Bài
viết của Khuất Đẩu
Tranh vẽ trong hang động thời đồ đá.
Photo Pedro A. Saura. AP
Cách
đây khoảng 10 năm, tôi nhặt được đâu đó tập truyện và những đoản văn của Lâm
Chương. Sách được xuất bản tại Mỹ, nhưng photocopy tại Việt Nam. Sau trận phần
thư và đưa một số nhà văn đi cải tạo, thì việc lưu truyền một tác phẩm từ một
người tù cải tạo là cực kỳ nguy khốn. Nhớ trước đây, Hoàng Hưng chỉ giữ một bản
chép tay tập thơ của Hoàng Cầm mà phải bị tù đến mấy năm. Thì ai đó xem xong rồi
xóa dấu vết bằng cách thải vào đống ve chai cũng là chuyện thường ngày.
Chính
trong tập truyện nhàu nhò bị kết tội là phản động ấy, tôi đã đọc được bài thơ rất
dị thường của Nguyễn Xuân Thiệp. Lâm Chương kể:” Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp có
bài Đốt lửa nghe sư đàn. Đọc lên cứ nghe rờn rợn. …mùa đông rét mướt, áo quần
không đủ che thân…lạnh quá không ngủ được, tù ngồi hơ tay bên đống lửa…”
Bài
thơ ấy mà chỉ cần một câu lọt đến tai ban quản giáo là coi như tác giả sẽ được
cọng thêm nhiều năm trong con số năm đã cao chất ngất của mình! Đó là chưa nói
tới hình phạt cùm chân tức thời, e rằng đã vùi thây đâu đó bên bờ suối.
Bài
thơ mở đầu bằng những chữ khô cứng, dù đứng cạnh nhau thành câu sáu, bảy chữ
nhưng vẫn rạc rời như những đốt xương vỡ vụn vừa bốc lên từ mộ sâu:
đốt
lửa. chừng như người qua khe
mùa
đông. tím. những nương mưa
đốt
lửa bên trong lán suối
mưa.mưa
trên con đường núi
có
ai tìm vầng trăng mọc khuya
rét.đói.sầu
miên. đất.đá.gỗ
đầm
sấu hoang.lau thắp.bến chờ
Bạn
hãy nhìn cho kỹ những dấu chấm ở hai câu cuối. Những dấu chấm bé nhỏ, lặng lẽ,
đã biến những từ và cụm từ trở thành mồ côi, nếu không muốn nói là bị giam cứng
trong ngục tù. Có thể tin rằng đó là thân phận của những người tù, dù biết nhau
nhưng không dám nhìn nhau. Trước 75 những người viết văn và làm thơ ai chẳng biết
Tô Thùy Yên nổi tiếng với những bài thơ tự do, vậy mà, mãi sau này khi ra tù
Lâm Chương mới biết cũng là một trong những người “rét.đói.sầu miên” ngồi nghe
sư đàn.
Đốt
lửa được lập lại hai lần, nhưng những câu thơ vẫn lạnh ngắt, vì mưa. mưa. mưa…mưa
đến nỗi mùa đông tím. Chữ tím ở đây không lãng mạn như màu tím hoa sim của Hữu
Loan, mà là tím tái (vì đói và lạnh) và tím gan tím ruột (vì uất hận).
Đói.rét.sầu miên…nhưng lạ lùng làm sao, những người tù miền nam vẫn thao thức
“tìm vầng trăng mọc khuya”. Đó là chút lãng mạn rất người vẫn còn sót lại của
những kẻ bị cướp tất cả, bị đày đọa xuống tận cùng của cái ác!
Chính
vì vậy mà tiếng đàn của nhà sư mặt ốm bỗng rộ lên vừa hư ảo vừa thắm thiết lạ
thường. Nửa như tiếng của quỷ ma, nửa như tiếng của tù thổn thức.
sư ngồi đàn như cây
trăm năm
…cây đàn gỗ xưa như mặt
trăng
…năm ngón tay gầy như
chim ưng
bật dây.rỏ máu.hoàng
hôn rừng
gọi những mùa đi
không trở lại
đàn qua.tiếng buồn
trong lau sậy
gió thu đưa võng. ai
chờ ai
Nhà
sư này là ai vậy? Có phải nhà sư ở Hàn Sơn Tự, không đánh chuông mà lại gảy
đàn? Không. Nhà sư này cũng là một người tù!
kể từ sư rũ áo đi đày
cái tâm mây nổi.
trăng thiền đạo
cuồn cuộn trường
giang sóng lục đầu
Một
nhà sư thoát tục đến như vậy mà muốn sống đành phải:
đầm cỏ nước in thân
cò vạc
bắt cua.vồ nhái. ngày
qua ngày
Để
rồi:
đêm đêm ôm đàn trong
xó tối.
