Phố
Văn
Thường Quán
Sinh
1956 tại Đà Nẵng.
Hiện
sống tại Melbourne.
Thơ,
tiểu luận đăng phần lớn trên các tạp chí văn nghệ ngoài nước như Văn Học, Văn,
Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Tập Họp, Việt, Nhân Văn, Quê Mẹ, Diễn Đàn.
Thơ
Anh ngữ đăng rải rác ở The Age Saturday, Meanjin, Heat
Tác
phẩm đã xuất bản:
Ngoài
Giấc Ngủ (Nhà xuất bản Văn Nghệ California, 1990), Hải Đảo, Trở Lại (2017)
Thường
Quán từng viết, “thơ là huỷ hoại những giá trị ban đầu của chữ, phá vỡ tính ổn
định của nó, để tạo những phản ứng mới và bất ngờ” (“Những mảnh vỡ ý nghĩ về
thơ”). Từ đó ta thấy Thường Quán kén
chọn chữ nghĩa… Có vẻ như từng chữ một đều là những suy nghĩ cô đọng, gợi lên
nhiều hình ảnh nối tiếp.
Gốc
rễ của thơ: ta có thể thả lửng như những đầu bạch dương mà mùa màng đã dọn hết
lá, treo giữa trời kia, hay có thể kéo lại gần, cùng thứ kỷ niệm chung cùng, của
những ai đã từng đi qua bìa một cánh đồng, đứng trước một căn nhà, về tới một
bìa nước, nước soi rọi thơ ấu.
Tôi
gởi bạn người cầm tập thơ này khoảng không gian ấy.”
Thơ
Thường Quán mới, mang vẻ đẹp trong sáng của ngôn ngữ và trí tuệ.
PV
Southbank
Melbourne, 15-5- 2016
for Q.
Cây
xáo động và chim gỡ rối
những
lát đá đường đằm tĩnh chảy xuôi
nắng
chưa lên, người chưa hiện
tay
trần mùa hè, tượng tạc mùa thu
ngày
xa khuất đó mây dường kín dày hơn, áo dạ kéo cao hơn
chiếc
cổ ở khung cửa hải cảng cực Nam
một
cột khói hải dương tìm tới
một
tiếng dội cột buồm
những
thủy thủ đốt lửa
nước
réo cà phê trên bếp xanh lì lầm
ngày
xa khuất đó Á Châu là một viền cong
sự
trôi dạt và đắm, kéo dài hơn một cự ly
không
nằm ngoài một đuôi mắt
nhưng
chỉ có kẻ tín thành nhất may mắn thấu đạt
Ngôn
ngữ mà những kẻ đứng trên boong tàu dò dẫm nghe ngóng
sẽ
hiện trên hoa văn chiếc khăn
một
sườn núi trải ra, một đôi tay mang tới
triêu
dương để lại độ cháy nồng trên vòm trăng khuyết
tĩnh
tịch dưới một đáy hồ
sóng
đã thôi reo sau đêm gió chướng
tiết
trời keo lại trên ngọn dương tùng
một
mỏ chim cắn miếng trong trẻo
kêu
rân vang ức ngực, sắc diệp lục
nguyên
tố khởi sinh, kẻ đứng thù tiếp hương sương sớm
một
đọt cau, một nương trà
Tôi
từng đứng đó và em từng bay lượn ở buổi sáng ấy
khi
gió vẽ những hình thù trên thềm cát
những
hạt cát di động trong ánh sáng
Có
gì trần trụi hơn cát, áo lá nào linh động hơn ngày thu, ánh sáng
chúng
ta thả mặc phần trống của tương lai
căn
phòng ngày đó, và chúng ta tới đây
chiếc
cửa vòm những mẫu tự la tinh, những họa tiết mới
một
ngày hỏa hoàng, ký ức cháy lên cùng đầu lưỡi hiện tại
sự
thả mặc hẳn đã tìm được bầu trời lạ lẫm từ ái
những
bạch dương, ngô đồng, bạch đàn, những hiền triết du sĩ
những
thính phòng, chiếc bảng đen ký hiệu của phương hướng
Đó
là một đêm đi về hướng Nam khi sao chớm hiên vườn học xá
thế
giới không chỉ nằm trong ôm sách mới
đó
là một chiều bày biện tiểu luận khai minh
không
có gì ngoài tình yêu và không khí mà sống
đó
là một tiếng gõ tay vào cửa, một đôi mắt sáng bất ngờ
đó
là những mở tung mùa hè, không biết ai sẽ trở lại
với
ai, ai sẽ nói gì, ai sẽ chọn
buổi
sáng và đêm tối, để bắt đầu bước
cuộc
bước đi trong âm tiết những câu thơ những đầu lá khởi thảo
trên
gạch cũ, đá xanh, những kẽ nứt vôi và hắc ín
những
con đường bên này sông và bên kia
chỗ
mà tôi đang ngồi đây, trí nhớ
Treo
bên kia, tháp nhà ga, những buổi sáng trước sáu giờ
tôi
đã tới, bước xuống từ một khoang tàu
