Cao
Vị Khanh
Minh họa của Cao Vị Khanh
(viết
về thơ lục bát của Hoàng Xuân Sơn)
tặng bậu, mỏng dánh
Bắt đầu…
… bắt đầu là một lời tán
thán (hay tán tỉnh cũng vậy thôi) như vầy “em hai ơi sao em nhẹ hếu (đẹp dàn
trời) như cái bông hường (mới nở) vậy mà tôi thì (uổng quá!) đã là một con bướm
hết thời (quờ quạng). Nói cho văn vẻ hơn một chút thì là
em-nhẹ-quá-như-bông-hường-mà-tôi-cánh-bướm-tà-dương-chập-chờn.
Như vậy tại-sao lại ra nông nỗi này khi viết lại thành lục bát
Như vậy tại-sao lại ra nông nỗi này khi viết lại thành lục bát
em nhẹ quá (khi khổng khi không xuống hàng bất tử)
như bông hường
mà tôi cánh bướm tà dương (lại bất tử xuống hàng)
chập chờn
như bông hường
mà tôi cánh bướm tà dương (lại bất tử xuống hàng)
chập chờn
Tại-sao-không-là
Em nhẹ quá như bông hường
Mà tôi cánh bướm tà dương chập chờn
Mà tôi cánh bướm tà dương chập chờn
(như từ hồi nẳm vậy đó, coi
phải cái điệu thì thầm thủ thỉ dụ dỗ vo ve ong bướm … hơn không)
Nhưng mà tại sao lại hỏi tại-sao. (có khi nào ngồi lơ mơ, đầu óc thả lang vơ vẩn, rồi bất chợt ngó chăm bẳm vào bất kỳ một chữ nào đó-chẳng hạn như chữ tại-sao, sẽ thấy cái chữ tại-sao này nó kỳ cục như chính cái ý nghĩa tại sao kỳ cục của nó vậy). Không tin thử coi. Không tin nữa, cứ thử lên giọng hỏi coi, tại-sao? Coi có câu trả lời nào không. Hay chỉ là một sự im lặng dị thường.
Thiên hà ngôn tai!
Nhưng mà tại sao lại hỏi tại-sao. (có khi nào ngồi lơ mơ, đầu óc thả lang vơ vẩn, rồi bất chợt ngó chăm bẳm vào bất kỳ một chữ nào đó-chẳng hạn như chữ tại-sao, sẽ thấy cái chữ tại-sao này nó kỳ cục như chính cái ý nghĩa tại sao kỳ cục của nó vậy). Không tin thử coi. Không tin nữa, cứ thử lên giọng hỏi coi, tại-sao? Coi có câu trả lời nào không. Hay chỉ là một sự im lặng dị thường.
Thiên hà ngôn tai!
ngày khuỵu xuống trên thân.
thồ
kiếp xưa chim hạc
ốm o gầy mòn
hát ru trầm
điệu vai thon
gối đầu lên nỗi mất, còn
thịt xương
em nhẹ quá
như bông hường
mà tôi cánh bướm tà dương
chập chờn
chẻ hai lời
vệt môi hôn
mớm câu hoa mị nhiếp hồn tân toan
ừ!
kiếp vui cũng họa hoằn
thì đường quang quẽ đừng băn khoăn
chờ
tôi-nơi-em-khất-đời-thơ
có nhau vụng dại
dăm tờ
bối thơm
kiếp xưa chim hạc
ốm o gầy mòn
hát ru trầm
điệu vai thon
gối đầu lên nỗi mất, còn
thịt xương
em nhẹ quá
như bông hường
mà tôi cánh bướm tà dương
chập chờn
chẻ hai lời
vệt môi hôn
mớm câu hoa mị nhiếp hồn tân toan
ừ!
kiếp vui cũng họa hoằn
thì đường quang quẽ đừng băn khoăn
chờ
tôi-nơi-em-khất-đời-thơ
có nhau vụng dại
dăm tờ
bối thơm
Xuống hàng là xuống hàng.
Chấm và hết. Không có hỏi han lôi thôi. Mà cũng không có phân trần lếch thếch.
