Thursday, September 22, 2016

VÕ CHÂN CỬU: TRƯỚC SAU ĐỀU CỦA RIÊNG MÌNH


Nguyễn Lương Vỵ

Võ Chân Cửu & Nguyễn Lương Vỵ

Thi sỹ Võ Chân Cửu biết làm thơ từ khi còn tuổi thiếu niên (13, 14 tuổi). Làm thơ từ rất sớm, nhưng sức thơ lại vượt xa cái tuổi của mình, mà thơ lại hay, thơ thứ thiệt nữa thì thật là hiếm và quý.

Võ Chân Cửu in tập thơ đầu tay, Tinh Sương, năm 1972, cách nay trên 40 năm. Lúc ấy, thi sỹ vừa tròn 20 tuổi. Nay ngồi đọc lại Tinh Sương, tôi vẫn còn niềm rung cảm, xúc động mạnh như thuở nào.

Tinh Sương, đúng như tên gọi, một giòng thơ lung linh, trong veo trong vắt, nhất khí từ bài đầu đến bài cuối. Âm vang, có một chút gì đó hiu hắt, lành lạnh, trầm trầm. Sắc màu, có một chút gì đó vừa ảo diệu, vừa mênh mông. Chữ trong mạch thơ, hình như thi sỹ cố ghìm lại những tiếng nấc thảng thốt của buổi đầu đời, khi bắt đầu cảm nhận được cái cô liêu, côi cút, bơ vơ của kiếp người.

Tinh Sương, tuy với số lượng thơ chắt lọc (25 bài), phần lớn là thơ bốn chữ (6 bài), thơ năm chữ (12 bài), còn lại là thơ sáu chữ (4 bài), thơ bảy chữ (1 bài) thơ song thất lục bát (1 bài) và một tiểu trường ca Quẩy Đá Qua Đồng, viết theo lối hành cổ phong với phần mở đầu và phần khép lại bằng thể thơ lục bát. Về ngôn ngữ, thi pháp, Võ Chân Cửu đã chứng tỏ được một bản lĩnh vững vàng, tầm cỡ ngay từ thời tuổi trẻ:

Nàng đội nón cời
Đi về phương bắc
Thẳng đứng mặt trời
Soi không thấy mặt

(Vô Tình)

Nhịp hai, bốn chữ, bốn câu. Hình ảnh, tứ thơ rất lạ. Nàng nào vậy? Nàng Thơ? Bốn câu mở đầu của tập thơ, chơn chất, hồn nhiên, nhưng lạnh lùng quá đỗi."Soi không thấy mặt". Câu thơ cuối hun hút bóng hình, buông xuống một âm trắc dứt điểm nghèn nghẹn, thảng thốt. Nàng Thơ vô tình ư? Không hẳn. Nàng Thơ thách thức thi sỹ đó thôi! Thi sỹ lập tức hồi đáp:

Trăm năm bá láp
Nghìn năm điêu tàn
Đi về Tịch Hạp
Soi bóng trăng ngàn.

(Soi Bóng)

Vỡ lẽ ra, Soi Bóng trong cõi Tịch Hạp thì sẽ thấy rõ mặt nhau. "Bóng trăng ngàn" chỉ là biểu tượng thôi. Tâm thức của thi sỹ tự soi lấy cái bóng “kép” của mình. Cõi Tịch Hạp là mái nhà xưa, nơi chốn ban sơ của ÂmSắc, nơi chốn hỗn mang của thiên địa mịt mù. "Khởi kỳ thủy là Lời" (Kinh Thánh) hay "Khởi kỳ thủy là Âm" (Nguyễn Lương Vỵ)? Hỡi Nàng Thơ huyền ảo kia! Vậy nên:

Sớm về phía mây tụ
Chiều tới nơi mây tan

Phải nơi nầy chốn cũ
Trên mặt đất còn hoang

Trời rộng đau gió hú
Ôi hư không tràn lan.

