Phan
Tấn Hải
Sách
Nhà thơ Đỗ Quý Toàn đã đọc mấy bài thơ
tình của ông của thời nhiều thập niên trước... khi ông giữ vị trí chủ nhà, đứng
tiếp đón buổi ra mắt tuyển tập “40 Năm Thơ Việt Hải Ngoại” tại Phòng sinh hoạt
nhật báo Người Việt hôm Chủ Nhật 3 tháng 9/2017.
Đỗ Quý Toàn cũng nói rằng một thời ông
cũng là “đồng hương” với nhà thơ Nguyễn Đức Tùng, người chủ biên tuyển tập, vuì
lúc đó họ Đỗ cư ngụ ở Canada cùng với họ Nguyễn.
Điều hợp chương trình là Đinh Quang Anh
Thái, đã giữ vai MC linh động, khéo léo...
Tuy sức khỏe của tuổi lão niên chỉ còn là
mong manh, nhà thơ Cung Trầm Tưởng đã đọc thơ tình về những điệu luân vũ, nơi
thi sĩ họ Cung nói về “linh hồn cần gối tựa” và rồi “hân hoan người đẹp như
thiên thần”...
Cung Trầm Tưởng cũng đọc tiếp theo một
liên khúc thơ, trong đó có nhắc tới sự kiện chính trị ngaỳ 3 tháng 9, khi “hóa
kiếp Hồ tinh”...
Nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc nói về
dòng chảy văn học, từ thời kỳ ban đầu là lưu vong đau xót với thơ Mai Thảo, Cao
Đông Khánh... rồi tới thời kỳ sau là khám phá, là cách tân, là nỗ lưc sáng tạo...
Thơ 40 năm lưu xứ cũng là liệu pháp chữa trị chấn thương... Tập sách này là một
điều tốt đẹp, để nghe ngóng lại trái tim mình...
Nhà thơ Trịnh Y Thư gửi lời chúc mừng tuyển
tập, nói tuyển tập tiêu biểu cho nhiều xu hướng. Các tàc giả xa quê, không bị cắt
lìa, vẫn còn sợi dâu: bến bờ ngôn ngữ, tự do. Trịnh Y Thư nhắc về thập niên
1980s, những khám phá với Ngu Yên, Nguyễn Hoàng Nam, Khế Iêm... cho tới bây giờ,
thi ca luôn luôn là những cách tân nghệ thuật...
Bản tin Văn Đoàn Việt ghi nhận tổng quan
như sau:
“Chiều ngày 3/9/2017, tại hội trường
báo Người Việt, Orange County, California, buổi ra mắt sách “40 năm Thơ Việt Hải
ngoại” do nhà thơ Nguyễn Đức Tùng chủ biên, Văn Việt và Người Việt Books xuất bản
đã diễn ra thật vui vẻ, sôi nổi dưới sự dẫn dắt sinh động của nhà báo Đinh
Quang Anh Thái. Đông đảo các cây bút và bạn đọc yêu thơ đã đến dự; có những
gương mặt văn hóa nổi bật như nhà thơ Nhã Ca, nhà thơ Đỗ Quý Toàn, diễn viên điện
ảnh Kiều Chinh, nhà nhiếp ảnh Nick Út, nhà báo Tống Văn Công, nhà báo Phan Huy
Đạt, nhà báo Phạm Phú Minh, nhà văn Trùng Duong, nhà văn Cung Tich Biên,...; có
những người đến từ xa (không tính chủ biên đến từ Canada) như nhà thơ Cung Trầm
Tưởng (Minnesota), nhà thơ Trần Mộng Tú (Seatle, bang Washinton), nhà thơ Nguyễn
Hàn Chung (Houston, Texas nơi đang trải qua cơn bão thế kỷ), đặc biệt có nhà
thơ Hoàng Hưng thay mặt Văn Việt đến từ Sài Gòn.