(thơ chớ bộ nhân tình nhân ngãi gì sao mà ỉ ôi…)
Xuống hàng là xuống hàng. Giống y cái ngã ba đường đời vậy đó. Tới đó là phải tan-hàng-cố-gắng. Tới đó là phải anh-đường-anh-tôi-đường-tôi. Tới đó là người-lên-ngựa-kẻ-chia-bào. Có níu có kéo có trì thì cũng có cưỡng lại được đâu. Thì còn hỏi tại sao làm chi cho thêm ngớ ngẩn. Mà có hỏi thì cũng có ai trả lời đâu. Thiên hà ngôn tai!
Xuống hàng là xuống hàng. Giống y cái ngã ba đường đời vậy đó. Tới đó là phải tan-hàng-cố-gắng. Tới đó là phải anh-đường-anh-tôi-đường-tôi. Tới đó là người-lên-ngựa-kẻ-chia-bào. Có níu có kéo có trì thì cũng có cưỡng lại được đâu. Thì còn hỏi tại sao làm chi cho thêm ngớ ngẩn. Mà có hỏi thì cũng có ai trả lời đâu. Thiên hà ngôn tai!
Tới đó thì xuống hàng vậy
đó. Mà điều có thấy không. Tự dưng nghe như thảm thiết hơn khi lời thơ bị bứt
rời ra, đứt lìa. Và hình ảnh không còn là một bức tranh tĩnh (chết) nữa mà trở
thành một hoạt cảnh (sống, động) hẳn hoi. Mà tôi cánh bướm tà dương chập chờn.
Thơ đi một hơi một mạch nghĩa là vẫn còn đó, sức sống. Sự liền lạc của chữ
nghĩa mang trong nó hình ảnh của gắn bó, của tồn tại… nghĩa là của hy vọng (dù
le lói)? Như vậy là câu thơ không chuyển được hết cái ý nghĩa của thôi-đành,
của đành-vậy, của cũng-đành, của đầu-hàng, của chịu-trận, của hết-thuốc-chữa…
nghĩa là của tuyệt vọng.
mà tôi cánh bướm tà dương
chập chờn
chập chờn
(hai chữ “chập chờn” rớt
xuống hàng dưới in hình như đôi cánh mỏi đã rụng xuống chiều nào, thấy không)
Câu thơ động đậy làm hình ảnh cánh bướm xao xác, chấp chới, như rụng, như rơi. Ý thơ được phụ diễn thêm bằng hình thơ. Tuyệt cú! Chẳng phải phương pháp audio-visuel vẫn được coi là cách thức truyền đạt hiệu quả nhất sao. Nhất ông, ông hoàng…
Ðã biểu xuống hàng thì phải xuống hàng, vậy thôi.
Câu thơ động đậy làm hình ảnh cánh bướm xao xác, chấp chới, như rụng, như rơi. Ý thơ được phụ diễn thêm bằng hình thơ. Tuyệt cú! Chẳng phải phương pháp audio-visuel vẫn được coi là cách thức truyền đạt hiệu quả nhất sao. Nhất ông, ông hoàng…
Ðã biểu xuống hàng thì phải xuống hàng, vậy thôi.
Thì
ừ!
kiếp vui cũng họa hoằn
thì đường quang quẽ đừng băn khoăn
chờ
kiếp vui cũng họa hoằn
thì đường quang quẽ đừng băn khoăn
chờ
Ờ vậy đó mà lạ lắm. Cái chữ
“chờ” bỏ hàng nhảy xuống đứng trơ trọi một mình, băn khoăn thấy rõ. Thấy không,
cái tình cảnh một-mình-đứng-giữa-khoảng-chơ-vơ, cái chữ “chờ” lơ láo đó. Dặn
đừng chờ mà thật ra biết rằng không cần dặn. Nên dặn mà rất ngại ngùng. Bởi có
gì hứa hẹn đâu, sự chênh lệch đó, mà chờ mà dặn mà không ngại ngùng khi dặn
đừng chờ. Thành ra giữa chữ “chờ” (lẽ ra) ở trên với chữ “chờ” bỏ xuống câu
dưới là một khoảng cách có thật không đo được của bao nhiêu ray rứt của bấy
nhiêu do dự của chừng ấy phân vân của rất mực tần ngần, của một thú nhận về sự
thất bại tự thân nằm trong mối hạnh ngộ bất thường. Và… thấp thoáng trong đó, không
chừng còn nguyên… một nỗi tiếc thương.
