Lưu
Na
Hình minh họa của Lưu Na
Tám
Sề tung chăn, ra bếp. Trời đã tối, mắt mụ
cay sè vì đã chơi game hơn hai tiếng đồng hồ.
Mụ thèm ăn phở xào dòn nhưng quá lười ra phố, thôi, lại mì tô Đại hàn
cho qua bữa. Mụ thầm rủa xả mình, đồ đàn
bà thối thây, nhưng có hạ bao nhiêu quyết tâm thì mụ vẫn thấy trên đời chỉ còn
thú chơi game trên điện thoại là đáng kể.
Tám
Sề mở tủ bếp lấy cái ly. Rầm, cửa tủ tuột
tay sập lại. Mở gói cà phê trộn sẵn đổ
ra ly, bụi cà phê rơi đầy mặt bàn bếp.
Ra phòng ăn bấm nút lấy nước sôi, lóng cóng nước nhiễu xuống sàn, lại phải
lau. Bây giờ mụ thấm cái lụi cụi của mẹ
mà mụ đã không tiếc lời càm ràm cằn nhằn cửi nhửi khi bà cụ còn ở nhà. Tối như vầy, chắc bà đã ngủ yên nơi nhà dưỡng
lão. Mụ thở phào. Chẳng phải mụ muốn vậy, nhưng nhờ vậy mà mụ
không phải trả lời câu hỏi “thằng Tư đâu?”
của mẹ.
Mụ
nói sao, bởi ai bỏ ai thì vẫn là gẫy đổ, mà gẫy đổ vì cái gì cũng lại không nói
được cho rành. Tám Sề bắt gặp mình lại
nghĩ đến Tư đục, đến người chồng mà mụ phải nghiến răng rẫy bỏ. Giờ này ngoài vùng cận sa mạc chắc lão cũng
đã lên đèn. Lão có ra sân hút thuốc và
ngó mông trời đất? Cái vùng nắng gió khô
cằn ấy là địa ngục cho dân phố thị như mụ, như lão - nhưng là lão của một kiếp
xưa nào – cái kiếp đã tạm xa khi bước vào đời lính, và chôn vùi hẳn khi cuộc
chiến đã tàn. Tư đục bước ra khỏi trại cải
tạo chỉ còn một dúm xương da, quờ quạng như đã mấy đời ở xứ Chắc Cà Đao. Nhưng lão rõ ràng hẳn hoi là một con người, bởi
ẩn chứa sau cái chậm chạp rúm ró lừ đừ là một ý chí dứt khoát: không khuất phục.
Đem
hết cái ý chí đó, lão đã mặc chiếc áo sơ mi sạch sẽ nhất có thể có với tấm quần
jean bạc thếch đến gặp bà cụ, gặp 20 con mắt để xin cưới mụ! Cũng còn may bà cụ đã lịch sự cám ơn và xin
khất vài ngày suy nghĩ. Suy nghĩ, là mụ
phải suy nghĩ, chứ cụ bà đã hỏi vào mặt mụ một câu ngắn gọn – mày ăn súp nước lã mà sống có được không? Mụ đã băm mấy tuổi đầu đâu còn thơ dại mà mộng
mơ, nhưng lấy lão dù gần 50 còn hơn lấy cán bộ.
Mụ giã gia đình vác gói theo lão ra vùng núi đá gần Nha Trang sinh sống. Nắng cháy bỏng da, núi đá hắt ánh nắng chói
chang vào mắt, lão cứ lầm lũi đục. Đi
làm cả ngày với thợ đá chưa đủ, tối về buông chén cơm muộn ra lão lại đục dưới
ánh đèn vàng võ. Mụ thường tần ngần ngó
lão, lòng băn khoăn không biết phải làm sao cho lão rời tay. Mụ thương lão phận đời thất lạc, nhưng dường
như không lời nói nào thay được tiếng lạch cạch chan chát ngày đêm vang lên như
những tiếng gầm gừ uất hận thở than. Lại
có những khi lão không làm gì cả, cáo bịnh ở nhà suốt ngày thơ thẩn. Đó là những khi mưa. Đáy mắt lão như ươn ướt, ánh mắt mông lung vắng
lạnh. Lão có thể nắm tay mụ đứng bên cửa
sổ hằng giờ, cho đến khi mụ rút tay ra tìm chỗ ngồi xuống cho đỡ mỏi. Lão buông những tiếng thở dài ngăn ngắn, tắc
lưỡi chép miệng như sốt ruột như xót thương nhưng lại chỉ lắc đầu khi mụ hỏi “chuyện gì?”