Khán phòng luôn sôi động với những phát
biểu và đọc thơ diễn cảm của nhà thơ Cung Trầm Tưởng, nhà thơ Đỗ Quý Toàn, nhà
thơ Đặng Thơ Thơ, nhà nghiên cứu Bùi Vĩnh Phúc, nhà thơ Trịnh Y Thư, nhà thơ
Hoàng Hưng, nhà thơ Vương Ngọc Minh, nhà thơ Nguyễn Hàn Chung, nhà thơ Nguyễn Đức
Tùng…
Văn Việt xin giới thiệu với bạn đọc lược
ghi phát biểu của nhà thơ Hoàng Hưng
Cảm nghiệm từ một người làm thơ trong nước
về Thơ Việt Hải ngoại
(lược ghi phát biểu tại
buổi Ra Mắt Sách “40 năm Thơ Việt Hải ngoại”
tại Orange County
3/9/2017)
HOÀNG
HƯNG
• Tiếp xúc đầu tiên của tôi với thơ Việt Hải
ngoại là tập Thơ Cao Tần (những năm 1970) hình như do nhà văn Nhật Tiến gửi về
cho em trai là nhà văn Nhật Tuấn.
Ngay lập tức, tôi xúc cảm mạnh với tâm trạng
bi phẫn, tuyệt vọng, cười ra nước mắt của người bị mất tất cả, bị lưu đầy cộng
với nỗi nhớ thương tiếc nuối những gì thân yêu nhất… Những câu thơ hôm nay tôi
còn nhớ và còn xúc động:
Ngày ngày phóng xe
như thằng phải gió
Đêm về nằm vùi nước mắt
chứa chan
Sàn gác trọ những tâm
hồn bão nổi
Những hào hùng uất hận
gối lên nhau
Kẻ thức tỉnh ngu ngơ
nhìn nắng mới:
Ta làm gì cho hết nửa
đời sau?
•
Từ những năm đầu 1990:
Thơ Hải ngoại ào vào trong ngước, gây ấn
tượng mạnh vì sự Mới Mẻ, tác động tới thơ trẻ (thông qua các Tạp chí Thơ, Hợp
Lưu, các mạng Tiền Vệ, Gió O, Da Màu…)
Một số ấn tượng nổi bật:
-
Các nhà thơ lớn tuổi vẫn tràn đầy năng lượng sáng tác (Trần Mộng Tú, Hoàng Xuân
Sơn…) và có những người tiếp tục đổi mới đáng kinh ngạc (Nguyễn Đăng Thường,
Nguyễn Xuân Thiệp…)
-
Tiếng nói nữ táo bạo, nổi loạn: Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Lưu Diệu Vân…
-
Bứt phá, vượt qua biên giới Thơ/ Văn xuôi, Cái Thơ/ Cái Không Thơ, Cái Đẹp/ cái
Tục, Cái Trữ tình/ Cái Giễu nhại… xác lập tính đương đại, hậu hiện đại : Đỗ Kh,
Linh Đinh, Nguyễn Hoàng Nam, Lê Đình Nhất Lang, Ngu Yên…
-
Hiện tượng Thơ Tân Hình Thức và Khế Iêm: ảnh hưởng rất mạnh vào trong nước, đã
thành trường phái, có thể coi là “phong trào” duy nhất trong thơ Việt từ sau
1975 và xuyên biên giới.
-
Tiếng Việt trong thơ hải ngoại: trái với định kiến thông thường là văn thơ hải
ngoại bị cắt đứt với nguồn nên ngôn ngữ bị cũ kỹ, quá date, ta thấy có những
trường hợp nhà thơ hải ngoại sử dụng tiếng Việt ngày càng sắc, đậm, phong phú,
cập nhật những vốn từ đang sống, tiếng lóng, từ đường phố, một cách nhuần nhuyễn,…
(đặc biệt ghi nhận ở Chân Phương, Linh Đinh, từ chỗ quen làm thơ tiếng Pháp,
Anh hơn là tiếng Việt…)
-
Thế hệ mới đầy sức sáng tạo: Lê Đình Nhất Lang, Đỗ Lê Anh Đào, Trang Đài
Glassey Trầnguyễn, Lưu Diệu Vân, Như Quỳnh de Prelle, Pháp Hoan,...