Vì vậy thơ làm sao êm xuôi
cho được khi cuộc tình đã đòi đoạn như chính cái hạnh-phúc-thiên-tai vốn đã là
yếu tính của cuộc tình trái cựa. Thơ phải trắc trở trặc trẹo cho đúng kiểu tréo
ngoe của tình yêu trễ nãi đó thôi. Cho nên có phải chính cái ngắt chữ bất ngờ
như hơi thở đứt quãng, cái nhảy câu bất tử như cơn thở dốc đứt hơi, cái hình
thức vặn vẹo như cơn mê sảng đồng thiếp mới nói được hết mức cái lạng quạng cái
băng hăng bó hó cái nhăn nhó chần chừ cái nửa đời nửa đoạn cái dở dang tức tưởi
của những toan tính muộn màng. (có nghe chăng, cái hơi thở hắt, cam đành!)
Thấy chưa, thấy cái xuống hàng lạ lắm đó chưa.
Thấy chưa, thấy cái xuống hàng lạ lắm đó chưa.
Ðêm
chườm
củi, khói
ngây ngây
nhà ai sưởi muộn
cuối ngày đông miên
bước chân đi giữa vạn miền
về nghe một chút bình yên
phập phồng
đã quen đời
gánh
mênh mông
vết thương vết nhớ
mặn nồng
vết đâm...
giả sử làm ngang viết ( đọc, coi, ngó… ) vầy được không
chườm
củi, khói
ngây ngây
nhà ai sưởi muộn
cuối ngày đông miên
bước chân đi giữa vạn miền
về nghe một chút bình yên
phập phồng
đã quen đời
gánh
mênh mông
vết thương vết nhớ
mặn nồng
vết đâm...
giả sử làm ngang viết ( đọc, coi, ngó… ) vầy được không
bước chân đi giữa vạn miền
về nghe một chút bình yên phập phồng
đã quen đời gánh mênh mông
vết thương vết nhớ mặn nồng vết đâm
về nghe một chút bình yên phập phồng
đã quen đời gánh mênh mông
vết thương vết nhớ mặn nồng vết đâm
Có thấy gì khác lạ không.
Người nghe chắc không thấy lạ. Nghe xuôi tai. Nghe thuận thảo. Nghe êm ái như
có ngón tay nghê thường nào sờ soạng lên vết cắt còn rịn máu. Nghe như có hơi
thở trầm hương nào rà sát lên lớp da non mới vừa bắt miệng. Thơ đó. Có gì lạ
đâu. Thơ y như hồi nào tới giờ. Y như cái hồi cô Kiều chảy giọt nước mắt thất
thân theo kiểu
sáu-tám-ôi-kim-lang-hỡi-kim-lang-thôi-thôi-thiếp-đã-phụ-chàng-từ-đây. Hơn nữa
muốn cho đúng điệu nhất thì phải đọc và viết rõ ràng như vầy: (hai chấm, xuống
hàng)
(thụt vô một hàng ) Ôi
Kim lang, hỡi Kim lang (xuống hàng)
(ló ra một hàng ) Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây
(ló ra một hàng ) Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây
Lục bát là phải vậy. Luật
chơi đã rành rành ra thế. Dẫu có chịu chơi cách mấy (phá thể, biến thể… gì gì
đi nữa) thì cũng phải trên dưới rõ ràng. Sáu trên tám dưới. Sáu trên tám dưới.
Sáu trên tám dưới. Cứ như vậy đó mà bốn-câu-ba-vần hay trường-thiên lưu liên
sao sao cũng được. (Ngoại trừ một ít bài ca dao có 8,10,12,14 chữ mỗi câu cũng
chỉ phá lệ cho vui mà số lượng rất ít, không đáng kể.)
Còn về nhịp thơ (tiết tấu,
ngắt câu ngắt chữ ) thì phải là nhịp chẵn (2/2/2/2 hay 2/2/4 hoặc 4/4) như để
phù hợp với cách thở hít của người ta, nhẹ nhàng, đều đặn, hòa hoãn. Vậy sao
(lại tại-sao) mà ngang ngược trồi sụt cho đến đỗi thắc thẻo thất thường như
vậy.
