Vũ
Hoàng Thư
NXT & tác phẩm
Ngày tháng tư khởi đầu như thế, trôi ù
lì và vô cảm. Bầu trời chì úng nước, lún phún mưa, dự báo dầm dề và kết thúc lơ
lửng như mọi bản tin tiên đoán thời tiết. Tháng tư bao giờ cũng chập chùng mây.
Những đám mây không hề thay đổi kể từ ngày đó, thế kỷ trước. Thơ T. S. Eliot bất
ngờ trở về, giao hưởng trong từng tấu điệu của nhịp bước tháng tư. April is the
cruellest month, breeding, Tháng tư tháng nghiệt ngã / Lilacs out of dead land,
mixing, Nuôi mầm khóm tử đinh hương trồi dậy / Memory and desire, stirring, Ký ức
cùng khao khát trộn bời / Dull roots
with spring rain. Bén rễ vô tri với mưa xuân (The Waste Land).
Phải chăng sự nghiệt ngã nuôi lớn cho mọi
mầm sinh đứng dậy? Chắc chắn phải có sự cố gắng tột cùng trong từng cơn đau nhức
của sự trở mình. Trở mình để thay đổi, nếu không ta chỉ sống mãi trong ký ức và
mãi mãi là ký ức. Kẻ chiến thắng say mê trong chiến tích của mình và quên hiện
tại, dần dà họ sẽ bị thời gian đạp đổ thành kẻ chiến bại. Người thua trận u uất
đắm chìm trong quá khứ, cuộc đời sẽ quên lãng họ. Cuối cùng cả hai đều là kẻ
chiến bại trong trận chiến của chính mình tự đặt ra. Những cơn mưa xuân không
kéo dài mãi và nó sẽ không chờ đợi ai.
Tháng tư đọc lại thơ Nguyễn Xuân Thiệp để
thấy cơn ngiệt ngã là tố chất nuôi dưỡng nhà thơ đứng dậy, càng lúc càng lớn,
vượt trội những nhỏ nhoi rừng rú của cái ác ngự trị trên quê hương sau 1975. Tập thơ “Tôi Cùng Gió Mùa” ra đời đã hơn
19 năm, vẽ lại hành trình của kẻ sĩ miền Nam đi vào nơi gió cát. Có dập vùi và
thống khổ để cuối cùng hiện ra ở cuối đường hầm như một một kiếm sĩ bất khuất.
Và
gió mùa. Gió mùa với quê hương mình như là một. Những ai sinh ra trên dải đất
hình chữ S ấy mà không lớn lên với từng cơn gió mùa? Gió mùa như lẽ sống, như định
mệnh của nước. Tôi cùng gió mùa hiển nhiên xác định tôi theo cùng với vận nước
nổi trôi nếu ta mượn lời của Phạm Duy. Đã bao gió mùa thổi qua quê hương nhỉ.
Trong cách thế nào đó, gió mùa trong hồn thơ Nguyễn Xuân Thiệp làm hai nhiệm vụ,
một ước vọng bão cuồng để dập tắt ngọn lửa hỗn mang của lịch sử mà đồng thời
cũng để hất tung những chật hẹp của lòng. Người sẽ thấy tim mình mênh mông
trong cơn lộng. Những cơn gió mùa làm đẹp cõi người ta.
hỡi gió mùa
đã đến trên quê hương
ta chiều nay
để thêm một lần gặp lại
xin hẹn cùng ta
xin hẹn cùng người
một mùa đông ấm lửa
(Tôi
cùng gió mùa, Tôi cùng gió mùa)
Rất nhiều gió trong mấy tập thơ của Nguyễn
Xuân Thiệp. Gió mơn làn da, đùa giỡn lá bàng nơi Vương Phủ, thổi lộng qua Eo
Gió những rừng dã quỳ Pleiku. Dĩ nhiên là gió mùa. Quái phong lật trốc xác
thân. Những cơn bấc rét cắt mùa đông, khô khốc nồm hạ cháy. Chưa hết, gió Lào bật
lửa Trường sơn. Quê hương như thế, những phút giây vui hòa hay trong giờ bất hạnh
qua những trận gió mùa có tự ngàn năm. Bài thơ “Tôi Cùng Gió Mùa” viết năm 1974
như dự phóng về một thời gian cận kề rất gần trước mặt.