Tình
vợ chồng của mụ gọn gàng dứt khoát như những nhát đục chan chát: hãy chấp nhận
nhau, đừng hỏi vì sao.
Nhưng
mụ không thể không thương lão, và lão cũng thương mụ không kém. Những khi mụ bịnh vì không quen với phong thổ,
mà mãi vẫn không quen, lão mang đến cho mụ từng ly nước, muỗng cháo, lau cho mụ
từng giọt mồ hôi. Những lúc đó lão lại
là người của kiếp xưa, cái kiếp hào hoa vui sống yêu đời. Lão hát cho mụ nghe nhạc Pháp, nhạc tiền chiến;
lão ra chợ mua về một bó hoa bí cắm trong cái ly thủy tinh cho đến chiều thì
đem nấu canh tôm khô cho mụ húp mát ruột.
Lời yêu của lão chỉ là những ngón tay thô nhám vuốt sợi tóc mai, quệt
ngang má rồi nắm nhẹ trái tai. Tình của
lão nằm gọn trong khối đá vân trắng khắc đầu tượng của mụ với mái tóc chấm vai
và đôi khoen tai lão đã phải làm lụng trong sáu tháng mới để dành đủ tiền mua tặng
mụ ngày cưới – nghĩa là cái ngày lão được đến nhà mụ thắp ba nén nhang lạy tổ
tiên, uống miếng nước trà ăn vài ba cái bánh pa tê sô rồi dẫn mụ về chòi.
Cứ
như vậy lão và mụ sống cận kề trong im lặng, cái im lặng nhức buốt tâm can bởi
mụ không thể nào san sẻ nỗi sầu thất lạc trong lão. Những đêm trăng sáng ngồi hút thuốc nơi sân
trước, bên cạnh bếp lửa nhỏ mụ nấu nồi chè đậu đen với gừng, lão kể những chuyện
không đầu không đuôi của những cái tên không nguồn không gốc với những tai ương
mất tay chân mất mạng mất răng mất ngón mất vợ mất con mất bè bạn, những giọt
nước mắt khô và những tủi cực không bờ không bến. Những lúc đó lão như thây ma trong quan tài vụt
sống dậy chứ không như tấm thể xác không hồn của mỗi ngày.
Núi
đá đục muôn năm chắc vẫn còn, mụ cam sống cuộc sống nhọc nhằn chỉ mong lão tìm
được chút bình yên nơi công việc vất vả ồn ào ấy hầu lấp đầy cõi lòng khốn khổ
tuyệt vọng với cuộc đời. Cho đến khi lão
được xuất cảnh diện H.O.