đã quen đời
gánh
mênh mông
vết thương vết nhớ
mặn nồng
vết đâm
gánh
mênh mông
vết thương vết nhớ
mặn nồng
vết đâm
Mà không thắc thẻo sao được
vì có phải vết nào cũng giống vết nào đâu. Cái làm nên thương nên nhớ đâu phải
cái hời hợt cạn sớt phủi rớt ngoài da. Cái làm nên thương nên nhớ phải là cái
hun hút thăm thẳm, cái trong trỏng tuyệt mù, cái người-Huế-nhớ-nhau-trọn-đời,
hết kiếp. Như vậy nếu không xuống-hàng, nếu cứ viết ngang bằng thì làm sao khỏi
lấn cấn. Thử coi. Vết thương vết nhớ mặn nồng vết đâm. Vết nào như vết nấy. Ai
mà chịu. Cái vết quan trọng nhất, đầu mối của mọi thứ dấu vết trên đời này phải
có cái chỗ riêng của nó, một mình, để thấy được cái chỗ đương hai hóa thành
một, để thấy được bỗng chốc đầu cổ tay chân gì cũng mất tiêu ráo trọi mà chỉ
còn gom lại có một chỗ duy nhất, để gọi nhau nấn níu, tượng hình mà cũng tượng
tình nhất, cái chỗ để gọi nhau “mình ơi”. Vết đâm.
vết thương vết nhớ
mặn nồng
vết đâm
(có nghe không hơi thở rướn rờn rợn vết mặn nồng!)
mặn nồng
vết đâm
(có nghe không hơi thở rướn rờn rợn vết mặn nồng!)
Tại vậy đó mà thơ cứ phải
dẫy nẩy, vùng vằng, vụt chạc vì có quá nhiều điều lấn cấn, tức tưởi, không yên.
Muốn nói cho hết, cho đủ, cho vừa thì chỉ còn cách bứt tung ra khỏi cái vòng
khuôn chặt chịa êm xuôi quen thuộc đó.
Có điều gì khó nói hay nói
mà không thể nói hết. Có điều gì phải giấu lại dù vốn muốn phơi trần. Ấm a ấm
ức. Lỡ dở. Nửa chừng. Có điều gì muốn la hét mà môi cứ ngậm câm. Hay miệng há
hốc mà tiếng cứ ứ nghẹn.
ngồi bên cửa
lọt ưu phiền
dễ chừng năm tháng
đã quên
lòng người
một vòng dang rộng xa khơi
một ôm hụt hẫng
phiên trời thâm căn
ngồi nghe thương thế lịm dần
với mốc meo nắng
với tần ngần
mưa
với mưa
với mưa
với mưa
với môi bằn bặt âm thừa khổ sai
lọt ưu phiền
dễ chừng năm tháng
đã quên
lòng người
một vòng dang rộng xa khơi
một ôm hụt hẫng
phiên trời thâm căn
ngồi nghe thương thế lịm dần
với mốc meo nắng
với tần ngần
mưa
với mưa
với mưa
với mưa
với môi bằn bặt âm thừa khổ sai
Mắt nhắm nghe thơ hẳn cũng
nói không trật rằng thì là lục bát. Mà mở mắt ngó trừng trừng thì lại ngờ ngợ
không chắc. Cái hình ảnh và nhịp điệu quen thuộc sáu tám đâu còn nữa. Ma lực
của vần điệu và cú pháp đã phù phép hồn người ra khỏi cái mặt phẳng ba chiều
tĩnh lặng để hóa thân vào cái cõi lừng lững bốn chiều. Ở đó thơ đục đá đẽo
tượng. Ở đó thơ điêu khắc trầm luân. Có lúc nào thấy được chăng cái hình người
gãy gập, ngồi bó gối, gục đầu chịu trận dưới cơn mưa xối xả của định mạng, hồn
thương phế, miệng ngậm câm đến nỗi mỗi tiếng hét bất lực chưa kịp thoát ra đã
vỗ ngược vào lồng ngực từng tràng sấm sét. Ðọc thơ, nhìn thơ mà như mường tượng
sờ được từng mảng-thơ bôi tô đắp trét. Thấy không, nỗi phiền muộn như một thứ
chất lỏng dẻo nhẹo ẩm rít chảy-ngấm-thấm-lọt vào lòng người vốn dĩ như cái
miệng phễu nên hứng không sót một giọt nào, lệ cường toan. Thấy không cái hụt
hẫng có thật, có thật đến quơ tay còn ôm được cái trống không, thật như
đuôi-mắt-chân-chim đã mỏi, thật như đường-môi-cắn-chỉ đã tưa, thật như
sợi-tóc-ráng-chiều đã tối. Thấy không, mùa nắng đã qua, em đã xa và mùa mưa
đang tới. Những giọt mưa mang hơi ẩm phủ mốc meo lên tấm lòng cổ độ. Và tình
chúng ta, tình chúng ta còn lại gì ngoài một nắm di hài.