thổi qua
…
thổi qua những biên
thùy. rào cản. những
ước định của người. những tâm
hồn mê sảng
những màu da .những
dòng nước mắt
gió mùa
gió mùa
thổi qua
thổi qua
…
trong cơn oan khốc
thổi từ tử hải. tới bờ
hiện sinh
(Tôi
cùng gió mùa, Tôi cùng gió mùa)
Thơ Nguyễn Xuân Thiệp mang đầy tính tiên
tri. Một tháng trước tháng 4 định mệnh đã thấy phảng phất hồn ma bóng quế đè nặng
lên hồn người. Tháng 3 sấm động ở thành phố duyên hải. Tháng 3 của giông, của
mưa rào hâm hấp đập dồn hồn ốc, khi những cơn bấc bắt đầu nhẹ đi nhường chỗ cho
trận nồm kéo đến.
tháng ba xuống khu rừng.
bóng quạ
rung những nhánh cây.
màu tàn lửa
tiếng thét hư không.
chiều rượt qua ngàn
(NHA
TRANG. THÁNG BA 1975, Tôi Cùng Gió Mùa)
Không êm ả trôi mà đột khởi quét cuồng,
chiều rượt qua ngàn, tài tình phản ảnh sự tàn bạo của nhịp thời gian trên tâm
linh. Một trong những bài thơ đầu của tập Tôi Cùng Gió Mùa vẽ ra viễn tượng mùa
trầm luân đang mon men bước về trong kinh hồn sử lịch, của cái ác đang rình rập
chụp vồ. Móng vuốt đó sẽ làm tan cõi người, cho người thành mãnh thú ăn thịt
anh em, chữ đồng bào hết còn tình nghĩa trong nguyên ngữ của chung cùng phô
thai.
tháng ba. cọp chạy.
người xa người
Một năm sau bài thơ Tôi Cùng Gió Mùa ra
đời là khởi điểm của mùa lưu đày. Hằng triệu người miền Nam bị đẩy vào chốn khốn
cùng. Gulag được dựng lên khắp nơi tại Việt Nam, oan khốc thành chuyện bình thường
của đời sống hàng ngày. Nguyễn Xuân Thiệp khăn gói đi ở tù đến hơn bảy năm. Những
bài thơ làm từ trại tù vùng Nghệ Tĩnh như “Mưa ở đây như mưa ở quê nhà”, “Điệu
hoài hương xanh”, “Thảo nguyên”, “Chiều bên sông Giăng”, “Ánh trăng” là những
bài thơ dài ghi lại đoạn đường khốc liệt đó. Năm bài thơ bằng thể thơ tự do,
thơ 6 chữ, thơ 7 chữ, như những bài trường thi, riêng rẽ số phần của thi sĩ mà
cũng là phận chung của cả một đất nước trong tăm tối đêm dài.
Thánh
vịnh Psalm 137 nhắc đến đầu bài “Bên Bờ Sông Giăng” gọi hồn Do Thái một thời nổi
trôi giữa hai giòng sông Euphrates và Tigris, thuở lưu đày chốn Lưỡng Hà. Nhắc
đến tích xưa của người để nhớ phận mình ngày hôm nay.
ta ngồi ta khóc
trông về phương nam
ngọn gió hoan châu.
rào rào cát chạy
nghìn dặm. bóng chim
bay. nước sóng sánh bờ
…
buổi chiều. vớt sỏi.