Cái
tình vợ chồng im ắng cũ bỗng chốc như bụi đá tan trong gió. Nơi đây quá sạch quá êm. Nơi đây không phải đổ mồi hôi sôi máu mắt vẫn
đủ sống. Mụ chưa tới 40 tuổi đầu nên dễ
dàng lao vào đời sống mới, nhưng Tư đục bỗng phải về vườn. Ta làm
gì cho hết nửa đời sau? Lão lẩm nhẩm
câu đó từ một cuốn thơ. Đọc sách chùi
nhà nấu cơm rửa bát bắt xe buýt đi chợ, những ngày tháng đó lão bao biện mọi việc
để mụ có thể vừa làm vừa học cho khỏi phí quãng đời đứt đoạn vừa qua. Khi mụ học xong mảnh bằng cũng chợt nhận ra
Tư đục bắt đầu đục vào quãng không và cái tiếng chan chát giờ lại ầm ĩ vang
vang trong tai mụ. Cuộc đời đẩy mụ tới
trước, tới nỗi không còn có thể nắm tay lão để đứng hằng giờ trong thinh lặng
như xưa. Mọi giao tiếp với người chung
quanh giờ tắt lịm, bởi lão như gớm ghiếc cuộc sống gớm ghiếc con người. Mụ ngoảnh
mặt cùng bè bạn đồng nghiệp chỉ vội vội để về bên lão. Về nhà để thấy rất gần lại rất xa. Mụ càng với càng thất lạc lão, càng ân cần hỏi
han chăm sóc lão càng thống khổ muộn phiền.
Mà nào phải mụ và lão không còn thương nhau. Lão vẫn vuốt những sợi tóc mai của mụ lúc đêm
về, lúc lão nghĩ rằng mụ đã ngủ, và mụ vẫn phải nắm tay lão mới có thể có giấc
an bình.
Lần
đầu khi lão vô thức đục đục vào quãng không mụ đã rúm cả người lại. Anh Tư,
anh Tư… mụ gọi, lão dường chỉ nghe được âm thanh mơ hồ. Lâu dần mụ cũng nghe văng vẳng tiếng chan
chát bên tai, rồi đến một lúc nào đó mụ nghe ra khi nào lão tách được một phiến
đá vuông vức, khi nào khối vân thạch bị mẻ.
Những lúc đó mụ vội vàng nắm tay lão lôi ra xe chạy miết miết, chạy bất
cứ con đường nào đưa mình xa thành phố để một lúc nào đó quay nhìn chỉ có mình
và mênh mông ngàn cây nội cỏ. Ra đồng
hoang là Tư đục tỉnh cơn mộng dữ, mặt lão dãn ra và lần tìm bàn tay mụ nắm chặt
trong suốt quãng đường mịt mờ. Cái trò
chồng đục vợ nghe hai ta cùng chạy đó ngày một thêm nhiều.
Cho
đến một hôm mụ lạc vào vùng đồi núi khô cằn cận sa mạc. Suốt mấy dặm đường ngoằn nghèo chỉ toàn băng
ngang đồng hoang sỏi đá, vắng hoe. Và một
căn nhà nhỏ nằm chơ vơ xa tít gần bên núi trọc với tấm bảng rao bán cắm sát lề
đường. Mụ chưa kịp buông tiếng cười diễu
“bán cho ma” thì bắt gặp lão đang
nhìn đăm đăm căn nhà ấy. Và mụ hiểu, mụ
hiểu mình phải đành…
Pom,
pum, pang pang, tiếng đập cửa dồn dập làm Tám sề giật bắn người, đánh rơi cái
ly. Cà phê và miểng thủy tinh văng tứ
phía. Mụ túm vội cây chùi nhà gom tạm mảnh
vỡ và cà phê lại một chỗ rồi ra mở cửa.
Thằng
Cập ùa vào như bão lốc, hai tay lần lượt níu gót rút giầy quẳng qua một bên chỉ
30 giây, rồi lao tới ghế sa lông hạ mình cái huỵch. Mụ tự hỏi cái ghế đó chịu nổi 100 ký của nó
hay không. Máu trong người mụ bắt đầu
sôi.
-Ở
Mỹ lâu chưa, có biết lịch sự là gì không?
-Mới gần chín giờ, bộ mụ tính đi ngủ sao?
-Già
rồi, không quởn vác dái chạy rông.
-Tui chỉ qua nhà bà, không chạy rông đâu hết. Tui đang ứa máu con vợ, bà để tui thở chút được
không?
Mặt
nó trơ như đá, hai mắt lạnh băng chứ không tinh nghịch như mọi bữa. Mụ im lặng đợi chờ.
