Huyền
Chiêu
Phạm Ngọc Lư. Huyền Chiêu vẽ
Ngàn sau hồn chữ rêu
phong
Miên man thiên
địa…tấc lòng du du
Phạm Ngọc Lư
Thuở
trai trẻ, Lư từ Huế vào dạy học ở Củng
Sơn, xứ ấy ít ai dám đến nhận nhiệm sở..
Củng
Sơn là một quận miền núi, heo hút, nằm dựa lưng vào dãy Trường Sơn cách Tuy Hòa
khoảng ba mươi cây số :
“Bốn phía rừng xanh
màu nước độc
Đông tây nam bắc núi
chận đường
Một lũng đất bằng khu
chén nhỏ
Trói chân ta vào chân
Trường Sơn (1)
Thời
đó, ít ai dám xuôi con đường độc đạo từ
Củng Sơn xuống Tuy Hòa.
Chiến
tranh đang hồi ác liệt và thầy giáo Phạm Ngọc Lư đành:
“Bó đời ta trong manh
chiếu rách
Đêm nằm mộng lớn nuốt
mộng con
……………………………………..
Nằm chi đây, thân tàn
đất trích
Chờ ai đây, đói lả
chết mòn (1)
Nhưng
cũng nhờ cái xứ “Canh khuya cọp gầm vang núi Lá” (1) ấy mà chúng ta có được tuyệt
tác Biên Cương Hành của Phạm Ngọc Lư.
Trong
phim Cầu Sông Kwai, ở cuối phim, hình ảnh người bác sĩ quân y gầy gò, đứng thẫn thờ, lặng nhìn dòng sông loang máu hàng trăm xác lính,
những xác người mà ông đã từng tận tụy cứu chữa trước đây khi họ bị thương
cứ làm tôi nhớ mãi.
Lư
không cầm súng, nhưng nơi đất trích Củng Sơn, chứng kiến thảm kịch máu đổ vì bom đạn cứ tiếp diển ngày nọ qua ngày kia một cách phi
lý, trái tim anh đã nghẹn ngào nhỏ lệ:
“Đây biên cương ghê thay biên cương!
Tử
khí bốc lên dày như sương
Đá
chảy mồ hôi rừng ứa máu
Rừng
núi ơi, ta đến chia buồn
Buồn
quá giả làm con vượn hú
Nào
ngờ ta con thú bị thương”
…………………………….
Máu
đã nuôi rừng xanh xanh ngắt
Núi
chập chùng như dãy mồ chôn
Gớm,
gió Lào tanh mùi đất chết
Thổi
lấp rừng già bạt núi non” (2)
Thơ
Lư thật buồn và…khổ nữa.
Lư
muốn đời mình trôi đi như dòng nước nhưng dòng sông của Lư lúc nào cũng như muốn ngừng lại ở những bến sông buồn bã
nhất:
“Chảy đi chảy đi
Hỡi sông buồn lắm
Nước thôi chờ chi
Thuyền xưa đã đắm
……………………..
Chảy mau chảy mau
Đời nông tình cạn
Mà nước quá sâu
Trăm chiều khổ nạn
………………………
Đưa ai tiễn ai
Phai hình mất bóng
Khổ lắm người ơi
Qua sông mất nón (3)
Sau
1975, dòng sông của Lư lênh đênh
đưa Lư vào tận Long Khánh.
Chàng
quyết chí:
“Ra đi mưu cầu y
thực”
(5)
Chợ
Long Khánh là nơi Lư thử thời vận:
“Ngày mấy bận áo khô
áo ướt
Trời trớ trêu chợt
nắng chợt mưa
…………………………………
Ma xui quỷ khiến ra
ngồi chợ
Bán gió rao trăng một
núi dừa!
……………………………..
Bán mua mua bán người
đen trắng
Hơn thiệt thiệt hơn
thói lọc lừa.
Không
thành công trên đường kinh doanh …dừa, Lư chán ngán ngồi uống rượu:
“Uống
say ném áo ..lên nóc quán
Hết
nợ hết duyên vĩnh biệt dừa” (4)
Lang
thang mấy bận, lần này trở về Phá Tam Giang
lòng Lư nặng trĩu:
“Mười năm dong ruổi
mòn đất khách
Về cố hương chiều xế
nắng tàn
Bỏ nón, tháo giày,
xăn tay áo
Rửa phong trần thẹn
với Tam Giang”
………………………………..