-
Sự đa dạng, phong phú về giọng điệu, phương pháp, từ cổ điển, lãng mạn đến hậu
hiện đại...
-
Sự „nối ruột“ với trong nước: với người thơ Hải ngoại, VN ko còn là hoài niệm của
người bị gạt ra ngoài, đứng từ xa và ko lối về, chỉ biết tiếc nuối đau buồn, VN
giờ đây là nỗi niềm của người nhập cuộc, chia sẻ với mọi mặt mọi vấn đề của đất
nước + sự không ngừng bổ sung lực lượng, tiếp máu từ trong nước qua những cuộc
„vượt biên, tỵ nạn“ kiểu mới:
Thơ Việt Hải ngoại đủ yếu tố là một „nền
thơ tự nó“ không hề mang tính ngoại biên so với một dòng thơ được coi là “chính
thống“, tồn tại song song với thơ Việt trong nước và cả hai hợp thành một nền
thơ Việt toàn cầu!
Xin
dẫn một bài thơ:
ĐÁP
ỨNG
Khát
cầu xin một bát nước
chúng mang cho ta một
bát máu tươi
Đói
cầu xin một nắm cơm
chúng ném vào mặt ta
một nắm đá
Lang thang
cầu xin một nơi trú ẩn
chúng xây cho ta những
dãy ngục vững chắc
Sống
đòi hỏi chút Tự Do
chúng cho ta một viên
đạn chì ngay vào giữa trán
(Pháp
Hoan)
Bài thơ này là của 1 nhà thơ quốc nội
hay hải ngoại? Nếu suy diễn theo nội dung, giọng điệu, dễ kết luận là thơ trong
nước. Nhưng đây lại là của một nhà thơ hải ngoại sống ở Đức. „Ta“ ở đây không
thể phân biệt quốc nội hay hải ngoại. TA là nhà thơ Việt, con người Việt TỰ DO
bất kể ở trong hay ngoài nước.
Nếu phải dùng cái từ thời thượng của
trong nước là „hòa hợp dân tộc“, thì TỰ DO chính là tinh thần cốt tử của sự
„hòa hợp“ ấy. SỰ HÒA HỢP CỦA NHỮNG CÂY BÚT, NHỮNG CON NGƯỜI TỰ DO.” (ngưng
trích VănViệt)
Trong khi đó, nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc trong bài nói chuyện
trích như sau:
“Nói Chuyện Thơ Người Việt Ngoài Nước
...Trong
cái nhìn của tôi, Thơ Việt ngoài nước là một dòng chảy liên tục sau biến cố 30
tháng Tư, 1975. Nó phản ánh tâm hồn, tâm thế, tâm cảnh và tâm thức của người Việt
lưu xứ.
Lúc
đầu, nó cho thấy một cảm thức lưu vong rõ nét. Buồn, đau và xa xót. Thơ Mai Thảo:
Những hàng dây điện mắc
song song
Chở những buồn vui tới
khắp cùng
Đường dây ta mắc qua
đời lạnh
Chỉ một u u tín hiệu
trùng.
Hay
trong thơ Cao Đông Khánh:
Tôi một bữa ngồi yên
như bàn ghế
Nắng rọi trong đầu những
trắng bao la
Còn đôi mắt tôi ở Nhà
Bè, Gia Định
Ở Ngã Tư Bảy Hiền ly
nước mía, má, môi
Em đạp xe mini trời
gió mềm trong áo
Thành phố bập bềnh
trôi giữa nắng mênh mông
Sợi tóc chẻ hai gần
đường xích đạo
Vạt áo sau lưng khép
hở Sài Gòn …
Những
câu thơ ấy cho thấy cái cô đơn, đau buồn của người xa xứ. Và chúng làm cho ta
nhớ nhà, nhớ quê. Và còn trong biết bao nhiêu nhà thơ khác nữa, cái tâm tình cô
đơn, hoài hương thiết tha đó.