dưới lòng sông giăng
ta cười trong tiếng
sóng
ai kia. đưa ta lên rừng
ai kia. đưa ta ra đầu
ngọn suối
tượng đài người đọ được
với thời gian
tiếng cười ta
đánh thức. lớp cuội
mòn. chiều nay
bia đá nghìn năm. bồi
hồi. xao động
nói gì với mai sau
nói gì với các thị trấn
bên bờ nước biếc
một tiếng cười dài.
vang vọng. hư không
(Bên
Bờ Sông Giăng, Tôi Cùng Gió Mùa)
Một tiếng cười dài vang vọng hư không
nghe lạnh gáy và nổi da gà. Phút giây “ngộ” ra tượng đài không đọ được với thời
gian, mọi thứ sẽ tiêu tán như lớp cuội mòn trong làn sóng vô thường. Mọi thứ sẽ
thành vô nghĩa. Nguyễn cất tiếng cười Không Lộ hàn thái hư bất tử. Không có cô
phong đỉnh, chỉ bên giòng sông Giăng và rừng già ác độc Man Lâm nơi xuất phát
chiếc nôi Sô Viết Nghệ Tĩnh những năm 1930. Nghệ Tĩnh, quê của cách mạng thiếu
vắng trái tim. Nghệ Tĩnh dập vùi thân tù cải tạo cho trái tim khô máu lủng lẳng
bên ngoài như trái chuông treo bên hông ngựa. Trái tim thôi thuộc cõi lòng,
trái tim thôi là máu mủ. Trái tim đã chết, thành vật vô tri như trái chuông
trên thân trâu ngựa, trong ác độc con người.
khi ta đi lên miền bắc
nụ cười quên dưới trời
xưa
trái tim đeo ngoài ngực
áo
như chuông. trước cổ
ngựa thồ
(Điệu
Hoài Hương Xanh, Tôi Cùng Gió Mùa)
Như
một cơn mộng dữ, người nhập vai lắc lư đồng bóng. Ngoại thân dị dạng. Phế phủ
nát tan.
uống đi. vị ngái chát
đầu môi
uống đi. hoa. và mùi
mật đắng
chén trà này. dành để
riêng ta
uống cho hết. khe rừng.
suối độc
(Trà
Oán, Tôi Cùng Gió Mùa)
Nhưng không vì thế mà lòng nhân hậu của
Nguyễn mất đi, bao giờ ông cũng nhớ tưởng một hoàng xưa, thời vàng son không
còn nữa nhưng dự phóng vẫn là xây dựng lại trời xưa. Chỉ đơn giản như chưa từng
mất. Có bếp lửa. Có ngồi lại. Bên ly trà. Để thấy “hồn ta. chiều nay. là sông hằng”.
Cô đọng lại sau trầm luân là sự chứng đắc của một thiền sư! Tâm đó của Nguyễn
là chân tâm chưa hề mất, hằng có, uyên nguyên vốn đã nằm trong ta tự bao giờ,
chiều nay tìm lại, ta là sông Hằng…
dòng sông nào không
là sông hằng
hãy thả những cánh
hoa trên nước
hãy rắc tro tàn từ nhục
thân
rồi cất tiếng cười
trên ngọn sóng
ôi. hồn ta. trôi theo
sông hằng
hồn ta. chiều nay. là
sông hằng
Bài “Thảo Nguyên” không dài hơn mấy bài thơ
khác làm trong thời 1980 ở Nghệ Tĩnh, nhưng chỉ cần câu cuối thôi để thấy tù
đày đằng đẳng như thế nào, lê thê đến làm sao.
