựa chọn cha mẹ đúng như Hành tốt xấu
quy định.
.
Thức sinh Danh Sắc
(名
色), là toàn bộ tâm lý
và vật lý của bào thai mới, do Ngũ Uẩn tạo thành.
.
Danh sắc sinh Lục Căn
(六根), là các giác quan,
sáu căn (năm giác quan và khả năng suy nghĩ là sáu). Lục Căn bắt đầu tiếp
xúc với bên ngoài gọi là Xúc (觸).
.
Xúc sinh Thọ
(受), là cảm nhận của
con người với thế giới bên ngoài.
.
Thọ sinh Ái
(愛), tham ái, lòng ham
muốn xuất phát từ vô minh.
.
Ái sinh Thủ
(取), còn gọi là Thủ Chấp,
là điều cá nhân muốn chiếm lấy cho mình.
.
Thủ dẫn đến Hữu
(有), là toàn bộ những
gì ta gọi là tồn tại, sự sống, thế giới.
.
Hữu dẫn đến Sinh
(生), là cuộc sống hàng
ngày, bao gồm dục là tham ái và lòng ham muốn.
.
Sinh dẫn đến Lão Tử
(老
死), vì có Sinh nên có
Già Chết.
3.“Tất Cả Pháp Lấy Tác Ý Làm Sanh Khởi”: Nguyên bản Pali của
câu này là: “manasikārasambhavā sabbe
dhammā”. Bản dịch tiếng Anh của Thanissaro Bhikkhu là “All phenomena come into play through
attention”. Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch là : “Tất cả Pháp lấy Tác Ý làm sanh khởi”.
4.
Thiền sư Huệ Năng (638-713), là vị Tổ thứ sáu của Thiền tông nước Tàu, môn
đệ của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn. Ngài là tác giả của tác phẩm chữ Hán duy nhất được gọi
là “Kinh” (một từ thường được dùng để chỉ những lời dạy của đức Phật Thích Ca),
đó là “Pháp Bảo Đàn Kinh,” có ý nghĩa
rất sâu xa về thiền. Bài kệ đắc pháp của ngài Huệ Năng như sau: "Bồ đề bổn vô thụ, / Minh kính diệc phi
đài. / Bổn lai vô nhất vật, / Hà xứ nhạ trần ai.” (Bồ đề vốn chẳng là cây, /
Gương sáng cũng chẳng phải là đài. / Xưa nay không một vật nào cả, / Nơi nào
dính bụi trần?).
5.
Thiền sư Từ Đạo Hạnh (1072-1116): Tục gọi là đức thánh Láng, là một thiền
sư thời nhà Lý. Cuộc đời ông được ghi lại dưới nhiều màu sắc huyền thoại. Dân
chúng lập đền thờ ông tại chùa Thiên Phúc (nay thuộc xã Sài Sơn, huyện Quốc
Oai, thành phố Hà Nội), tục gọi là chùa Thầy và chùa Láng, chùa Nền ở Hà Nội.
Hàng năm, lễ hội chùa Thầy được mở vào ngày 7 tháng 3 âm lịch, tương truyền là
ngày ông viên tịch.
6.
Thiền sư Huyền Quang (1254-1334): Tên thật là Lý Đạo Tái, người hương Vạn
Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang. Nay là làng Vạn Tải, xã Thái Bảo, huyện Gia
Bình, tỉnh Bắc Ninh. Ông học rất giỏi, đỗ cả thi Hương, thi Hội. Về sau, ông đỗ
đệ nhất giáp tiến sĩ (trạng nguyên) khoa thi khoảng năm 1272 hay 1274 và được bổ
làm việc trong Viện Nội Hàn của triều đình nhà Trần, tiếp sứ Bắc triều, nổi tiếng
văn thơ. Sau này, ông từ chức đi tu, theo Trần Nhân Tông lên Trúc Lâm. Là một
Thiền sư Việt Nam, tổ thứ ba dòng Trúc Lâm Yên Tử. Ông là một nhà thơ lớn với
nhiều bài thơ còn được lưu lại. Cùng với Trúc Lâm Đầu Đà Trần Nhân Tông và Pháp
Loa, ông được xem là một Đại thiền sư của Việt Nam.
7.
William Shakespeare (1564-1616): Là nhà thơ, nhà viết kịch người Anh, được
coi là nhà thơ vĩ đại nhất của Anh và là nhà viết kịch đi trước thời đại. Ông
cũng được vinh danh là nhà thơ tiêu biểu của nước Anh và là “Nhà thơ của Avon”
(Avon là quê của Shakespeare, viết tắt của Stratford-upon-Avon). Những tác phẩm
của ông, bao gồm cả những tác phẩm hợp tác, bao gồm 38 vở kịch,154 bản sonnet,
2 bản thơ tường thuật dài, và vài bài thơ ngắn. Những vở kịch của ông đã được dịch
ra thành rất nhiều ngôn ngữ và được trình diễn nhiều hơn bất kì nhà viết kịch
nào.
8.
Martin Heiderger (1889-1976): Triết gia người Đức. Một số tác phẩm tiêu
biểu của ông: "Hữu thể và Thời Gian,"
đây là tác phẩm đã đưa ông trở thành nhà triết học có tầm vóc lớn trong thế kỷ
20 và có ảnh hưởng sâu rộng cho đến ngày nay, được xuất bản năm 1927; “Kant và vấn đề siêu hình học”; “Nhập môn
siêu hình học” (1935); “Học thuyết
Platon về chân lý” (1942); “Bức thư về chủ nghĩa nhân bản” (1947); “Những con đường rừng” (1950); "Những bài thuyết trình và những bài viết"
(1952); “Tư duy là gì” (1954); “Nietzsche” (1961) và một số tác phẩm
chưa ấn hành.
Nguồn tham khảo chính: Thơ Văn Lý Trần,
NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1989) - Lê Mạnh Thát, Trần Nhân Tông Toàn Tập,
NXB TPHCM, 2000 - Nguyễn Huệ Chi, Văn Học Cổ Cận Đại Việt Nam, Từ Góc
Nhìn Văn Hóa Đến Các Mã Nghệ Thuật, NXB Giáo Dục, 2013 - Các trang mạng wikipedia.org
- thuvienhoasen.org - thivien.net.
No comments:
Post a Comment