Tô
Đăng Khoa
Thi phẩm Nguyễn Lương Vỵ
“Trong u tịch, xương
máu bỗng khua vang
Cho ta rơi giữa trời sâu không đáy…”
Cho ta rơi giữa trời sâu không đáy…”
Niệm
Khúc? Khúc nhạc của sự hoài niệm? Thi sĩ vì nhân duyên gì mà tấu lên Niệm Khúc
này? Ngôn ngữ thi ca của Nguyễn Lương Vỵ sẽ đưa chúng ta chạm trán điều gì qua
ba đoản khúc trong sự liên hoàn hoài niệm của bài thơ Niệm Khúc?
Hoài
niệm về quá khứ là một việc làm liều lĩnh, nếu không muốn nói là nguy hiểm.
Nhưng ở đâu có hiểm nguy, ở đó có sự thoát hiểm. Sự thoát hiểm chính là nguồn lực
hiệu quả nhất giúp con người chuyển đổi nhận thức. Đó chính là vị thầy lớn nhất
mà chúng ta nên học. Nguyễn Lương Vỵ đã liều lĩnh hẹn hò với cô quạnh và tan vỡ
của bóng ma quá khứ để tấu lên bài Niệm Khúc này, và qua đó đã cống hiến cho
các độc giả hữu duyên một Sự Kỳ Ngộ hy hữu đệ nhất. Nhưng mà Kỳ Ngộ với Ai? Với
Cái gì? Làm sao ông đã thành tựu sự Thoát Hiểm ngoạn mục này? Ta hãy thong thả
theo dõi cuộc hẹn hò của Nguyễn Lương Vỵ với bóng ma quá khứ khi ông vừa châm lửa
mồi điếu thuốc trên môi, mở màn cho một cuộc hoài niệm phiêu bồng:
“Hẹn hò với cô quạnh
Có dịu dàng lắm không?!
Niệm khúc vang màu hồng
Câu thơ vang màu mắt
Mang theo niềm bí mật
Khỏa thân tuyết trắng ngần
Vĩ cầm như lệ ngân
Bay đi cùng nỗi nhớ
Có dịu dàng lắm không?!
Niệm khúc vang màu hồng
Câu thơ vang màu mắt
Mang theo niềm bí mật
Khỏa thân tuyết trắng ngần
Vĩ cầm như lệ ngân
Bay đi cùng nỗi nhớ
Hẹn hò với tan vỡ
Có nói điều gì không?!
Hay chỉ có bão giông
Nghiêng đêm cành khô gãy
Que diêm vừa bật cháy
Dăm chiếc lá vừa rơi
Điếu thuốc ngậm trên môi
Mù sương về trên mái…"
Không
như những cuộc hoài niệm thông thường, trong đó, kẻ hoài niệm không hẹn trước,
bị vùi lấp trong những con sóng xúc cảm: Có khi bâng khuâng trong tiếc nuối về
việc lẽ ra nên làm, hoặc bàng hoàng ưu hận trước những đổ vỡ khôn hàn. Ở đây,
thi sĩ đã ý thức rất rõ vìệc mình đang làm. Ông đã có “hẹn trước” cùng với cô
quạnh và tan vỡ. Nhưng trong cái tan vỡ, cô quạnh đó, ông vẫn làm cho độc giả
“dự cảm” được dòng mạch ngầm “bí mật” đang vang vang và thật như thanh khí thường
hằng của sự sống:
“Niệm khúc vang màu hồng
Câu thơ vang màu mắt
Mang theo niềm bí mật
Khỏa thân tuyết trắng ngần…”
Câu thơ vang màu mắt
Mang theo niềm bí mật
Khỏa thân tuyết trắng ngần…”
Khi
khói thuốc mù sương đã tụ về trên mái, là lúc thi sĩ dùng bút pháp dời độc giả
sang cảnh giới khác của quá khứ. Không gian thời gian, dịch chuyển, mời người
khách lạ bước vào ma trận của cuộc hoài niệm.
“Không gian đưa tay vẫy
Thời gian nhón gót về
Ngã tư nằm lóng nghe
Ngã ba rao lạc giọng
Đời lầm than hắt bóng
Phố rách vai hắt hiu
Ta khách lạ thầm kêu
Gọi ta xưa biệt tích…”
Thời gian nhón gót về
Ngã tư nằm lóng nghe
Ngã ba rao lạc giọng
Đời lầm than hắt bóng
Phố rách vai hắt hiu
Ta khách lạ thầm kêu
Gọi ta xưa biệt tích…”
Và
thế là cuộc hoài niệm đến hồi gay cấn, không gian, thời gian dồn về trong một
niệm. Người Khách như lọt vào trung tâm cơn bão giông: “Ngã ba rao lạc giọng / Đời lầm than hắt bóng / Phố rách vai hắt hiu…”
Và khách lạ, đã đánh mất chính mình, đã lạc lối trong ma trận của cuộc hoài niệm:
“Ta khách lạ thầm kêu / Gọi ta xưa biệt tích”. Và đây là đỉnh
điểm của sự hiểm nguy: Sự đánh mất chính mình trong chính cuộc hoài niệm của
mình.
Nhưng
ở đâu có hiểm nguy, ở đó có sự thoát hiểm. Và mầu nhiệm thay, chỗ thoát hiểm khỏi
ma trận của cuộc hoài niệm này lại nằm ngay cái “Ngã Tư” của ma trận trong một
câu rất vu vơ: “Ngã tư nằm lóng nghe”
(Ngã Tư? Hay là cái Ngã rất riêng Tư, cũng có thể là cái Ngã Biết Suy Tư?)
