Nguyễn
Lương Vỵ giới thiệu và dịch
Trần Thái Tông (09.07.1218 - 05.05.1277), là vị vua đầu tiên
của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ngài làm vua từ năm 1225 đến năm 1258, sau đó lên làm Thái thượng hoàng cho đến khi qua đời.
Năm
1258, vua Trần Thái Tông trực tiếp lãnh đạo và đánh thắng quân xâm lược nhà
Nguyên lần thứ I. Ngài còn là một thiền sư lỗi lạc, đã để lại cho đời sau những
tác phẩm rất giá trị: Khóa Hư Lục, Thiền Tông Chỉ Nam, Chú Giải
Kinh Kim Cương Tam Muội và Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi.
Ngài
còn được xem là người có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành Thiền phái Trúc Lâm sau nầy, do Điều Ngự Giác
Hoàng Trần Nhân Tông (cháu nội của vua Trần Thái Tông) là vị tổ thứ Nhất vào cuối
thế kỷ 13.
Trong
sách Khóa Hư Lục, Trần Thái Tông có
viết 5 bài thi kệ, gọi chung là "Kệ Bốn Núi", gồm 1 bài thi kệ mở đầu,
viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt và 4 bài thi kệ thất ngôn bát cú, nói về 4 chủ
đề Sinh, Lão, Bệnh, Tử, có ý nghĩa và
tư tưởng rất thâm diệu về Phật pháp.
"Kệ Bốn
Núi"
là y cứ trong kinh Tạp A Hàm (Hán tạng, bài 1147) và kinh Tương Ưng Bộ (Pali tạng,
Samyutta Nikāya, bài 136 - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch). Nội dung
trong 2 bản kinh nầy đều có nói về "Bốn
Núi" (Sinh, Lão, Bệnh, Tử). Ngài Trần Thái Tông có ý viết những bài
thi kệ này nhằm diễn giải ý nghĩa cho tăng chúng và Phật tử dễ hiểu.
Sự
tích về "Bốn Núi" trong
kinh có ghi, đại ý: "Một hôm vua Ba-tư-nặc đi chinh phạt loạn quân ngoài
biên giới. Khi đánh thắng xong quân giặc, Vua kéo quân về đến gần tịnh xá của đức
Phật, dừng quân lại và đích thân đến đảnh lễ Phật. Đức Phật hỏi: Đại vương đi đâu về mà xem có vẻ nhọc nhằn?
Vua bạch rằng: Con đi chinh phạt bọn ngoại
xâm, vừa chiến thắng trở về. Khi trả lời với đức Phật, nét mặt vua Ba-tư-nặc
hiện ra kiêu khí của người thắng trận. Đức Phật hỏi: Này Đại vương, nếu có người ở phương Đông đến thưa thế này: Tôi thấy một
ngọn núi từ phương Đông lăn về đây, lăn đến đâu nghiền nát cỏ cây người vật ở
đó. Lại có một người phương Nam tới cũng tâu: Đại vương có một ngọn núi ở
phương Nam đang lăn về đây, lăn đến đâu nó đều nghiền nát cây cỏ người vật.
Cũng như vậy, phương Tây, phương Bắc, mỗi phương cũng có một ngọn núi đang lăn
về, lăn đến đâu cây cỏ người vật đều bị nghiền nát. Nếu có người báo bốn ngọn
núi đang lăn về, tàn sát cây cỏ, người và vật thì Đại vương sẽ cử đội quân nào
để đi chinh phạt chúng? Vua Ba-tư-nặc thưa với đức Phật: Dầu đội quân có tài trăm trận trăm thắng đi
nữa cũng không thể nào chinh phục được bốn núi đó. Đức Phật bảo: Bốn núi đó là Sanh, Già, Bệnh, Chết. Dầu cho
ai tài giỏi đến đâu, dũng mãnh đến đâu cũng không thắng được, không chinh phục
được Sanh, Già, Bệnh, Chết mà đều bị chúng nghiền nát. Nghe như thế, kiêu
khí của nhà vua không còn nữa."
Sách
Khóa Hư Lục Giảng Giải của Hòa thượng
Thích Thanh Từ (NXB Thường Chiếu, Phật lịch 2540, Dương lịch 1996) cũng có phần
dịch và bình giảng "Kệ Bốn Núi"
của ngài rất sâu sắc. Kính mời bạn đọc tham khảo thêm trên trang mạng thuvienhoasen.org.