-Tui về tới nhà thì ông già vợ đang ngủ nên
tui cũng lên phòng, mà vừa chợp mắt thì “nó” lôi tui dậy để “tâm sự” với ổng.
-Thì
ổng còn có năm ba tháng đời, thân ái được lúc nào hay lúc đó. Chắc hắn thấy ông cụ thức dậy nên cũng kêu mi
dậy.
-Đó, đó, vậy mới điên. Ổng vẫn còn đang ngủ, nó đánh thức ổng và tui
dậy để “hai người nói chuyện tâm tình!!!”
Tui đem hết chữ trong hắc thư của tui ra chửi nó một trận. Nhưng tui vẫn còn muốn bóp cổ nó nên mới phải
dông goa đây.
Thằng
Cập vừa dứt lời thì điện thoại reo. Nó mở
phone rồi thì khói lửa đạn bom mù trời, súng uzi nổ không biết đâu mà đón. Nó sổ từng tràng tiếng Ả rập đầy những ro ro
khò khò khạc khạc cho tới khi tiếng khản đặc thì cúp phone cái rụp. Nếu có ngọn núi lửa nào phun thì đó là lúc nó
giận, mà nếu có ai vấp điều tuyệt vọng thì cũng là lúc nó lặng thinh mặt lạnh
như tiền.
Bằng
tiếng Anh giọng Pháp tốc độ Trung Đông, nó kể cho mụ nghe cái cuộc trao đổi hết
sức “hữu nghị” giữa nó và “con vợ ngu xuẩn.”
Không
đành chửi nó bất nhơn, mà cũng không thể bông lơn xúi nó gửi thư cho “dear
Arby,” Tám Sề làm thinh lau dọn sàn bếp. Chỉ độ mươi phút mà thấy hết cả hơi, mụ chả buồn
ừ hữ nữa cứ mặc cho thằng Cập lải nhải.
-Tui nói nãy giờ bà có nghe gì không?
-Nghe
súng liên thanh nổ.
Cặp
mắt nó trợn trắng nhìn mụ, in như khói phun ra từ lỗ mũi. Mụ giả lả nói,
-Uống
cái gì không?
-Cái chai đó của bà? Mụ liếc mắt _ Cordon Rouge Grand Marnier.
-Chứ
của ai. Nó cười rộ,
-Đàn bà uống si rô thì phải rồi.
Mụ
chẳng thèm trả lời trả vốn, chỉ đặt chai rượu và cái ly lên mặt bàn bếp. Thằng Cập vồ cái chai đổ ra hai lóng tay ực một
hơi. Cũng
được, mặt nó coi bộ đã nguôi ngoai.
Nó làm thêm vài cái “hai lóng tay” thì mụ lo mình sẽ mắc nạn. Mụ dòm nó lom lom.
-Mi
khôn ngoan hết mực, rất biết lòng thiên hạ, sao lại lâm cái cảnh cọ quẹt trống
xuôi kèn ngược?
Nó
dòm mụ lạnh lùng. Nó biết mụ nói
gì. Bởi nó từng khoe khoang có thể nắm bắt
tâm ý thiên hạ cỡ 99.9 phần trăm. Chả biết
thiệt hay không, nhưng dường như nó biết rõ tánh từng người ở cái sở 85 người
đàn bà 15 người đàn ông này. Nó biết ai
đi xe gì đậu ở đâu, sở làm đặt cameras khi nào chỗ nào. Nó biết nói chuyện diễu cỡ nào cho loại người
nào, nó có cách nói chuyện cư xử mà xếp thường phản ứng đúng như nó toan
tính. Nó là ma, ma cà bông. Không ai biết nhiều về nó mà ai cũng muốn lại gần – kẻ thích, thích nó vui tươi thông minh lanh lẹ;
kẻ ghét, ghét nhưng vẫn cần nó bởi khả năng đoán xét tình hình tìm hiểu thông
tin và cách đối phó hữu hiệu cho mọi tình huống. Vậy, mà giờ nó đang trụ ở nhà mụ vì cái nửa
“ngu xuẩn” kia. Mụ muốn vạc vào mặt nó
cái chuyện trớ trêu đáng đời đó, nhưng không nỡ. Bởi nó từng tuyên bố, “tui không nghĩ chuyện bỏ ‘nó.’