Ngã
Tư này có liên hệ gì với "Con Đường
Ngã Ba" của Bùi Giáng?
Sự
lóng nghe của “Ngã Tư” này có liên hệ
gì với sự lóng nghe của viên đá trong hai câu thơ của Tuệ Sỹ?:
“Đá mòn phơi nẻo tà
dương
Nằm nghe nước lũ khóc chừng cuộc chơi”
Nằm nghe nước lũ khóc chừng cuộc chơi”
Cuộc
hoài niệm nào suy cho cùng chỉ là một cuộc chơi, theo lối “vui thôi mà” của Bùi Giáng. Nhưng ở đây
vui chơi mà Kỳ Ngộ. Mà cái cuộc Kỳ Ngộ này mới thật là ngoạn mục. Nó thành tựu
được là nhờ sự biết lóng nghe của cái “Ngã Tư”đã hoàn toàn trong u tịch:
“Phải đâu trong u tịch
Xương máu bỗng khua vang
Âm âm âm khuất oan
Âm âm âm ưu hận
Phải đâu trong vô tận
Những trận gió thâm tình
Âm âm âm trắng tinh
Âm âm âm đỏ ối…”
Xương máu bỗng khua vang
Âm âm âm khuất oan
Âm âm âm ưu hận
Phải đâu trong vô tận
Những trận gió thâm tình
Âm âm âm trắng tinh
Âm âm âm đỏ ối…”
Trong
u tịch, thi sỹ bỗng “Nghe Ra” hay “Kỳ Ngộ” một điều kỳ diệu: Xương máu bỗng khua vang… và cả những trận
gió thâm tình, những Âm âm âm khuất oan /
Âm âm âm ưu hận, và cả những âm âm âm sắc màu trắng tinh và đỏ ối!?
Trong
u tịch, xương máu Kỳ Ngộ cùng xương máu. Xương máu đã Nghe Ra xương máu.
Trong
u tịch, ngôn ngữ đành bất lực đứng nhìn xưong máu hòa tan trong âm thanh, âm
thanh rền vang xương máu, phổ trong một Niệm Khúc liên hoàn bất tận. Thật là một
sự Kỳ Ngộ Hy Hữu Đệ Nhất trong cái ma trận của sự hoài niệm.
Cơn
bão lớn của bóng ma quá khứ, tưởng sẽ nhận chìm người hoài niệm trong sự hối tiếc
khôn kham, nay đã tan biến, vì dấu hỏi nghi vấn nay đã biến mất. Biệt Ly và Kỳ
Ngộ đã trở thành Bất Nhị như hai mặt của một bàn tay. Người khách lạ chẳng còn
nghi, thõng tay trôi vào luân hồi.
“Niệm khúc hay dấu hỏi
Chẳng cầu mong đáp lời
Ta đi như ta trôi
Như luân hồi vậy đó…”
Chẳng cầu mong đáp lời
Ta đi như ta trôi
Như luân hồi vậy đó…”
Ta đi như ta trôi / Như
luân hồi vậy đó.
Lời thơ thật bình dị, chân thật, và đẹp biết bao! Đi như trôi, nên không còn
dáng dấp của cái Ta nữa.
Sự
thoát hiểm trong ma trận của sư hoài niệm cho người khách một nguồn sống mới dồi
dào sinh lực.
Thi
Ca và Âm Nhạc cũng không diễn tả hết sự mầu nhiệm của sự Kỳ Ngộ này, trở nên lạnh
câm, lạnh ngắt:
“Nhương sao trong lá
cỏ
Tìm bóng trong hạt mầm
Câu thơ buông lạnh câm
Câu hát buông lạnh ngắt
Biệt khúc hay dấu sắc
Thương dấu huyền bơ vơ…”
Tìm bóng trong hạt mầm
Câu thơ buông lạnh câm
Câu hát buông lạnh ngắt
Biệt khúc hay dấu sắc
Thương dấu huyền bơ vơ…”
Sự
hẹn hò, sự tan vỡ, và niềm cô quạnh, hiện rõ
chân tướng nhân duyên của chính nó.
Niềm Hạnh Phúc, hay Nỗi Cô Quạnh khi đầy đủ nhân duyên thì tự nó đến, hãy để cho nó tự đi khi nó hết duyên.
Niềm Hạnh Phúc, hay Nỗi Cô Quạnh khi đầy đủ nhân duyên thì tự nó đến, hãy để cho nó tự đi khi nó hết duyên.
Cuộc
Kỳ Ngộ giúp tác giả và độc giả nhận ra nhau, nhận ra cái Ta ảo tưởng trong ma
trận của cuộc hoài niệm và cùng lúc đó được Kỳ Ngộ cùng Ta chân thật (cái Ngã
biết Tự Sát): Cái Tánh Linh biết lóng nghe những vui buồn hiện khởi tiềm ẩn
trong xương máu này.
“Hẹn hò như sợi tơ
Chẳng bao giờ níu được
Hẹn hò như bọt nước
Ta chờ như ta rơi
Rơi rơi rơi rơi rơi
Giữa trời sâu không đáy…”
Chẳng bao giờ níu được
Hẹn hò như bọt nước
Ta chờ như ta rơi
Rơi rơi rơi rơi rơi
Giữa trời sâu không đáy…”
Westminster,
3. 2013
Tô Đăng Khoa
_____________________
Ghi Chú: Bài Thơ Niệm Khúc - Trích trong thi tập Tám Câu Lục Huyền Âm, NXB Q&P Production
2013 của Nguyễn Lương Vỵ.
No comments:
Post a Comment