ngoại
ô đại học, đi vào cửa ngõ thành phố
những
cửa sổ còn đóng, những ô lầu vàng đèn
sự
kỳ bí của những mái lầu Collins Street, Queens Street
yên
trong sương mù tháng sáu, tháng bảy
yên
vị, như em những ngày mới quen
đã
giúp gõ của thức sớm tôi, đúng hẹn
khuôn
mặt sáng, trước bình minh, trước hiện tại, tương lai
con
tàu mà, xem nào, chỉ có thơ ghi đúng tốc độ
đó
là vòng quay trong studio, trước bản tin sớm
Strauss,
Mendelssohn, Tschaikowsky
tây
ban cầm Narcisco Yepes, những ca khúc tinh sương
của
Schubert, của những ai hai mươi
mây
mù cửa sổ lạc vào từ biển
Tôi
thả nổi nhạc cho làn sóng ngắn, ngồi hình dung
em
đang sửa soạn một ngày ở căn phòng học xá
những
ai đang sắp sửa một chuyến vượt thoát
bên
kia biển, sóng dấp và giữa khơi ngấp ngấp ngoại tầm
không
ai biết định mệnh của mình giữa những lưu vực tăm tối
giữa
sự sống và sự biến mất là một thoáng tĩnh lặng
riêng
tư, kín mật, chỗ của đôi tay cầm lấy vô hình
trao
gởi cho lòng từ mà tim máy động hình dung
một
triêu khúc, một chuỗi chuông reo, trên cao vầng trán
ngày
đầu mà con người đứng dậy, tư duy, bao lâu xa, chốn mít mùng bếp lửa
Trí
nhớ đánh nốt, viết trên trang ngày, bất ngờ
Dư
âm ở cánh cửa đi vòng, sau thời gian, là nghe được
ca
khúc, sầu khúc, tẩu khúc
Âm
thanh trên đá khi chân đã đi qua
tri
kỷ với thời tiết để dấu trên gân lá
đã
rụng, hay còn bay, trời thu, dung nhiếp
linh
hồn mình.
Sông
Hàn
Đã
đứng đó một buổi sáng
Đã
đứng vào đúng chỗ đứng ấy
Sông
trôi kia, nước trôi kia, một người đội nón trên ghe, người đàn bà quẩy tay chèo
Chị
nhìn nước, rong bèo của nước
Tôi
nhìn chị, người đưa buổi sáng ra đi
Sẽ
nhanh lắm, chớp mắt là một cách nói
Người
áo cánh, chiếc thuyền nan, bóng di động duy nhất
Trên
toàn bộ một cảnh trí của một ngày lóa lòa ngớp ngợp nắng
Hay
tôi là người mù
Hay
Heraclitus là bà mụ
Đã
đưa tôi ra giữa căn phòng sáng sơ sinh
Hay
chị là người mẹ
Hay
tôi là con rái cá
Mất
cành cây rời rạc rụng Túy Loan
Nắng
dắt tay tôi dưới tán bàng khổng lồ đứng ngó qua Hà Thân
Đã
đứng đó giọng người di cư Lệ Thủy
Tôi
phát âm cũng buổi sáng nắng từng trụ cột đỡ rầm trần
Một
đầu tàu rân đen đủi
Tôi
té vỡ trán bên một anh chó vàng
Tay
đưa vào miệng vị mặn đó
Nó
chưa có tên
Chị
chỉ chở khoảng trời xanh nặng
Chiến
tranh một chữ tôi không thèm nói, tôi chối từ
Nước!
Nước! Lũ trẻ con chạy trong đêm tối
Ôm
những chiếc bát đất nứt nẻ, rách miệng
Tay
chúng quơ quơ, mắt thì nhắm, chị chỉ dẫn chúng làm sao
Cho
được nhẹ và rằng này dịu dàng
TQ
Bến
Thủy
(Tưởng niệm nhà văn Dương Nghiễm Mậu)
Bến
xe của những chất đống bao tải củ nâu đã dời đi, chiều kín miệng, cánh dơi.
Mưa
rây tam giác chóp mái, đường dây thép trổ ngang xương, dư ra ba cột chống, chiều
chụp chập choạng sợ đổ, làm như là người tiền sử thức hoảng mấp mớ: Trời có đã
sập?
Chưa
đâu, anh cười. Bến xe miền Tây sang trang thế kỷ dẫu gì cũng có chiếc mái, độ
nghiêng, mưa xuôi, có chim, dơi, trở chiều, đập đập những chiếc cánh mỏi, ngắt
vụn gió máy. Đẳng dưới mái, miệt trong, có ai ho khúc khẳng, tiếng chiếc
cassette, giọng người kép già khao khan ấm. Và ai đó nói: Dữ hôn! Quỉ Thần,
Chèng đéc!
Bến
xe của những chất đống.
Một
người nói vói “Lại đẳng, ngữ này,…” Câu buông lơ, anh nhặt lấy như một củ đậu
sót vừa lòng tay. Nhớ trật chữ ‘Dịch’.
Mùa
hương ngọt, rủ rê tới một độ thì không quay nổi nữa. Chong chóng Đông Ki Hô Tê.