ngồi bên lệ cổ di hài
dễ chừng năm tháng
đã dài
thiên thu
ngồi vàng vọt
bóng trăng
lu
với riêng ngồi lại
ao tù
thiết thân
dễ chừng năm tháng
đã dài
thiên thu
ngồi vàng vọt
bóng trăng
lu
với riêng ngồi lại
ao tù
thiết thân
Thử chép lại bài thơ theo
cái khuôn khổ ngay ngắn, nghiêm chỉnh, cân xứng như vốn dĩ đã ngàn năm coi còn
có cái tác dụng huyễn hoặc đó chăng ?
Câu thơ lục bát tự thân rất
xuôi chèo mát mái, vần điệu thảo ngay, dịu dàng, dễ chịu. Vừa có yêu vận vừa có
cước vận làm bài thơ có quá hai câu trở lên nối nhau khít rim, chặt chịa, liền
lạc như một tràng chuỗi hột hiền lành mà vị trí và vai trò của từng hột chuỗi
được phân bổ đồng đều tạo nên một thế quân bình hoàn chỉnh. Nhìn như vậy, lục
bát chính là thể thơ biểu hiện rõ nhất cho cái thế thăng bằng tuyệt diệu trong
lòng người Việt, bài học khôn ngoan nhất của cuộc trường chinh cam go dành đất
sống với hai thế lực đối nghịch thường xuyên, thiên nhiên và ngoại xâm. Sự hòa
điệu giữa người và người cũng như giữa người và thiên nhiên đã phản ảnh trong
cái nhịp hài hòa, thuận thảo, êm ái, tự tại… của những câu lục bát ngay từ thời
còn là ca dao bay lượn trên sông nước ruộng đồng. Vì vậy, nếu có tìm đọc lại
ngàn bài lục bát cũng vẫn y cái giọng điệu và nhịp tiết đều đặn, hiền lành,
ngọt ngào… như ru như dỗ. Dỗ người vì chính lòng mình đã được dỗ yên.
Ngay cả đến thời gần đây,
lục bát vẫn còn nguyên cái thế thăng bằng dễ thương đó. Nhìn một bài thơ lục
bát của Nguyễn Bính được chép tay bằng mực tím y như ngó một cô con gái nhà
lành, thùy mị, phía trước phía sau tề chỉnh, cái gì cũng vừa vừa phải phải, như
chính cái đòi hỏi chừng mực của một thời kỳ mực thước.
Nhưng mà có còn nữa đâu,
cái thời vừa-vừa-phải-phải đó.
Những khám phá mới của khoa
học và triết học giữa hai thời hủy diệt lớn đã làm thay đổi hẳn lối sống và nếp
suy nghĩ của con người. Ðã có người kêu lên thượng đế đã chết. Không biết ông
ta có chết thật không chớ con người thì quả tình ngất ngư đến mất thở. Khoa học
tăng hiệu năng tàn phá theo cấp số nhân, triết lý cứu rỗi con người theo cấp số
cộng, chiến tranh làm mọc lên những thành phố lở lói nhanh hơn cây xanh, máy
móc tăng vọt tốc độ của đời sống lẹ hơn suy nghĩ và đô thị vây khốn con người
trong những giấc mộng cụt đầu cụt đuôi. Chung cư khóa trái cửa kín mít, ngã tư
ngã năm ngã sáu ngã bảy, đèn xanh đỏ chớp tắt chớp tắt, chiếc đinh ốc của
Charlot, con chó điều-kiện-hóa của Pavlov, miệng đại vực mở toác hoác ngay giữa
con phố triệu người, miệng đại vực mở tanh banh ngay giữa lồng ngực ám khói,
mặt trời rồ dại, mặt trăng thất tiết… Và con người, con người thành kẻ thất lạc
chính mình.