ta đi năm năm qua thảo
nguyên
Năm năm là một, hai, ba, bốn, năm năm
hay năm năm là hàng hàng năm, có đến 100? Có thể, vì tiếng thơ dài hơn thế kỷ với
cách chơi chữ tài tình. Dài hơn hẳn 15 năm đoạn trường của Thúy. Không có người
hùng Từ Hải cưu mang. Không có sông Tiền Đường kết thúc cái khổ. Năm năm đi qua
thảo nguyên để học chí hướng của cha ông qua “đường bạch dương. chiều. không
quán trọ / hành nhân. hành nhân. đêm thu phân”, của mẹ và chị để một lần “như
xưa. một lần về quê ngoại / ngày reo vui. vườn chim. bay chim”, của em trong
“tìm nhau. trăng đã về động cổ / tìm nhau. tìm nhặt chiếc khăn rơi”. Như thế đấy,
bao nhỏ nhoi, hận thù người trút lên đầu không làm nặng bước nhẹ tênh của nhà
thơ. Như thế đấy, đầy ấp sự rộng lượng của kẻ sĩ Đông phương. Năm năm thảo
nguyên để thoát lòng sông chật hẹp, về với đại dương bao la ngoài kia. Lòng nhà
thơ như biển.
mùa hạ, ta qua vùng
thảo nguyên
bước nhẹ tênh. quên
thời khổ hạnh
…
chuyện của người là
chuyện dòng sông
bình minh đến mở tung
cửa biển
ta đi năm năm qua thảo
nguyên
(Thảo
nguyên, Tôi Cùng Gió Mùa)
Như lời tiên tri, gió thổi qua rừng dã quỳ,
thốc vào định mệnh, báo hiệu mùa tàn. Chinh chiến tàn cho ma quỷ hiển lộng.
Nhưng người đứng vững, ma quỷ không làm gì được. Thi sĩ thành Troie không chết,
Nguyễn Xuân Thiệp nói thế trong một lần phỏng vấn ở Washington DC. Thành Troie
từ truyện thần thoại Hy Lạp, bị vây hãm trong 10 năm và cuối cùng đã rơi vào
tay quân Hy Lạp. Cuộc chiến đấu anh dũng của dân thành Troie kết thúc bằng những
tên nội tuyến lọt vào được trong thành bằng con ngựa gỗ thành Troie, một âm mưu
rất nổi tiếng trong cuộc chiến tranh này. Trong vở kịch La guerre de Troie
n’aura pas lieu (1935) của kịch tác gia Pháp Jean Giraudoux, nhân vật Cassandre
nói “Thi sĩ thành Troie đã chết rồi… Lời phát biểu bây giờ thuộc về nhà thơ Hy
Lạp” (Le poète troyen est mort… La parole est au poète grec). Nhắc lại chuyện
thần thoại Hy Lạp như một ẩn dụ về nét tương đồng giữa thành Troie và miền Nam
Việt Nam trong cuộc chiến vừa qua. Miền Nam đã thua trận phần lớn vì những tên
nội tuyến và những trò chính trị đi đêm, những con ngựa thành Troie của thế kỷ
thứ 20. Khi Nguyễn Xuân Thiệp phủ định lời
tuyên ngôn của Cassandre, ông muốn nhắn nhủ những “đỉnh cao” của Bắc bộ phủ,
thi ca không nhất thiết và sẽ không bao giờ nằm trong tay của kẻ chiến thắng.
Sau “Tôi Cùng Gió Mùa” của thời điên đảo
là hai tập thơ “Thơ Nguyễn Xuân Thiệp” (Phố Văn, 2012) và “Thơ Mạn Đà La” (chưa
xuất bản) gồm những bài thơ sáng tác sau khi tác giả định cư ở Mỹ, 1995. Thơ của
ông tuy dưới hình thái thơ tự do nhưng mang mang màu cổ thi. Tưởng là biền ngẫu
nhưng không, ý tứ mới, lắm khi tài tình, rực lên sự đối chọi của nghịch lữ phù
hư, của trùng chùng ước lệ, quanh quẩn đèn cù vòng vo, chẳng hạn,
hỏi tìm đâu người tri
kỷ
nắng bên sông. vàng
thám hoa
hoa cải tàn rơi. ngày
hết
cầu dốc sấm. không
người qua
đắp mảnh trăng đơn. hồn
rét
nửa đêm mài mực đề
thơ
lửa soi. mặt người
xiêu xó
thời gian. thời gian.