Người
đàn “bật dây.rỏ máu” còn người nghe thì sao?
người nghe đàn khơi đỏ
lửa khuya
tóc râu tiền kiếp đầm
hơi mưa
Bảy
chữ câu sau vẽ nên hình hài vừa bi vừa tráng của những người tù. Giống như ba
ngàn tân khách tóc dựng ngược khi nghe Kinh Kha hát “tráng sĩ hề nhất khứ bất
phục phản!”
Tiếng
đàn khiến họ “bỗng thấy sân nhà cây sứ
gãy/ năm cửa ô quan ngấn lệ mờ/ những nẻo chiều sương người rách rưới/những mái
nhà mưa xoi nắng rọi/ lọ rơi.sành vỡ.lục cục âm…”
Khi
tiếng đàn của nhà sư mặt ốm khiến “ gỗ nổi.đá
lăn.trâu bứt gốc/hồn u. mả tối./rạng tiếng Ngư Dương thơ quỷ đọc…”
Nhưng
khi tiếng đàn dứt, hãy còn nghe “tiếng đàn trôi trong hương lá xanh” và trông
thấy tiếng “đàn ngân. cánh chim soi trên đầm” Thanh bình làm sao! Bát ngát làm
sao! Những người tù quên “đói.rét.sầu miên” quên những ngày dài ô nhục, tưởng
chừng “mặt đất vừa qua cơn mộng dữ” để mơ thấy “từ trong động ấy giờ trăng mọc/
ánh trăng chảy vàng trăm cửa sông”.
Nhà
sư mặt ốm kia dù “bắt cua.vồ nhái” qua tiếng đàn như “mưa thu rơi trong trăng”
đã giải thoát cho chính mình và liễu ngộ được cái chúng sinh tù tội đang ngập
chìm trong khổ đau cùng tột.
Bài
thơ chẳng những dị thường về ý mà còn dị thường về những hình ảnh. “tím những
nương mưa”, “cây đàn gỗ xưa như mặt trăng. gốc cây cháy như đầu thiên cổ. huyễn
huyễn củi tàn màu kinh xưa”.
Và
rất nhiều câu thơ đẹp:
cái tâm mây nổi trăng
thiền đạo
cuồn cuộn trường
giang sóng lục đầu
sư ngồi đàn như cây
trăm năm
hơi đàn trôi trong
hương lá xanh
ánh trăng chảy vàng
trăm cửa sông…
Thử
nghe lại tiếng đàn trong những áng thơ cổ. Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu:
“đàn kêu tích tịch tình tang/ai đem công chúa lên thang mà về” Tiếng đàn kể công
chẳng có chút gì là mã thượng. Với Nguyễn Du, ba lần Kiều đàn là ba tâm trạng
khác nhau. Lần đầu khiến Kim Trọng phải “khi vò chín khúc khi chau đôi mày”. Lần
thứ hai trước Thúc Sinh thì “bốn dây như khóc như than/ khiến người trên tiệc
cũng tan nát lòng”. Lần thứ ba với Hồ Tôn Hiến: “một cung gió thảm mưa sầu/bốn
dây rỏ máu năm đầu ngón tay”. Đúng là : “rằng hay thì thực là hay/ nghe ra xưa
cũ mượn vay thế nào!”
Trong
khi, tiếng đàn của nhà sư trong đêm đốt lửa tuy có mượn của Nguyễn Du mấy chữ
“bật dây.rỏ máu”, nhưng so những câu “tiếng
khoan như gió thoảng ngoài/ tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa” với “dạo đàn.mưa
thu rơi trong trăng/ tiếng mau. chim bay qua mùa đông” thì thực hoàn toàn khác
xa, nếu không muốn nói mới lạ hơn, hay hơn. Còn như “ve ngâm vượn hót nào tày”
mà so với “đàn ánh thép xanh gươm phạt trúc/gỗ nổi.đá lăn.trâu bứt gốc/hồn u mả
tối đây là đây/rạng tiếng Ngư Dương thơ quỷ đọc”, nếu cụ Nguyễn Du có sống lại
cũng phải khen Nguyễn Xuân Thiệp là tài.