mỗi lần đi
một hỏi đường
tôi chậm lụt giữa nộ cuồng thế gian
giữa trăm khốc liệt giăng hàng
tìm đâu
tôi?
ở ngổn ngang sự tình
một hỏi đường
tôi chậm lụt giữa nộ cuồng thế gian
giữa trăm khốc liệt giăng hàng
tìm đâu
tôi?
ở ngổn ngang sự tình
Không phải tự nhiên mà lục
bát đèo bồng làm mặt lạ. Tại đã tới lúc người ta lạ mặt với chính mình và với
cả thế giới chung quanh. Thiên nhiên không còn là cõi trú ẩn bao dung và tha
nhân thì trở thành địa ngục. Con người tới và đi như khách lạ ngang qua cuộc
đời tựa quán trọ buồn hiu. Cõi nhân gian rốt lại chỉ là một cõi giả hình và
cuộc sống nếu có thật chỉ gom lại trong từng khoảnh khắc. Chân lý thay đổi như
trò mạo hóa. Mọi đối cực của cuộc đời là trò chơi của chữ nghĩa và sự chọn lựa
về một phía nhất định chỉ là thái độ ngụy tín nhất của con người. Ðầu-đuôi,
trên-dưới, ngược-xuôi, trong-ngoài, tốt-xấu rồi ra cũng chỉ là những khái niệm
hết sức tương đối, hình học không gian đã phá vỡ định đề Euclide, ở bên ngoài
trái đất trên tuốt mấy tầng mây mọi thứ đã lộn nhào, và sau cuộc đổi đời năm
ấy, những nấc thang giá trị cũng lộn tùng phèo trong lòng ta. Còn lại gì không,
có còn lại gì không trong lòng ta, thế quân bình huyền thoại.
mỏng manh
là sợi tơ tằm
hoang mang là tiếng thơ
thầm gọi tên
là trăm con chữ tật nguyền
là sợi tơ tằm
hoang mang là tiếng thơ
thầm gọi tên
là trăm con chữ tật nguyền
Là trăm con chữ tật nguyền?
Ờ chữ nghĩa đã tật nguyền nên chỉ đưa đến ngộ nhận và bế tắc.
Ðến một lúc tất cả trở nên
nhòe nhoẹt, lờ mờ, nhập nhằng, lợn cợn… đường ranh biện biệt đã mỏng hơn sợi tơ
tằm thì còn chỗ nào để phân biệt phải-trái, đúng-sai, vui-buồn, mê-tỉnh… Ðã
không rõ ràng thì chỗ nào là chỗ phải dừng. Mà dừng lại có chắc đã đúng chưa
khi hạnh phúc chỉ là mặt này của đau khổ mặt kia, khi tiếng cười có khi chỉ là
ngụy trang của tiếng khóc, khi yêu đương chỉ là mầm mống của tan vỡ, và mộng mị
chính là khởi đầu cho một cuộc tự sát dịu dàng. Vậy thì có cần phải đi ngay về
thẳng, đường đi có còn chỗ tới khi chỗ về đã bít đường lui. Sao không lung lăng
khi chính lòng ta khệnh khạng, bối rối, mù mờ trước những đối cực bất phân. Sao
không xiên xẹo khi chính lòng ta còn không ngay ngắn, nữa là.
chao ơi
thiệt tội đêm dài
nghiến sâu thân thế
lạc loài thể thân
chừ
trùm cái bóng phân vân
về mô cũng đụng chút gần
thịt xương
……………..
ta về
nhang khói lắt lay
thôi âm hồn nọ
vẫn ngày dương gian
………………
ta về
như gợn gió âm
ở lâu vết buốt
ngực trầm tích kia
giọt mưa giọt lệ đầm đìa
thất phu
nhoè buổi ta về
trắng
không
thiệt tội đêm dài
nghiến sâu thân thế
lạc loài thể thân
chừ
trùm cái bóng phân vân
về mô cũng đụng chút gần
thịt xương
……………..