(Một Ngày Bộ Hành)

Thi sỹ cứ bước đi, bước đi. Nhịp một nhịp hai nhịp ba trùng trùng duyên khởi. Cái bóng của thiền sư Không Lộ ở đâu đây? Trường khiếu nhất thanh hàn Thái Hư – (Hú dài một tiếng lạnh hết cõi Hư Không). Thi sỹ hẵn là đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Cái "nơi nầy chốn cũ"  là cái nơi chốn nào trong tiền kiếp phôi pha? Câu hỏi vu vơ hoang địa, tịch mịch vọng lời đáp. Đây rồi:

Lên đồi theo gió rượt
Cao cao nghìn bóng mây
Mây chạy dài sau trước
Bóng hư linh thì lướt
Hồn vạn kiếp thì bay
Một chút bụi tà huy
Nằm trong lá lung lay
Ngoa ngoe như mới đẻ

Rung mình lên thật nhẹ
Mười lăm năm qua rồi
Sương trắng ngập qua đồi
Ngõ về như muốn ngợp
Muốn gọi, chưa ra lời
Bóng tà bay cái vụt.

(Tà Huy)

Tuổi mười tám đôi mươi đắm mình dạo chơi trong cõi tịch mịch của buổi tà huy, nhìn thấy và lắng nghe. Không kịp gọi thì "bóng tà bay cái vụt". Nhạy cảm trong từng cái thấy cái nghe, hạt bụi cũng có linh hồn, cũng có dáng dấp sinh linh ngoa ngoe quẫy đạp. Là ta đấy ư? Là em đấy ư? Lời chưa kịp gọi, chưa kịp hỏi, cái vụt của chớp nháy không gian thời gian kia đã chia biệt rồi!

Theo mây đi một buổi
Trời đất nhẹ phiêu phiêu
Va đầu tưởng đụng núi
Chỉ đụng bóng sương chiều
Một mặt trời lầm lũi
Trên trần gian tiêu điều.

(Đường Vô Núi)

Tứ thơ thản nhiên, lạ lẫm, pha chút ngông cuồng của tuổi trẻ. Không hề gì! Cô liêu và cô độc quá thôi! Vô núi là vô cái cõi tịch mịch sấm rền. Thi sỹ chỉ biết:

Vô núi nghe núi rền
Tự hỏi rồi tự đáp
Về ù tai cả đêm
Canh tà chỉ buồn ngáp.

(Thâu Đêm)

Bài ngũ ngôn tứ tuyệt hình như có tiếng đồng vọng của Trúc Lâm Yên Tử? Trong sấm sét rền vang của tịch mịch, thi sĩ hốt nhiên vỡ lẽ ra, "tự hỏi rồi tự đáp". Tự đáp rồi thì "Về ù tai cả đêm". "Buồn ngáp" là để hóa giải cái "ù tai" hay là niêm hoa vi tiếu sau cái "buồn ngáp" ấy? Bài thơ hay là bài kệ? Chẳng biết nữa. Thi sỹ hay thiền sư? Lại càng chẳng biết luôn. Chỉ biết rằng: Thi sỹ đã sớm chạm vào cõi vô ngôn kỳ bí nhất của kiếp người. Vô ngôn đâu hẵn là không lời! Xin mời bạn đọc chậm rãi và tưởng tượng thêm tiếng mõ cầm canh hòa điệu theo:

Chùa cổ bên sông
Mưa lồng chính điện
Mưa dìu mái cong
Về thăm năm cũ
Rã chút hương tàn
Trên bia mộ hoang
Trên cành đa phế
Hồn đựng bình vôi
Và trong ngẫu tượng
Than đất than đá
Than cỏ than cây
Cùng con dế nhỏ
Gáy suốt đêm dài
Gáy suốt mười năm
Chết vùi dưới rễ
Còn mãi kêu em
Bên kia bờ sậy
Sông là nắng mai
Ủ lòng em nhạt
Gáy suốt mười năm
Nở hoa bát ngát
Em đeo trong tim
Em cài lên ngực
Một mai hết rồi
Em biết còn ai
Gọi vầng trăng đục
Chở tình lên mây
Mây tan mây hợp
Mây trắng đầy trời
Tan nát nửa đêm
Xoáy theo tiếng mõ
Vọng từ muôn xưa
Hiện con bướm nhỏ
Đậu bâu áo phai
Ru trong nắng tịnh
Nước mắt như mưa
Cuốn hai bờ mắt
Mắt khép một bờ
Em thấy trăm năm
Một tiếng chuông đồng
Em thấy nghìn năm
Một câu chiêu niệm
Em nhìn vạn kỷ
Một vùng như sương
Chùa cổ bên sông
Mưa mưa không cùng
Mưa mưa kỳ cựu
Những ngày nước dâng
Mưa êm nhập định
Từng mảnh rêu phong
Anh quên kinh kệ
Ra chảy với sông
Tìm em vạn ngả
Bạc áo nâu sồng
Kiệt trên đời cũ
Ơi em vô hình
Một đời bay vụt
Hỏi em bóng dáng
Sông nước chập chùng
Nước xô thiên địa
Chùa cổ bên sông.