một bóng đèn cù
(Cổ
nguyệt, Tôi Cùng Gió Mùa)
Không cần cầu cứu đến Tràng An, không gọi
bến Cô Tô mà vẫn lung linh sương ngàn bóng nguyệt đông phương ở giờ phút thi sĩ
đương là. Ở đâu cũng có thể gợi nhớ quê hương, nối liền địa danh trong bao hàm
thế giới. Liên hệ nhau chăng chính là tính đại đồng trong hồn thơ của Nguyễn.
Bên này hay bên kia, âm chùng đồng vọng Octavio Paz, bước chân tôi dọc phố này
/ nghe đồng vọng gõ ngân dài phố bên (My steps along this street / resound in
another street, Octavio Paz – Aquí). Hương
và mùi gây niềm ngái nhớ, chỉ Nhatrang mới thật biển.
laguna
san juan capistrano
destin
cozumel. mái lá. mùi
bia. và âm nhạc. mễ
hay nha trang
(Thì
đi về phía biển, Thơ Nguyễn Xuân Thiệp)
Hoa dã quỳ, đồi thơm nương Đà Lạt. Dã quỳ
như một biểu tượng trong thơ Nguyễn Xuân Thiệp. Khác với dã quỳ của Van Gogh cuồn
cuộn bốc lửa điên dại, dã quỳ của Nguyễn êm đềm Đông phương trong giấc mơ Ngọc.
Em đến trong biển vàng, loài hoa dã luôn quỳ, sùng bái mặt trời, trung kiên với
thần chủ cho đến chết gục thân cây. Dã quỳ đi theo Nguyễn từ những cánh hoa nhuộm
máu anh em ở chân ngọn Chu Prong qua đến cánh đồng vàng ngát chân trời Texas,
Oklahoma… Thấy hoa nhớ người, nhớ cảnh, những núi đồi đã xa, Komtum, Đà Lạt
sương mù ký ức. Dã quỳ trải dài trong ba tập thơ. Ôi, dã quỳ, em vàng mơ, vẽ mặt
trời thắp tôi chờ cõi xa. Không là lan, chẳng phải quỳnh, chỉ có quỳ dính dáng
kỷ niệm,
hút với nhau điếu thuốc
giữa buổi chiều hoa
quỳ
nói dăm câu từ tạ
mây. với người. cùng
đi
(Thơ
viết trên trực thăng buổi chiều hoa quỳ, Tôi Cùng Gió Mùa)
Quỳ
hồng hoang siêu thực, có thể nào nhật nguyệt chung cùng, sinh và tử sánh vai hiện
hữu,
hãy đánh thức trong
nhau
một mùa dã quỳ. vàng
những mặt trăng. mặt
trời
cùng mọc một lúc
và cùng lặn tắt
(mùa
cuối, Thơ Nguyễn Xuân Thiệp)
Và
những khi trực diện số phần, cháy lan tiềm thức, à, như vậy đó, cái chênh vênh
mở dấu ngoặc của hiện sinh, phải chăng một ánh dương hồng phía đông, nhật xuất
lãnh đông hồng (thiền sư Chân Nguyên)?
anh khóc đợi bình minh
bông dã quỳ. đã nói với
anh. sự thật
(bài
ngợi ca trước bình minh, Thơ Nguyễn Xuân Thiệp)
hay những bông dã quỳ
ở oklahoma
như đời anh
đời em
vậy đó
(đêm
nay. anh ngồi viết cho em, Thơ Mạn Đà La)
Màu
vàng dã quỳ ôm chạm hoàng mơ, rực cam nắng xói ở chiều hay chết treo đầu ngọn,
rồi một ngày
em đứng. giữa rừng
hoa quỳ. đỏ
tưởng niệm tôi
xin đừng khóc
(dã
quỳ đỏ, Thơ Mạn Đà La)
em có nghe
này em có nghe
vẫn tiếng còi tàu
buổi chiều
âm vang qua khu rừng.