Có
một tiếng đàn được coi là hay nhất cổ kim, ấy là tiếng tì bà trên bến Tầm Dương
của một kỹ nữ về già phải kết duyên cùng khách thương. Tiếng đàn ấy làm cho Tư
mã Giang châu phải lệ đầm áo xanh vì cảm phận mình đi vào nơi đất trích. Nhưng
đó là một bối cảnh hết sức lãng mạn, có ánh trăng, có hơi thu và nhất là tiếng
đàn của một kỹ nữ đẹp tuy không còn trẻ. Tiếng đàn ấy đương nhiên là mênh mang
bát ngát.
Còn
nhà sư rũ áo đi tù, cùng với những người tù đói rét, trong đêm tối đốt lửa, bối
cảnh hoàn toàn khác, có thể nói là cực kỳ trái ngược. Chính vì vậy mà tiếng đàn
ấy không chỉ nói lên một phận người mà hàng vạn người, rộng hơn là tiếng kêu đứt
ruột của mấy chục triệu người miền Nam.
Lâm
Chương bảo: “ Nguyễn Xuân Thiệp thai nghén và làm bài thơ này từ năm 1977 đến
1988. Mười một năm ròng rã, dốc hết tâm huyết cho một bài thơ đầy nội lực”. Chỉ
một bài này thôi cũng đủ phơi bày hết cả cái Nhân, cái Bi, cái Trí và cái Dũng
của Nguyễn.
Xin
được ngã mũ kính chào*
10/4/2017
KHUẤT
ĐẨU
*Đốt
Lửa Nghe Sư Đàn
đốt
lửa chừng nghe người qua khe
mùa
đông tím những nương mưa
đốt
lửa bên trong lán suối
mưa.mưa
trên con đường núi
có
ai tìm vầng trăng mọc khuya
rét.đói.sầu
miên.đất.đá.gỗ
đầm
sấu hoang.lau thắp.bến chờ
lửa
đã cháy.cháy trên củi ướt
tù
ngồi hơ tay nghe cổ tích
chuyện
Huyền Trang đi thỉnh kinh
bỗng
trong đêm rộ tiếng ai đàn
lửa
củi soi nhà sư mặt ốm
kể
từ sư rũ áo đi đày
cái
tâm mây nổi.trăng thiền đạo
cuồn
cuộn trường giang sóng lục đầu
đầm
cỏ nước in thân cò vạc
bắt
cua.vồ nhái.ngày qua ngày
đêm
đêm ôm đàn trong xó tối
năm
ngón tay gầy. tiếng thổ cầm
sư
ngồi đàn như cây trăm năm
lửa
cháy xèo xèo nùi nhựa ngái
khói
tỏa mù khe.màu cỏ rối
dạo
đàn.mưa thu rơi trong trăng
tiếng
mau.chim bay qua mùa đông
đàn
ánh thép xanh.gươm phạt trúc
gỗ
nổi.đá lăn.trâu bứt gốc
hồn
u.mả tối.đây là đây
rạng
tiếng Ngư Dương thơ quỷ đọc
lán
sâu.bếp ảo.lửa đào lay
cây
đàn gỗ xưa như mặt trăng
năm
ngón tay gầy như chim ưng
bật
dây.rỏ máu.hoàng hôn rừng
gọi
những mùa đi không trở lại
đàn
qua.tiếng buồn trong lau sậy
gió
thu đưa võng.ai chờ ai
đêm
cẩm khê.đàn trong u độc
người
nghe đàn khơi đỏ lửa khuya
tóc
râu tiền kiếp đầm hơi mưa
bỗng
thấy sân nhà cây sứ gãy
năm
cửa ô quan ngấn lệ mờ
những
nẻo chiều sương người rách rưới
những
mái nhà mưa xoi nắng rọi
lọ
rơi.sành vỡ.lục cục âm
khuya
rồi.ai đẽo gỗ huỳnh đàn
ửng
sắc hoa gầy trên áo quan
sư
bỗng ngừng đàn.nhìn đống lửa
gốc
cây cháy như đầu thiên cổ
huyễn
huyễn củi tàn màu kinh xưa
mặt
đất chừng qua cơn mộng dữ
nên
ngón tay gầy như ngó sen
hơi
đàn trôi trong hương lá xanh
đàn
ngân.cánh chim soi trên đầm
mùa
hoa mơ nở trắng non ngàn
từ
trong động ấy giờ trăng mọc
ánh
trăng chảy vàng trăm cửa sông
bếp
rụi.lửa riu.âm đàn dứt
trăng
lên rồi.hổ xuống cẩm khê.
NXT
No comments:
Post a Comment