Đúng
thế, có thể nói, người ta có thể nhìn ra cái tâm trạng buồn thương, nhớ tiếc
này trong thơ của bất cứ một nhà thơ Việt xa xứ nào. Nó như một hải lưu chảy ngầm
bên dưới đời sống của chúng ta, những đứa con lưu lạc khỏi quê hương. Cho dù, ở
những giai đoạn sau, những nhà thơ Việt ngoài nước có thể, trong sự hòa nhập
vào đời sống mới, học hỏi, tiếp cận được những tiếng nói, những ngôn ngữ mới,
tìm được cho mình những phong cách khác, phản ánh một thái độ sống, một tâm
thái mới, sự buồn đau, nỗi nhớ-về cũ kỹ kia vẫn ghi lại một dấu ấn, đậm hay nhạt,
đâu đó, trong những dòng chữ viết của họ.
Việc
ghi nhận lại tiếng nói, tâm hồn của người Việt ngoài nước, qua thơ, như thế, là
một sự cần thiết. Nó cho thấy khuôn mặt và trái tim của người Việt ngoài nước.
Nó là lịch sử tâm hồn của người Việt lưu xứ. Cái lịch sử này, như tôi đã có dịp
nói đến trong bài Tựa cho quyển sách 40 Năm Thơ Việt Hải Ngoại, có nhiều nét
sinh động hơn, thiết tha hơn, cái lịch sử mà các nhà nghiên cứu xã hội có thể vẽ
ra, với những thống kê và thăm dò nghiêm cẩn. Cái lịch sử người Việt lưu vong,
xa xứ, trong Thơ, nó giống như những cái nẩy bật của trái tim người. Trái tim của
người Việt lưu vong. Và sau đó, mở rộng ra, trái tim của những di dân, những
con người vẫn luôn thấy trong mình cái gốc rễ Việt, cái gốc rễ làm nên chính
con người, làm nên tính cách họ.
Lưu
vong là một khía cạnh của cuộc sống con người, từ xa xưa. Nhưng đặc biệt trong
mấy thế kỷ trở lại đây, nó lại càng trở nên rõ nét hơn khi lịch sử thế giới đã
cho thấy có những đường nứt địa chấn chạy qua lịch sử của bao nhiêu dân tộc. Với
những vết cắt, những chấn động in hằn dấu tích của chúng trên những trang lịch
sử ấy. Nhưng, dù có những nét chung nhất, lưu vong, với mỗi dân tộc, mỗi tập thể
người chịu đựng bi kịch ấy, lại cho thấy có những sắc thái, những định mệnh
riêng, làm nên những vết đau, tạo nên những chấn thương riêng trong tâm hồn họ.
Nhưng,
như Vladimiro Ariel Dorfman, một nhà tản văn, tiểu thuyết gia, kịch tác gia, và
cũng là một nhà tranh đấu cho nhân quyền, đã nói, “Tôi nghĩ rằng cuộc sống lưu
vong là một lời nguyền rủa, một lời chúc dữ, và bạn cần phải biến nó thành một
ân sủng. Bạn bị ném vào cuộc lưu vong để chết, thật sự như thế, để làm bạn câm
lặng đến nỗi bạn không còn tìm được tiếng nói của mình. Tiếng nói của bạn trở
nên thất lạc. Và, bởi thế, cả cuộc đời tôi đã dồn tất cả cho việc lên tiếng rằng,
‘Tôi sẽ không để mình bị bắt trở nên câm lặng.’”