ta về
nhang khói lắt lay
thôi âm hồn nọ
vẫn ngày dương gian
………………
ta về
như gợn gió âm
ở lâu vết buốt
ngực trầm tích kia
giọt mưa giọt lệ đầm đìa
thất phu
nhoè buổi ta về
trắng
không
Nghe không em, thơ như cái
hơi thở rướn từ một vết thương chí tử, vói, níu, bắt tràm qua cuộc sống, như
cái hơi thở hắt từ một trái tim đã mỏi nấn nuối qua bờ cõi tử sinh. Những câu
những chữ rơi, rụng bất ngờ như chính những bày-đặt-rất-tình-cờ của định mạng.
Ðọc lại trên môi, đọc lại trong mắt để thấy rõ ràng cái chúng ta không thấy
được, bộ mặt thật của cõi người, phân vân, lay lắt, lộn xộn, lu bu, rối bù… Thơ
như một cố gắng vớt vát để định hình cái không có hình dáng nhất định, cuộc
đời, tình yêu, hạnh phúc, đau khổ, niềm vui, tiếng khóc, câu cười… đã không còn
là cái như ta đã tưởng, đã thay đổi rồi khi chính lòng ta đã lụy, từ khi…
Bởi vậy, đâu phải khi không
lục bát bỏ hàng rẽ lối, chệnh choạng, khấp khểnh. Bởi chính lòng người đã
thương tật nên vóc hình cũng khấp khểnh, chệnh choạng, bỏ lối rẽ hàng đó thôi.
Mà hổng chừng phải vậy lục bát mới tận tụy được cùng ta, cuộc trầm luân đó.
Mà hổng chừng phải vậy lục bát mới tận tụy được cùng ta, cuộc trầm luân đó.
Từ khi Picasso chẻ hình
người ra làm trăm mảnh vụn thì bộ mặt nhân gian cũng đâu còn lành lặn nữa. Hoặc
chỉ lành lặn theo cái mỹ cảm mới. Mỹ cảm của chất nổ banh da xé thịt, của lò
thiêu người, của ám sát chính trị, của họa diệt chủng… Lần này, với Hoàng Xuân
Sơn cái trật tự lành lặn cũ cũng phải bị phá đổ đi để lập lại một trật tự mới,
trật tự của cuộc điêu tàn mới. Lục bát bị xé ra từng mảnh rồi ráp lại theo cái
nhìn vỡ vụn của con mắt điêu linh. Chỏng ngược đầu xuống đất, mọi sự có dị
thường hơn khi đứng hai chân trên mặt trần gian này mà làm thơ ? Thơ lộn lạo
như cõi hồng trần tất tả, thơ hổn hển khi con tim đập sái nhịp nhân gian, mệt đừ
tiễn cung . vút
một đuôi mày
hỡi ơi tình lụy
ngón tay
trễ tràng
một đuôi mày
hỡi ơi tình lụy
ngón tay
trễ tràng
Từ cái vị trí lỏng chỏng
của cuộc sống bất an, của cái tâm bất định, của cái tình bất khả, thơ là đường
bay lêu lỏng của con tim bất trắc trong một thế giới bất ổn. Như vậy có gì bất
thường đâu khi lục bát vặn vẹo, co rúm hay luông tuồng suồng sã … chẳng qua như
cái hơi thở của mình, những khi… đời dở chứng.
… khi đó, con tim nhỏ xíu
đập, chòi như đuôi cá mắc cạn
… khi đó, cổ thắt nghẽn như cái cần đàn bẻ quặp lại sợi trúc ti
… khi đó, cổ thắt nghẽn như cái cần đàn bẻ quặp lại sợi trúc ti
lệ từ trích một nét ngang
nguyền thân đuối . lả
quy hàng mỵ nương
nguyền thân đuối . lả
quy hàng mỵ nương
Khi đó, lục bát là hơi thở
rướn níu ta lại với cuộc đời.
CAO VỊ KHANH
No comments:
Post a Comment