Mưa miền Nam nắng
miền Nam
Trông mây thấp thỏm,
nghe gió bàng hoàng
Mười mấy mùa trôi qua
không nhớ
Quá đỗi mưa đau
Quá nhiều nắng khổ
Lẽ nào trời bỏ ta
chăng?
……………………………..
Thôi rửa hết phong
trần nơi bến vắng
Để trở về đứng khóc
dưới hương quan” (5) .
Anh
Khuất Đẩu và tôi gặp Lư lần đầu ở nhà Nguyễn Lệ Uyên .
Nhà
Nguyễn Lệ Uyên ở tận Hòa An cách ga xe lửa gần năm cây số.
Anh
Nguyễn Lệ Uyển đón và chở tôi, một ông xe ôm chở anh Khuất Đẩu.
Xe
chạy băng băng qua những cánh đồng lúa chín vàng. Xa xa núi Chóp Chài in bóng.
Xe
ngừng đã thấy Phạm Ngọc Lư đứng đón trước cổng nhà. Lư dáng thư sinh nho nhã,
áo sơ mi trắng cài khuy trịnh trọng.
Trong không gian thoảng mùi hương lúa , dưới bóng cây mận già, trong nếp
nhà cổ kính, mọi người vui mừng như đã quen
nhau từ lâu .
Chị
Hoa, vợ anh Nguyễn Lệ Uyên rủ tôi đi chợ. Bữa cơm có đậu rồng hái trong vườn
nhà, có rau lang luộc mọc đầy dưới gốc mai, có cá lóc um chuối non.
Chiều
xuống có thêm vài người bạn của Nguyễn Lệ Uyên đến chơi bàn luận chuyện văn
chương ngày tháng cũ, uống rượu với nem Ninh Hòa và nghe Phạm Ngọc Lư ngâm thơ.
Lư
vốn con nhà nho, giỏi thơ Đường, biết làm bài Hành , bài Phú vì vậy giọng ngâm mang vẻ hào sảng của một “Nho
sinh lỡ Vận”:
“Ta mím môi chỉ Tam
Giang thề hẹn
Không là Tương Như mà
khí khái dâng tràn”
Bước xuống thuyền
nhìn trời cao dõng dạc:
Gõ mạn thuyền ngâm
khúc Hành Phương Nam”
……………………………………………..
Phá Tam Giang ôi Phá
Tam Giang!
Gió hiu hiu sóng gợn
mơ màng
Nước vẫn mặn mòi mây
quen thuộc
Sao lòng ta sóng ly
tan” (5)
Trời khuya, rượu cạn,
chàng nho sinh bỗng biến thành cuồng sĩ:
“Cô hồn một lũ nơi
quan tái
Có khi đã hóa thành
thú muông
Cô hồn một lũ nơi đất
trích
Vỗ đá mà ca ngông hát
cuồng”
………………………………
Sát khí đằng
đằng rừng dựng tóc
Ma thiêng còn ngán
bọn cô hồn” (2)
Lư
có bề ngoài hiền lành, nhỏ nhẹ nhưng trò
chuyện lâu mới hiểu tính anh rất cương trực, ghét thói xu thời.
Mờ
sớm, mọi người đã dậy, cùng ngồi bên
nhau dưới gốc mận trong sân vườn, ăn
chén cháo nóng chị Hoa nấu, uống với Nguyễn Lệ Uyên chén trà tạm biệt.
Xe
taxi đón Lư anh Khuất Đẩu và tôi xuống bến xe đò.
Đưa
tay vẫy chào chúng tôi, Lư bước vội về hướng bến xe Đà Nẵng.
Sáng
hôm ấy, Tuy Hòa cuối tháng giêng trời thật
đẹp.
Ngồi
trên xe, tôi lật vài trang trong tập thơ Đan Tâm mà Lư vừa tặng.
Gặp
mấy câu thơ đọc thấy lòng rưng rưng:
“Chong đèn thức với
mưa khuya
Hồn thơ xác chữ đầm
đìa mưa xanh
Mộng con mộng lớn tan
tành
Chỉ còn bút mực đan
thanh tươi màu” (6)
Ninh Hòa 4 tháng 5
2016
HC
1-Đất Trích
2-Biên Cương Hành
3-Bên Sông
4-Ngồi Chợ
5-Trở Về Phá Tam
Giang
6-Chỉ Còn Đan Tâm
No comments:
Post a Comment