Và,
như vậy, những con người Việt bật rễ kia phải sống ra sao? Làm thế nào để tìm lại
tiếng nói của mình. Để không bị ném vào sự chết. Không bị ném vào cuộc thất
tung. Câu trả lời đã được một nhà thơ miền Nam Việt Nam trước 1975 thể hiện rõ
qua phát biểu, bằng thơ, “Tôi đi tìm tiếng nói / Cho cổ họng của tôi” . Thơ Thanh
Tâm Tuyền. Để tìm được tiếng nói, hoặc để tìm lại tiếng nói của mình, người ta
phải nhờ vào ký ức. Ký ức là quá khứ. Quá khứ là những gì đến trước hiện tại,
nhưng nó lại khuôn nắn hiện tại. Nó “cấu trúc” hiện tại. Con người là tổng hợp
của tất cả những sự cấu trúc và tái cấu trúc của đời mình. Qua quá khứ và qua
ký ức. Trong cuộc lưu vong, xa nhà biệt xứ kia, nói như Richard von Weizsaeker,
vị tổng thống nổi tiếng của Cộng hòa Liên bang Đức từ 1984 đến 1994, “Nếu anh
chọn lựa lãng quên như một phương thuốc chữa trị cho những đau khổ, dằn vặt của
mình, anh sẽ, một cách nào đó, tự làm mất chính anh. Chỉ có một sự cứu chuộc
duy nhất: anh phải nhớ lại.” Nhớ lại, nhìn tận mặt những vết thương, những đau
đớn cũ. Từ đó, anh sẽ có cơ hội hồi phục. Con người bình thường sẽ chọn cuộc nhớ
lại của mình theo một cách thế bình thường, bằng bất cứ một con đường nào khả hữu.
Kẻ cầm bút, hắn sẽ vịn vào văn chương mà đứng dậy.
Với
người làm thơ, Thơ (viết hoa) sẽ trả lại tiếng nói cho họ. Thơ là một liệu pháp
tốt. Và cần thiết.
Một
vài ý trong những điều vừa nói trên, tôi đã có cơ hội phát biểu trước đây.
Nhưng, tại diễn đàn này ngày hôm nay, trong buổi ra mắt tập thơ 40 Năm Thơ Việt
Hải Ngoại, tôi xin phép được nhắc lại chúng. Một lần nữa. Để tự nhắc nhở mình,
và, nếu được phép, cũng để nhắc nhở mỗi một chúng ta, những người Việt đang sống
cuộc đời lưu lạc, xa biệt mái nhà xưa, nhưng lòng vẫn luôn nghĩ về, ngóng về chốn
cũ, những điều đáng lưu ý ấy.
Như
thế, thơ của người Việt 40 Năm Lưu Xứ là vết đau, vết cắt, là ghi nhận về những
chấn thương của người Việt xa quê, nhưng nó cũng là một liệu pháp, một cách thức
chữa trị cho những vết đau, vết cắt, cho những chấn thương đó. Nhìn vào thơ,
người ta thấy được tất cả. Thấy được những tan hoang, chia lìa, và đau đớn. Thấy
những vệt máu tươi, hay những bệt máu cũ. Thấy những vết thương vẫn còn mới,
hay những vết cắt đã thành sẹo. Nhưng người ta cũng, qua đó, thấy được cái sức
sống, cái sinh lực đang trào lên sau cơn địa động. Thấy được sự xây dựng lại. Sự
hồi phục, vươn lên. Người ta thấy được tự do và niềm tin. Thấy được ánh mắt
sáng của người xa xứ, cái ánh mắt chấp nhận cuộc thử thách để đứng thẳng người,
không gục ngã, trước cuộc sống mới. Và, trong tất cả những điều ấy, bùng bốc hoặc
thấp thoáng đâu đó, vẫn là cái ánh lửa kia. Cái ánh lửa mà con người xa xứ đã
mang theo trong lòng, trong trái tim họ. Nó vẫn luôn cháy sáng. Và nó thắp lên
những tia hy vọng mới. Cho tương lai.
