Friday, September 16, 2016

PHẠM CÔNG THIỆN VÀ ĐỈNH LẶNG


Trịnh Thanh Thủy

Tác phẩm Phạm Công Thiện

Phạm Công Thiện ở Virginia 1991.
Photo Đinh Cường

Sáng nay tôi nhận được một điện thư báo tin Phạm Công Thiện đã mất. Lòng tôi bỗng dấy nên một nỗi chơi vơi, hụt hẫng nào đó. Nghe như mình vừa mất đi một vật gì quý báu. Tôi tự nhủ “Ông đi nhanh thế sao?” Dường như tôi vẫn thấy ông ở đâu đó. Dù lần đầu gặp ông cũng là lần cuối cách đây hai năm ở chùa Viên Thông, trong một buổi giảng pháp nhân dịp Vu Lan. Cái khoảng cách thời gian ấy như con sông cạn, thâu ngắn ký ức tôi. Tôi tưởng như còn thấy cặp kính trắng và giọng nói nào vang âm chừng mực, vừa đọc vừa giảng OM MANI PADME HŪM (Châu báu trong hoa sen).

Ngài Quán Thế Âm Đại Bồ Tát lúc nào cũng có mặt mỗi lúc chúng ta tha thiết kêu gọi danh hiệu Ngài hoặc mỗi lúc chúng ta trì đại thần chú OM MANI PADME HŪM. Đức Phật Thích Ca hãy còn hoá thân thị hiện là Bồ Tát, nhưng trong giây phút hiện tại này Quán Thế Âm vẫn linh hiện liên tục cho đến lúc nào chúng sinh vẫn còn đau khổ, vẫn còn bị trói buộc trong bao nhiêu sợ hãi khổ nạn... Chỉ Xưng danh Quán thế Âm Bồ Tát một lần; chỉ nhớ tưởng Quán Thế Âm Bồ Tát một lần; chỉ nói OM MANI PADME HŪM một lần thì Hạt Giống Nẩy Mầm thành ra cả đại ngàn bông trắng, cả vô số vô lượng bông sen đủ màu ở cõi Cực Lạc.

(Trích bài giảng “Do sức niệm Quan Âm như mặt nhựt treo không” của Phạm Công Thiện
tại chùa Viên Thông, Bell Flower, California, ngày 1 tháng 11, 2009)
Những lời giảng của ông đẹp như cánh bướm, bay lượn trong trí tôi nở ra vô vàn đoá cẩm chướng trắng, lác đác những hạt mầm. Mani là biểu hiện của con đường đến thân thể hư không, Padme là biểu hiện của con đường dẫn đến trí tuệ tịnh quang. Ôi những câu thần chú chữ phạn, đó là con đường dẫn tới trí tuệ tịnh quang (clear light) hợp nhất với thân thể hư không (illusory body).
Ông giảng Mật Tông mà như đang đọc thơ. Lời niệm Quán Thế Âm làm toả sáng đức Lục-Ngọc-Quang Quan Âm (Green Tara), Bạch-Ngọc-Quang Quan Âm (White Tara), Hồng-Ngọc-Quang Âm (Red Tara). Những Quan Âm chập chờn màu sắc như áo lụa cô gái áo vàng quẩn quanh trong trí Phạm Công Thiện năm nào, ngày ông vào tịnh thất. Mỗi lần nghĩ tới ông tôi lại nhớ tới đoạn văn kể chuyện của Nguyên Sa trong “Bài Tựa Riêng” viết cho Văn năm 1985, số 38:
Mười mấy năm trước, thi sĩ họ Phạm đã vào tịnh thất một lần, bạn ta ở đó được hai năm cho đến một buổi chiều, tiếng cười của thiếu nữ nào vọng lên từ sân chùa, thi sĩ động tâm, hé cửa nhìn xuống, tịnh thất khép lại phía sau.
Mười mấy năm sau, ông lại diện bích ba năm, ba tháng, ba ngày. Ông tách biệt khỏi thế gian, không nhìn, không nói, không đập phá, không say sưa, không nổi loạn, không khật khưỡng, không sân si. Ông trầm mình trong cõi lặng đến nỗi Nguyên Sa nhờ Thượng Toạ Thích Mãn Giác (nay đã quá cố) đưa giùm một bài thơ “Nói chuyện phải quấy với Phạm Công Thiện” qua khe cửa:

Người vào tịnh thất sống ba năm
Cất tiếng không lời để nói năng
Buổi sáng thinh không, chiều tới chậm
Tiền kiếp chen vô cạnh chỗ nằm
...
Bao nhiêu năm sống, Phạm Công Thiện đã sôi nổi cùng bè bạn, rong chơi đủ đầy từ cực đoan này sang cực đoạn khác. Ông dạy học, làm thơ và vẫy vùng trong những vũng tư tưởng, hố thẳm không đáy của Sartre, Rimbaud, Henry Miller, Duras, Eliot, Williams...
Bấy nhiêu năm ông đã nhiều lần lặng yên thiền tĩnh tâm ở chùa, ở mật thất, ở Houston, ở thành phố mà ông gọi đùa là Mất Thiên Thần (Los[t] Angeles). Ông quán tưởng Mật tông, quán tưởng Tara xanh, trắng, đỏ và phóng tâm trí lên phủ cả bầu trời một cái hĩm đàn bà vĩ đại bao trùm cả càn khôn vạn đại và thiên thu đại kiếpđể nghe tiếng cười của các vị bồ tát. Tôi không biết trong tiếng ngọc lưu ly trong veo ấy, ông có nghe được tiếng cười của người con gái hoa cúc động tâm ông năm xưa không? Không biết trong cuộc lang thang suốt đêm dài trên quả đất ông có quên được hình bóng người con gái trăng rằm Tây Dương của Duras mà ông tưởng tượng không?
Còn bao nhiêu tiếng tâm động ở lồng ngực phì nhiêu bao la ấy hở ông?

... tiếng ho của cô nường, tiếng đập tim, tiếng lá cây phong reo, tiếng Địa Trung Hải, tiếng Đại Tây Dương, tiếng Thái Bình Dương, tiếng trùng dương, tiếng sông Garonne, tiếng sông Lot, tiếng sông Seine, tiếng sông Isère, tiếng sông Isar, tiếng sông Danube, tiếng sông Nhị Hà, tiếng sông Hương, tiếng sông Cửu Long, tiếng yêu, tiếng em, tiếng thương, tiếng nhớ, tiếng Hoài, tiếng Hương, tiếng Nga, tiếng Phượng, tiếng Chinh, tiếng Khánh, tiếng Dung, tiếng Ly, tiếng Nguyệt, tiếng Thu, tiếng Ngọc, tiếng Cầm, tiếng Uyên, tiếng My, tiếng Véronique, tiếng Françoise, tiếng Isabelle, tiếng Agnes, tiếng Laura, tiếng Dương Quý Phi, tiếng nường Thái trắng, Thái đen...
(Trích “Khi chiều tới gió reo trên lá rừng phong”, 1985)

Tôi thích nhìn ông dưới mắt nhìn thi sĩ, dưới những cơn địa chấn đầy sân si của con người trần tục hơn. Ngay từ thuở còn thanh niên, cái động trong bản ngã ông hiện diện cùng khắp. Nó cho ra đời một Ngày Sanh Của Rắn.Trong tập thơ đầu làm động một thế hệ, cái tôi của ông lao xao trong suốt tập thơ.
tôi đứng trên đồi mây trổ bông... tôi nằm cho rã chiếu cạp điều... tôi chấp chới... tôi bay trên biển... tôi đi đông chìm... tôi về... tôi hiện... tôi nhớ một lần cây quế mọc... tôi mửa máu đen... tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng... tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người... tôi nuốt nọc đen... tôi mặc... tôi gọi hương và tôi chết giấc... tôi chạy... tôi long đong... tôi nghe... tôi ca hát... tôi nuốt... tôi đau... tôi yêu... tôi cúi đầu trong hầm cà phê... tôi thấy việt nam ngang tàng... tôi không nghe...
Phạm Công Thiện trong mắt nhìn Mai Thảo là một ồn động không bút nào tả xiết. Ông là một thiên tài say hùng dũng giơ cao cánh tay, tự dành những lời châu ngọc nhất về tài năng xuất chúng, về tâm thức cự phách khơi khơi riêng tặng cho mình. Ông tôn vinh chính ông là nhà thơ lớn nhất thế giới, lẫy lừng hoàn vũ; Sartre, Camus cho đi quét đường hết. Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm là những tên nào vậy, tao liệng vào sọt rác hết cả thảy Chinh Phụ Ngâm, Đoạn Trường Tân Thanh. Vì thế sau này, khi một người bạn gọi tôi để giới thiệu tôi với ông qua một buổi điện đàm. Tôi cũng không ngạc nhiên khi nghe qua đầu dây tiếng ông vang vang hỏi bạn tôi “Trịnh Thanh Thủy là đứa nào đó?”
Ngoài những ồn ã tếu nghịch ngông cuồng, bất cần đời trong những huyên náo bè bạn, các cơn “động” địa chấn lớn trong thơ ông phát nổ, phát sáng và cháy cả “em”, tiêu cả thinh không, làm chết thiên tài, làm tỉnh cơn mộng dài sau tiếng đại hồng chung.
Về đi thôi rắn cắn Đại Không
Phù chú bay rợp cả Phương Đông
Phương trượng bay ai vừa tỉnh mộng
An Ma ni bát di hồng!
Om mané padmé hum!
Om ah Hum! Om Ah Hum!