(Chùa Cổ Bên Sông)

Theo tôi, đây là bài thơ xuất thần nhất trong Tinh Sương. Thi sỹ viết như nhập đồng, thơ chảy trôi một mạch như khúc đồng dao, nhịp theo tiếng mõ thánh thót như những giọt sương trời, vang vang, lắng lắng. Chùa cổ, sông, là biểu tượng đầy ẩn dụ: Động và tĩnh, xa và gần, mộng và thực, dìu dặt âm vang, quyện vào nhau trong tiết điệu lung linh, chập chùng, trùng điệp. Bài thơ có thể tụng (gọi một cách phiêu bồng là "thi tụng") với nhịp ngân nga trầm bổng, hay có thể hát lên một mình trong đêm thanh vắng. Tụng hay hát, nhả giọng khoan thai từng chữ, câu chuyện kể sẽ ánh lên một âm vang và sắc màu vừa thực vừa mộng. Tụng hay hát, sẽ bật lên tiếng ca xang bi mẫn giữa bóng đời dâu bể trầm luân. Em là ai? Là duyên nghiệp trùng trùng, là vết thương tâm "bạc áo nâu sồng/kiệt trên đời cũ" của kiếp người ảo hóa mong manh. Bài thơ thấm đẫm mùi Đạo mà ngan ngát hương Đời, nên không có chỗ dừng. Càng tụng, càng hát, càng lung linh âm vang và sắc màu, "Sông nước chập chùng/Nước xô thiên địa/Chùa cổ bên sông…"

Tinh Sương còn có bài thơ 5 chữ, Quê Nhà, 148 câu, là bài thơ khá dài hơi, ý tứ hàm súc, nội lực thâm trầm. Tôi nghĩ, thi sỹ đã cảm ứng và phát tiết, khai mở và sáng tạo thêm mạch ngầm sâu thẳm mà 2 câu thơ của Huy Cận chưa nói hết: "Một chiếc linh hồn nhỏ/Mang mang thiên cổ sầu". Phải chăng, đó cũng là thiện duyên đối với những tâm hồn đồng điệu. Đồng điệu, nhưng đường bay trong cõi văn chương, mỗi người mỗi ngả riêng tây. Quê nhà, một nơi chốn nào đó trên mặt đất đìu hiu, vòng quay sinh tử dập dìu, đến rồi đi, đi rồi đến, mong manh phận người bụi bặm, hẩm hiu trăng tàn nguyệt tận trong giọng nói lời chào, "Mây bay từ thiên cổ/Cùng nhau trời đất tan/Ta một linh hồn nhỏ/Vơ vẩn miền Đại Hoang."

Khép lại Tinh Sương, bài thơ Quẩy Đá Qua Đồng, gồm 120 câu, là một tiểu trường ca độc đáo. Khổ đầu, khai mở bằng 10 câu lục bát để vào chuyện. Tiếp theo, 102 câu phá thể theo kiểu một bài hành cổ phong. Cuối cùng, khép lại bằng 8 câu lục bát. Như một câu chuyện kể, một huyền thoại nơi một vùng địa linh nào đó (không biết có phải là nơi chôn nhau cắt rốn của thi sỹ, hư cấu thêm, muốn ký thác tâm sự chăng?) Trong bài thơ, đá là một vật linh, cất lên tiếng nói, tiếng ngâm ngợi, ca xang giữa thinh không. Giọng đá u trầm:

Soi cái hình ta, hề
Minh mông
Soi suốt thiên thu, hề
Thinh không
(…)
Trứng con thần ưng
Phơi trên non chóp
Ta nằm muôn năm
                        Sao chưa thay lốt
(…)
Ta uống tinh sương hề bao nhiêu hớp
Thốt với bao la hề khuya hay trưa
(…)
Con thần ưng ơi con thần ưng
Con trăn tinh ơi con trăn tinh
Ngươi chơi cùng ta hề
(…)
Sao ta chưa bay lên cao hề
Trời xanh xưa hẹn ta hề
Trời xanh nay lừa ta hề
Đất trích chiêm bao
                        Cho ta hát ngao hề

Đá tâm tình với thần ưng và trăn tinh. Đá hát cho thần ưng vỗ cánh. Đá múa cho trăn tinh phun ngọc. Rồi khi cao hứng, đá bèn:

Bày ra một cõi chưa từng có hề
Trời xanh ghen hề đất ghen hề

Thần ưng và trăn tinh đã bỏ đi. Đá tiếp tục độc thoại, tra vấn về bản thân, về mặt đất, trăng sao…Đá hát một mình, đá chơi một mình, đá nghe một mình, đá mộng một mình giữa bốn bề hư không lặng ngắt nhưng vẫn còn nặng lòng với nhân gian:

Trời xanh Nam Hải
Khói vi vu
Soi động hư vô
Mờ nhạt một bầu
Lặng ngắt mênh mông
Câu ca câu hát
Nghe ta xoay vòng
Thiên địa về đâu

Đá lắng tiếng ca, bài thơ khép lại:

Nằm nghe đá hát vô minh
Thơ thay con mắt ngó rình hóa công
Bóng ai quảy đá qua đồng
Sầu xưa uất nặng giữa lòng nhân gian.

Giọng nói, giọng hát u trầm của đá. Giọng của quỉ thi Lý Hạ đấy chăng? Tôi cũng chẳng biết nữa. Chỉ biết đây là một bài thơ kỳ dị, lạ lùng, ý thơ ảo diệu mùi vị Đạo học Đông phương huyền hoặc trong cái ý huyền chi hựu huyền. Thi sỹ ngơ ngác trước thềm sương của vũ trụ, rồi rùng mình hóa thân vào đá, đá hóa thân thành huyết lệ trùng trùng trong tiếng ca xang giữa bóng đời dâu bể trùng trùng. Bài thơ hóa thành mây trắng, bay đi về chốn tuyệt mù. Đọc bài thơ, nghe rờn rợn sống lưng, nghe óc tuôn trào nỗi nhớ không lời, không tên, không tuổi.

Tinh Sương, cũng là tinh huyết của thi sỹ.

Đại Mộng là tiếng ngân dài của Tinh Sương. Thi sỹ tiếp tục tra vấn, hồi tưởng bằng những ẩn dụ tượng trưng với những bài thất ngôn tứ tuyệt, lục bát bốn câu trầm tĩnh, đĩnh đạt hơn, sâu lắng hơn. Đặc biệt, một bài thơ khá dài, 58 câu, với 3 khổ điệp khúc dặt dìu trong một buổi Sáng Thinh Không:

Một con chó con, một vừng trăng sáng
Hai cõi trời im, một vùng biển cạn
Một con đường đèo sương đục lô nhô
Một chiếc hồn ma quẩn quanh vạn cổ
(…)   
Một con chó con, một vừng trăng sáng
Hai cõi trời im, một vùng biển cạn
Một chiếc hồn đơn mấy bè mây nổi
Hai con ngựa trắng một chiếc xe tang
(…)
Một con chó con, một vừng trăng sáng
Hai con ngựa trắng, một chiếc xe tang
Đất lành gió phủ mây trong mát
Vạn cổ nghe chăng, dưới gót nàng.