Nỗ
lực của những người chủ trương dự án 40 Năm Thơ Việt Hải Ngoại, đặc biệt của
tác giả, nhà thơ Nguyễn Đức Tùng, là một đóng góp tốt cho việc tìm hiểu khuôn mặt,
tiếng nói và tâm hồn của người Việt xa xứ, nói chung. Ở một khía cạnh nào đó,
nó như một tâm động đồ, một tâm chấn kế, tìm bắt được những rung động, những
thiết tha ở những độ rung khác biệt, cho thấy sắc thái tâm hồn của chính chúng
ta, những người con xa xứ. Cái nỗ lực ấy, dù sao, trong hoàn cảnh khó khăn của
cuộc sống hiện tại, với cái sống rải rác khắp nơi trên khắp mặt địa cầu của bao
nhiêu con người Việt, với những mảnh sống khác nhau, những tiếng nói đặc thù,
riêng biệt, với giới hạn của sự giao tiếp, với tới, của sự kết nối, tập hợp, và
với cái khó khăn, giới hạn của thời gian, tác giả của quyển sách, tôi nghĩ, chắc
chắn vẫn cảm thấy mình có sự thiếu sót và tiếc nuối vì mình đã không ôm trọn được
đủ, được đầy, những tiếng nói, những khuôn mặt thơ cần thiết phải có trong quyển
sách, hay những tiếng nói thơ còn chưa được nhận diện, hoặc chưa được nhận diện
kỹ, trong nỗ lực của mình...”
Cũng ghi nhận rằng nhà thơ Vương Ngọc
Minh (tức Lưu Hy Lạc) đã đọc vài câu thơ Thâm Tâm, trước khi đọc bài “Nàng Có
Cách Cuả Nàng,” trong đó Vương Ngọc Minh làm thơ tình kiểu Tân Hình Thức, như:
ngày hôm qua vẫn còn
nguyên với ngày hôm
sau
với thời gian đúng vậy
tôi muốn nói thời
gian...
Trong khi đó, nhà thơ Đặng Thơ Thơ lên đọc
thơ của một số tác giả, trong đó có thơ Trần Mộng Tú, Trịnh Y Thư, Lê Đình Nhất
Lang, Lưu Diệu Vân, Đỗ Lê Anh Đào...
Trong
khi đó, nhà thơ Nguyễn Hàn Chung từ Houston tới, đọc hai bài thơ không có trong
tuyển tập. Đặc biệt bài thơ “Nghe Lá Thu Rơi Sân Chùa Tịnh Luật” rất mực dị thường,
khi kể về chàng thi sĩ cư sĩ thăm chùa và một đêm nằm ngủ lại trong chùa....
Chủ biên là nhà thơ Nguyễn Đức Tùng giải
thích về tiến trình hình thành tuyển tập, nói rằng ông xin lỗi vì thiếu một số
thơ của nhiều người quá khứ, như Mai Thảo, Nguyên Sa, Minh Đức Hoài Trinh... vì
vấn đề tác quyền không xin phép được. Nguyễn Đức Tùng cũng gửi lời cảm ơn tới tất
cả những ngươì tham dự và những người đã giúp hoàn thành tuyển tập...
PTH
Hình 1: Đang ngồi,
từ trái: Hoàng Hưng, Nguyễn Đức Tùng...
H2: Cung Trầm Tưởng
H3: Hà Nguyên Du bá vai Khế Iêm
H4, 5: Nhiều người
Hàng đầu: nhà thơ Phan Tấn Hải, nhà thơ Vương Ngọc
Minh,
nhà thơ Hoàng Hưng, nhà nghiên cứu Bùi Vĩnh Phúc và phu
nhân.
Hàng sau: nhà thơ Đặng Thơ Thơ, họa sĩ Ngọc,
nhà thơ Nguyễn Đức Tùng và phu nhân, nhà thơ Trịnh Y
Thư.
No comments:
Post a Comment