Gió đảo, xay chừng. Ngó mông. Miết một mường tượng đường trường.
“Ê
Già, Già có biết chuyến chót nhứt là cỡ mấy giờ không?”
Anh
biết nói mấy cũng trật. Người kia nói luôn: “Tui cũng đoán chừng chừng, nếu
không bị banh đâu, không bị chặn quớ quàng, thì gì … cũng trước chạng vạng.”
Người
cùng lỡ chuyến chìa điếu thuốc, lóc xóc tay vào túi áo gió trật, bật quẹt đá, Lọt
đâu hơ? Gã hỏi, cho có.
Bến
xe đứng chắc chốt.
*
Chiều
đã lên đèn nhập nhọ, bến xe đụp một với nhà ga rộng thinh, kẻ kia không nghe
nói thêm gì, chắc đã ngủ. Anh đã thôi chờ, tự lót lấy chỗ ngã lưng bằng mấy tờ
nhật trình đại loại, tự rót cho mình một ca nhôm nước nguội. Khi nào nó tới thì
tới, nghe xa lắm tiếng mõ đánh lốc cốc.
Trăng
Hồi Hai. Ai đang thông báo, chỉ hiềm quên, chứ hồi Một là khi nào. Muỗi bay loạn
vo ve muỗi trâu. Chụp đèn hột vịt xông khói đuổi . Anh tự hỏi, Bao giờ thì trở
lại đầu ngựa.
Mấy
căn nhà hai buồng bên kia đường lọ nhọ khách. May là mình không nhấc chân qua hỏi,
chỉ nhọc công. Đêm chắc mẩm, phải tới, đã tới. Hồi, tuồng, công đoạn, tuần tự
cái gì tới sẽ tới. Anh nhớ lại khuôn mặt người đã nói câu đó, đã bỏ đi, đã
không ao giờ gặp lại. Nghe nói.
Nghe
nói hắn đã tới, nhưng sống thủng thỉnh lưng núi. Ai kéo cho dương cầm lên đẳng
núi? Câu kéo cắt sít sao. Trăng lỉnh kỉnh mang theo những phụ tùng: mảng nước,
chiếc nón thừa trên đầu một cội thủy tùng. Nương trắng, mấy đọt bắp, trảng cao
su ngưng mủ. Lũ dơi. Sự quyết du hành một lần, dự định bay của giấc mớ sảng của
đủ ba kiếp người kế tục di hệ chung cùng trên một địa bàn. Căn buồng từ một phố
sớm sương Hà Đông. Cành sương mãn thiên. Chiếc màn màu mỡ gà. Sân khấu hài kịch.
Ai an ủi: Kẻ ấy đã sớm thấy kiếp, đời, số, phận và vì thế, không cãi. Chỉ ghi
nhận.
Câu
kéo.
*
Bến
xe. Bọn rọi đèn đi một đàn, họ hát, ngôn ngữ gì? Họ nói. Ngôn ngữ gì? Họ đánh
choảng lên thứ âm thanh chưa hề từng bao giờ. Kẻ bên anh thức dậy hoảng hốt đâm
nhào ra đường. Trống, không phải. Kèn, không. Một thứ âm thanh kim loại, từ những
rọi đèn trăm oát điện, chóa lòa, sân khấu, chịu, không thấu.
“Invitation
to the Beheading!”
Điệu
này cờ phướng băng rôn lại là cuỗm của ai. Mời đi xem bữa bêu đầu. Vuông đất chợ
hay quãng trường công nhân? Sân sâu của lão Đại Phán Quan? Bậc thềm lát đá
trăng lên ria bìa Lăng Tẩm triều đại. Mời đi xem. Tiệc bêu danh. Không danh thiếp.
Không cần cơm nắm nước nôi. Một đôi hôm, ba bữa. Câu cuỗm cắt cụt. Mời đi. Mời.
Anh
cười. Chuyện cổ, tích cổ. Chỉ tiếc mình mơ cái viết vào thế kỷ viễn hành lại bị
buộc quay đầu vào cổ tích. Mà không sao. Mời là đi. Miễn tay dù đen một cầm vững.
Như kiếm. Như gươm dài. Nửa đêm hay đầu sáng. Ngôi sao trầy sướt. Một cổ ngựa.
Bến
xe của những chất đống bao tải củ nâu. Anh thử hỏi: “Này quí vị có nhớ “
Anh
lập lại lần nữa: “Quí vị hẳn nhớ”
Anh
thấy giọng mình khí lạ, bật hỏi chỉ để hỏi, vào trống trải.
“Quí
vị hẳn có nhớ ai thủy tiên?”
Trời
sao dày rộn bữa khác thường. Một sự tự trả lời đi tới. Ta với ta. Sáng đằm,
sáng ấm cúng, bao bọc. Buổi đang rẻ nhánh. Con đường mưa bụi mùa xuân, ánh sáng
đầu ngày đang làm rõ từng hạt li ti bay lượn.
Ao
hồ sóng sánh.
Một
giọng quen thuộc lắm reo lên.
“Ngựa
chờ kia!”
TQ
No comments:
Post a Comment