(Sáng Thinh Không)

“Nàng”, biểu tượng cho cái Đẹp hiu hắt của trần gian? Hay bóng ma thiên cổ thoáng ẩn thoáng hiện, mệnh hệ của kiếp người hư ảo mù tăm? Vết thương tâm đầu đời, vận vào hồn cốt chữ nghĩa, thấm vào mệnh của thi sỹ?:

…Sáng thinh không, sáng dưới chân nàng
Trong lòng vạn đại đã tan hoang
U minh rờn rợn lên vai tóc
Bóng tà vạn thuở đã bay ngang
Sáng thinh không, sáng lặng ngát hương
Êm ả trần gian chợ phố phường
Một bàn tay vẫy trên non tuyết
Một tiếng cười vang cả bốn phương…

(Sáng Thinh Không)

Tôi đọc và nghe khí lạnh toát ra trong từng con chữ! Bài thơ đã vượt lên cái sự hay bình thường. Bài thơ đã đạt đến cái đỉnh lặng và lạnh của khắp cõi nhân gian. Thi ca đã chết trong thời đại cơ khí gầm gào? Tôi cũng chẳng biết nữa! Nhưng khi được đọc những giòng thơ như trên, tận đáy lòng tôi đang dậy lên một niềm bi mẫn khôn cùng."Cái Đẹp cứu chuộc thế giới", Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, nhà văn người Nga đã nói như thế, trong tác phẩm nào đó mà tôi quên mất. Tôi rất tin, rất đồng cảm với câu nói trên, cho dẫu là niềm tin nầy hình như không có thật trong thời buổi nhiễu nhương nầy, đầy rẫy những điều hung bạo và hiểm ác.

Ngả Tư Vầng Trăng và những bài thơ khác trong tuyển tập, hương Đời nhiều hơn, thấm đẫm hơn. Giữa những lao xao thăng trầm thế sự, thơ buông tiếng thở dài trước những đổi thay chẳng biết nên vui hay nên buồn. Hình như thi sỹ đã dự cảm được những thương đau, khổ nạn của đất nước và dân tộc trong thời đại ngày nay?!

"Ta bước lên đường kêu gọi mãi/Nhớ người bạn cũ thuở anh niên…" (thơ Xuân Diệu). Ôi cái thuở anh niên đẹp ngất, một lần qua đi rồi thôi, không có chốn quay về! Góc biển xưa, khung trời cũ hanh hao. Qui Nhơn ngập tràn nắng gió, mộng mị của một thời. Nơi ấy, tình bạn thơ trong sáng hồn nhiên, nay chỉ còn lại những vệt nắng xanh lung linh trong tâm tưởng.

"Trước Sau Đều Của Riêng Mình". Câu thơ duy nhất, thi sỹ ghi ở trang đầu của tuyển tập Thơ. Trước Sau như Một. Riêng mình. Riêng cái mối Nhất Dĩ Quán của một đời thơ. Thi sỹ, kẻ thọ mệnh điêu linh, mỗi người mỗi kiểu, cô liêu cô độc ngút ngàn. Có còn chăng là tiếng đồng vọng của cố nhân bên trời lận đận. Những trận gió bay đi mịt mờ tuổi dại, nhưng vẫn còn đây những giọt nắng của buổi sơ đầu hạnh ngộ giữa tôi và thi sỹ. "Quỷ ma đưa mãi lời thiên cổ/ Hiu hắt nghìn thu lạnh khí đồng…"  2 câu thơ trong bài thơ thi sỹ đã viết tặng tôi cách nay hơn 40 năm. Tôi chẳng bao giờ dám quên!

Calif., cuối đông 2011, hiệu đính 09.2016
NLV


Ghi chú:
- Võ Chân Cửu (tên thật: Văn Hưng). Sinh năm 1952. Quê quán Qui Nhơn, Bình Định. Nhà thơ, nhà báo, nghiên cứu phê bình văn học. Hiện sống tại Sài Gòn.
- Tác phẩm Thơ đã in của Võ Chân Cửu:
  . Tinh Sương - NXB Thi Ca, Sài Gòn, 1972.
  . Đại Mộng - NXB Nhị Khê, Sài Gòn, 1973.
  . Ngả Tư Vầng Trăng - NXB Trẻ, Sài Gòn, 1990
  . Trước Sau - Tuyển Tập Thơ - NXB Thư Ấn Quán, New Jersey, 09.2011


No comments:

Post a Comment