natick
những cánh dã quỳ tứa
máu. run rẩy
(chiều.
vẫn siêu thực. chiều, Thơ Mạn Đà La)
Nếu hoa quỳ là một biểu tượng của thơ
Nguyễn Xuân Thiệp, những dấu chấm trong thơ ông là một ký hiệu rất “đặc thù.
nguyễn xuân thiệp”. Dấu chấm nối câu thơ như đường chia của trò chơi puzzle.
Hóa không phải cuộc đời là một puzzle sao, của những mảnh vụn cấu ráp và thi ca
là nhịp rung phản hồi trên khe cắt?
a. cuộc đời. những mẫu
cắt dán
một cơn gió
cuốn đi. như lá khô
(lãng
quên. không màu, Thơ Mạn Đà La)
Dấu chấm ngắt câu thơ làm câu thơ có thêm
nhiều ý nghĩa mới và khác biệt khiến người đọc thành kẻ thám hiểm, chọn lựa. Hắn
sẽ trở thành một thi sĩ khác ngoài tác giả. Yêu dấu thay dấu chấm, tựa như khi
ta đứng giữa ngả ba đường, chọn bên này hay bên kia? Nhớ Robert Frost và The
Road Not Taken,
I took the one less
traveled by,
And that has made all
the difference
(Sao đã chọn đường
đơn độc lạ
Và như vậy đời ta lối
rẽ)
Hãy đọc lại vài câu thơ Nguyễn Xuân Thiệp
và đôi chút tra vấn trên những dấu chấm, khác với khi đọc lần đầu,
ngồi thu. trong quán
nhỏ
(TRONG
QUÁN.
NHÌN
RA HOA NỞ TRẮNG, Tôi cùng gió mùa)
Vậy là ta ngồi ở mùa thu, khi mùa thu nán
lại không đi, hay ta ngồi thu gọn trong quán nhỏ? Bắt gặp một không gian (ngồi
thu gọn) hay níu lấy thời gian (mùa thu) lửng lơ bằng một dấu chấm. Như thế gọi
là thi tài. Ta có thể trích bất cứ một câu thơ nào của Nguyễn Xuân Thiệp để thấy
cái phất phơ của song trùng nhị lộ này, chẳng hạn,
mưa bay. mù hơi thở
hai người. cũng như
không
Mưa đã bay mù như hơi thở phà hay lượng nước
bên ngoài và bên trong làm mù mịt không gian. Sự cảm ứng giữa chủ thể và cảnh vật.
Sự giao lưu trong hiệu ứng mù. Hai người vẫn không thể làm gì được khi đời là
những áng mây trôi không dám hẹn? Hay hai người đã tan quyện vào nhau, như một,
như không, giữa dấu chấm tuyệt vời?
Dấu chấm dẫn người đọc giao động giữa hai
thời hiện tại và quá khứ. Ta thành con thoi của không/thời. À, có một lần mưa
rơi nhẹ làm ta nôn nao trở về nơi trú, con đường bỗng nhiên dài hẳn ra. Dấu chấm
bây giờ không đặt ra câu hỏi chọn lựa mà thành dấu nối cho sự liên tưởng, không
dùng như là sự kết thúc của một ý tưởng. Dấu chấm muôn mặt.
Như nhãn chín. nhớ
chim mùa cũ
như đường dài. nhớ những
hạt mưa thưa
(Nhãn
chín nhớ chim mùa cũ, Tôi Cùng Gió Mùa)
Những dấu chấm xẻ căn nhà thành gian,
ngăn chia bờ lũ khi mảnh hồn ta chưa phôi pha nhớ. Nhớ gì ? Dã quỳ vàng trên
cánh đồng vô tận. Ở cuối thiên thu nụ cười tím lộng chờ. Dung. Ước vọng thơ sẽ
vỗ cánh gây hiệu ứng của một cánh bướm. Cánh bướm tạo “những chấn động. rền”.