Con cái cha mẹ họ hàng bè bạn nhà thờ, tui không thể mà cũng không muốn
gì khác hơn là chấp nhận. Khôn lắm cũng
có một lần ngu, bà cứ tự nhiên mà cười… “
-Vợ không phải để yêu.
Nỗi
chua chát và chán chường trong câu nói làm mụ sót lòng. Nó bao nhiêu tuổi đầu để hạ những câu lý sự
buồn tênh. Vợ không phải để yêu, nhưng mụ còn trở thành gánh nặng khôn kham
cho cuộc đời Tư đục. Những khi mụ mua
cho lão một tấm áo, rủ rê lão đi với mụ tới một nơi nào đó đều được một cái lắc
đầu. Tư đục lóng nghe từng tiếng chim
sáng, tiếng gió đêm, mà chẳng thể nghe tiếng đời sống quanh mình. Sự xa hoa, cho dẫu chỉ là một bộ quần áo tươm
tất, như quá mức chịu đựng của một người đã bị đẩy về kiếp tiền sử ăn lông ở lỗ. Ơn phúc của đất trời vô lượng, lão sống như khóm
cây ngọn cỏ lăn lóc ở hang động cũng đủ một hơi thở, sao phải lòe loẹt điểm
trang! Lão như viên đá cuội lặng chìm dưới
đáy nước cuộc đời, mụ như nhánh rong cứ
nấn ná quẩn quanh mà vẫn phải chịu trôi theo dòng im chảy.
Ngày
dọn về căn nhà chơ vơ ấy lão băn khoăn đi xuống đi lên. Mụ tưởng lão yếu sức không thể xếp dọn đồ
dùng nên lăn vào dành mọi chuyện. Lão chỉ
thở những hơi thở dài thầm lén. Đêm xuống,
khi bóng đêm che lấp những cách biệt của kiếp người, lão nằm xuống tấm phản tay
mân mê lọn tóc mai của mụ. Khi ấy, người
lão dãn mềm như tấm bánh dầy mới vắt mùi nếp còn nhẹ nhàng ấm áp thoang thoảng
trong gió đêm. Và lão đã buông lời, những
lời tha thiết tận đáy lòng để khuyên mụ nên trở về thành phố. Buổi sáng trở dậy, mụ thu xếp những món riêng
tư cần thiết. Mụ không cam lòng rời bỏ
người chồng yêu dấu, nhưng càng không cam lòng thấy Tư đục khổ đau trăn trở với
trách nhiệm xã hội khi lão không còn có thể là người của xã hội. Cuộc phong ba qua đã lâu rồi, nhưng không còn
ai có thể tạo dựng lại những gì nó đã tàn phá.
“Anh Tư, anh có biết em phải đành
xa anh để anh có thế sống cuộc sống còn lại của đời anh…”
Những
đêm nằm một mình mụ nhớ lão thảm thiết, nhớ tấm thân gầy như chiếc xương lá mục
nằm dán sát trên tấm phản nơi căn nhà ở vùng đá sỏi. Mất bao nhiêu triệu năm để hồn người vươn
lên? Mất bao nhiêu ngày tháng để xóa
nhòa niềm yêu sống? Nghĩ đến Tư đục, Tám
Sề thấy thương nỗi hằn học đắng cay thất vọng của thằng Cập, thương luôn cả những
hoang đàng chi địa ham vui háo thắng lăng nhăng của nó. Con trai, hãy yêu, hãy sống, hãy khổ đau… Đừng để nhịp đời cạn kiệt vì sẽ không bao giờ
tìm lại được. Chai rượu chỉ còn một nửa
bên thằng Cập đang dòm mụ với nét cười cợt thách đố. Hm, ranh con, mi nghĩ chỉ mình mi biết sống? Mụ với lấy cái ly rót cho mình hai lóng
tay. Nó cười khà hân hoan như cành khô
được tưới đẫm. Nó lại mở máy.