Sấm vừa nổ cháy cả thinh không
Gió mùa xưa nổi đoá sen hồng
Hắt hiu em chết bên kè đá
Anh vụt hiện về trên biển đông.
...
(Trích “Thơ sấm kè đá quán tự tại”, 1985)
Trong chúng ta, ai cũng biết khi một sự thân yêu mất đi, không có sự thân yêu nào thay thế được. Có phải chúng ta vừa mất đi một tiếng cười sảng khoái, một hơi thở thơ ca ngất ngây, một đoá sen thiện tâm kỳ thú hay một con rắn Nam phương? Chúng ta đã có một nhà tư tưởng, dịch giả, giáo sư, đại đức, cư sĩ, nhà thơ, nhà văn mà đôi lúc bút pháp của ông, tôi nghe chừng như đang vẽ lên màu hồng sắc tía đủ hình dạng của một bức tranh lắp ghép (collage).
Giấc nồng nặc, rượu vàng đêm hai mươi chín tết. Đường hẻm khu xóm tuổi nhỏ. Đường lót gạch rong rêu, vách tường ai vẽ hình tục tĩu. Tuổi dậy thì tọc mạch. Linh thiêng đâu đó sân khấu cải lương, lựu đạn nổ, máu chảy, người chạy mất. Đương đầu với những tử thi, cây đa, bến cũ, đường xe lửa bị giựt mìn... Hồi quang, phản ảnh vài chục kiếp người, thời gian, tiếng xôn xao và nước chảy. Lùng bắt đôi ba câu huyễn mộng, thực thế thì chỉ có thế. Thế thì thôi, gió nước. Cô phong độc tú, không gian trong gian phòng, không gian trong thời gian, thời giờ...
(Trích Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất, 1988)
Tôi có vài người bạn tỏ ý không hiểu ông nói gì trong thơ. Họ bảo thơ ông như bùa chú, nó chập chùng những con chữ, âm điệu nhịp nhàng nhưng nó cũng mù mù sương ẩn. Thơ ông thường dài như loại trường ca:

Mùi con gái hươu nai bộ lạc
Những con lạc đà âm thầm chở kinh băng qua sỏi đá
Cù Lao Rồng ngày tháng phôi pha
Hà Hương trôi đi Hà Hương ở lại
Tên một người con gái tương lai
Không hề gặp trong đời
...

Hương Hà ta ra bên sông chơi
Thời oanh liệt thơ bay rợp miễu
Mai Thảo buồn sát na phiếu diễu
Nghiêm Xuân Hồng đan dệt quang minh lướt đỉnh tịch liêu
Ngày xưa thi sĩ thả diều
(Trích “Trường ca cù lao rồng”, 1985)
Bảy mươi mốt năm ngang tàng như gió lộng, cháy hừng hực tựa lửa dung nham, đi về như sao băng cùng trời cuối đất. Ông lúc nhập thất, lúc chân nam đá chân xiêu say ngất ngây, khi phát ngôn bừa bãi gây sự với mọi người như lời kể của Mai Thảo. Ông đã đi trong thế giới hàng ngàn tiếng động, để tâm chao theo từng sát na nhiễu nhương cuộc đời. Ông đã ngồi thiền nghe chim hót quanh mình, nghe thân động, tâm động, tình yêu động. Nhưng phút cuối trên tất cả đỉnh cao là lặng yên, ông đã yên lặng đời đời.
TTT

(Nguồn: Tác giả và tác phẩm. Phí Ngọc Hùng)


 

No comments:

Post a Comment