Mà nếu không cũng chẳng sao, bởi chưng nói đến cánh bướm là nói đến mộng, cuộc
chơi không dứt của con người, hủ hủ nhiên hồ diệp dã, thích mần răng.
thơ anh
và đọc cho gió
bởi gió sẽ mang đi
về phía ngọn đồi
sương tím
nơi có em. đang chờ
(THƠ.
HIỆU ỨNG CÁNH BƯỚM, Thơ Nguyễn Xuân Thiệp)
Bên cạnh những dấu chấm một đôi khi ta bắt
gặp chữ ôi. Ôi-và-dấu-chấm đứng một mình, không liên hệ với câu phía trước,
không bắt tay với lời sau. Không hẳn là lời than, chỉ thuật lại những dã man,
khắc nghiệt không còn ngạc nhiên. Như tiếng thở dài trong đêm khuya của O nghèo
từ bài hát “Quê Nghèo” của Phạm Duy. Khắc khổ trở thành khắc khoải mênh mông
trong lời Ôi chấm viết năm 1976.
ôi. bóng mùa vui. biệt
tăm
(Điệu
hoài hương xanh, Tôi Cùng Gió Mùa)
Thơ Nguyễn Xuân Thiệp lắm khi là tiếng
kêu của gió, rất khẽ. Thoảng. Thầm thì kể chuyện và nhất là Nhớ. Nhớ từng sát
na. Nhớ đóng khung giữa hai dấu chấm. Những niệm. Niệm tình. Như những xung động
lượng tử. Hoặc là trạng thái này hay trạng thái kia nhưng không bao giờ là một.
Đẹp nhất là những vần thơ về người bạn đời, Dung. Và mất mát. Của kiếp người
trước cái chết. Phong linh, vỏ sò những thứ trơ cùng tuế nguyệt bên cạnh những
cái đã phôi pha không còn hiện hữu. Cái vắng mặt làm nên những hiện hữu hôm
nay, hay sự hiện hữu làm nổi bật cái đã không còn?
dung
dung ơi
tiêng kêu của chiếc
phong linh vỏ sò
còn vang
trong chiều. nắng tắt
(tiếng
kêu của chiếc phong linh vỏ sò, Thơ Nguyễn Xuân Thiệp)
oOo
Tôi lui tới mãi ba tập thơ của Nguyễn
Xuân Thiệp từ cuối tháng tư qua đến tháng năm vẫn chưa rời. Một cái gì níu lại.
Tôi bước trên những dấu chấm làm thành bậc thang. Bậc thang tôi leo về căn gác
tối có cửa sổ ngắm đóa phù dung, bậc thang dẫn tôi xuống vườn. À có đủ. Dã quỳ
vàng đến tận chân trời, tôi ngập chìm mộng mị. Bậc thang bỗng gãy đứt. Tôi rơi
làm dã nhân sống với ác thú bên sông Giăng. Thế mà tôi vẫn chưa muốn rời khu vườn
đó. Sức thu hút phù thủy giữ chân tôi.
người trên tàu đưa cho
balakirev một cây đàn cổ quái
và bảo
ông sẽ không chết. nếu
ông chơi nhạc
(từ
tiếng hót chim họa mi. một đêm mùa đông, Thơ Mạn Đà La)
Tôi bỗng cười một mình, không thể không nảy
ra một sự liên tưởng. Ừ, Nguyễn Xuân Thiệp sẽ không chết, nếu ông tiếp tục làm
thơ. Thi sĩ thành Troie chưa bao giờ chết…
VŨ
HOÀNG THƯ
Tháng 4 – Tháng 5,
2017
(tháng
tư. buồn – níu tháng năm
mầm
đợi nhú, đeo đẳng nằm. hạt khô)
No comments:
Post a Comment