-Con Monica mới text cho tui, bà biết nó nói
gì không?
-Không
muốn biết.
-Nó chửi tui ngu, chê tui không được như thằng
Isaac. Tui làm lơ không trả lời. Nó hết gửi hình ngực trần giả bộ than có vấn
đề để dụ, rồi thấy tui im thì lại so sánh tui với thằng khác để khiêu khích.
-Ủa,
sao lại mèo chê mỡ? Nè, đừng có nói mình
ngoan đạo chung tình nghen.
-Không có đâu, nhưng tui muốn là được, mà
không muốn thì chấp nó dở trò.
-Ngon
dữ.
-Không ngon gì, nhưng chắc chắn là không ngoắt
đuôi khi nó búng tay. Ở xứ tui thì bọn
nó chẳng bao giờ có dịp để gặp tui.
-À
há, ra là dân mi cũng có máu phân chia giai cấp, cũng chồng chúa vợ tôi ra gì.
-Kể ra văn hóa xứ tui cũng giống văn hóa xứ
bà, nhưng dân tui không ăn gián.
-Thịt
chó chứ?
_Gí…
_Phớ..ớ
Tám
Sề thắng kịp. Thằng Cập cười ngoặt ngẽo,
“sao, sao, bà tính nói gì?” Tám Sề làm lơ rót thêm hai lóng tay. Gần mực thì đen. Thuở mới đặt chân lên xứ này mụ thường thầm
khinh những đứa trẻ mở miệng là chửi thề.
Bây giờ mụ nghe ra trong những cái thô bỉ ấy là tiếng đời mặn nồng nhưng
trong trắng. Mưa còn có tiếng đục tiếng
trong.
Tám
Sề làm thêm hai lóng tay. Đêm chắc đã
đêm hơn bởi mụ thấy căn phòng sáng rực ánh đèn vàng ấm. Mặt thằng Cập rực ánh hồng, mắt long
lanh. Nó đang huyên thiên đến cái chuyện
mấy con bồ cũ, đến những ngày vàng son thuở ăn nên làm ra tiền vào như nước, đến
những cú làm ăn dễ như lấy tiền trong ví…
Ôi cuộc sống, mụ thèm biết bao nhiêu một miếng cuộc đời, mụ tiếc biết
bao nhiêu những điều chưa biết, và, mụ muốn chết biết bao nhiêu vì có nghĩa gì
đâu kiếp sống này. Anh Tư, anh đang làm
gì? Mụ lại nghĩ đến Tư đục và không còn
có thể đẩy hình ảnh ấy ra khỏi cái đầu dần mênh mông nhòe nhoẹt.
Lạnh,
lạnh quá. Tám Sề mở mắt nhưng chẳng thấy
gì. Mụ nghe xa xa mơ hồ có tiếng ri rỉ,
rồi dần rõ ra tiếng xào xạc của đêm khuya.
Mụ ngồi tung dậy, căn nhà vắng lặng.
Hóa ra mụ đã ngủ lăn quay ở ghế sa lông với một đống gối gác tay chèn
quanh và tấm mền nhỏ phủ ngang người. Thằng
Cập đã lẳng lặng ra về từ lúc nảo lúc nào chả rõ. Một mình váng vất, Tám Sề vào giường. Mụ nằm im nghe tiếng tim mình đập phập phồng
trong lồng ngực, rồi mụ lại nhớ tới những hơi thở chầm chậm chán chường của chiếc
xương lá mục nơi góc trời kia. Anh Tư, có bao giờ em tìm lại được hồn cây
xương lá?
LƯU
NA
04262017
*Nguyễn
Đình Toàn, Mưa Khuya
No comments:
Post a Comment