1.
四山偈
四山峭壁萬青叢
悟了都無萬物空
喜得驢兒三腳在
驀騎打趁上高峰
悟了都無萬物空
喜得驢兒三腳在
驀騎打趁上高峰
Phiên âm:
TỨ
SƠN KỆ
Tứ
sơn tiễu bích vạn thanh tòng
Ngộ liễu đô vô vạn vật không
Hỉ đắc lư nhi tam cước tại
Mạch kị đả sấn thướng cao phong.
Ngộ liễu đô vô vạn vật không
Hỉ đắc lư nhi tam cước tại
Mạch kị đả sấn thướng cao phong.
Dịch thơ:
BÀI
KỆ BỐN NÚI
Bốn
núi cao, xanh ngắt vạn tùng
Tuệ
giác soi, tất thảy đều Không
Nếu
vui, hãy cưỡi lừa ba cẳng
Lên
đỉnh núi cao cho thỏa lòng?
真宰薰陶萬象成
本來非兆又非萌
只差有念忘無念
卻背無生受有生
鼻著諸香舌貪味
眼肓眾色耳聞聲
永為浪蕩風塵客
日遠家鄉萬里程
本來非兆又非萌
只差有念忘無念
卻背無生受有生
鼻著諸香舌貪味
眼肓眾色耳聞聲
永為浪蕩風塵客
日遠家鄉萬里程
Phiên âm:
Chân
tể huân đào vạn tượng thành
Bản lai phi triệu hựu phi manh
Chỉ sai hữu niệm vong vô niệm
Khước bội vô sinh thọ hữu sinh
Tị trước chư hương thiệt tham vị
Nhãn manh chúng sắc nhĩ văn thanh
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách
Nhật viễn gia hương vạn lí trình
Bản lai phi triệu hựu phi manh
Chỉ sai hữu niệm vong vô niệm
Khước bội vô sinh thọ hữu sinh
Tị trước chư hương thiệt tham vị
Nhãn manh chúng sắc nhĩ văn thanh
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách
Nhật viễn gia hương vạn lí trình
Dịch thơ:
BÀI NÚI SỐ 1 (Sinh)
Đất trời kết tập, pháp sinh thành
Trước nay không mối cũng không manh
Sai lầm hữu niệm quên vô niệm
Chối bỏ vô sanh nhận hữu sanh
Mũi lưỡi mê tham hương với vị
Mắt tai ái dục sắc và thanh
Lãng đãng phong trần thân đất khách
Xa quê ngày tháng mãi lênh đênh.
人生在世若浮漚
壽夭因天莫妄求
景逼桑榆將向晚
身如蒲柳暫經秋
青雕昔日潘郎鬢
白遍當年呂望頭
世事滔滔渾不顧
夕陽西去水東流
壽夭因天莫妄求
景逼桑榆將向晚
身如蒲柳暫經秋
青雕昔日潘郎鬢
白遍當年呂望頭
世事滔滔渾不顧
夕陽西去水東流
Phiên âm:
NHỊ
SƠN (Lão)
Nhân
sinh tại thế nhược phù âu
Thọ yểu nhân thiên mạc vọng cầu
Cảnh bức tang du tương hướng vãn
Thân như bồ liễu tạm kinh thu
Thanh điêu tích nhật Phan Lang mấn
Bạch biến đương niên Lã Vọng đầu
Thế sự thao thao hồn bất cố
Tịch dương Tây khứ thủy Đông lưu
Thọ yểu nhân thiên mạc vọng cầu
Cảnh bức tang du tương hướng vãn
Thân như bồ liễu tạm kinh thu
Thanh điêu tích nhật Phan Lang mấn
Bạch biến đương niên Lã Vọng đầu
Thế sự thao thao hồn bất cố
Tịch dương Tây khứ thủy Đông lưu
Dịch thơ:
BÀI
NÚI THỨ HAI (Già)
Kiếp
người như bọt nước phù du
Thọ
yểu đừng mong ở vọng cầu
Cành
dâu im bóng chiều phai nhạt
Nhánh
liễu đìu hiu thu úa màu
Phan
Lang thuở ấy còn trai trẻ
Lã
Vọng giờ đây đã bạc đầu
Chuyện
đời thôi nhắc, trời Tây đã
Ác
lặn, triều Đông nước chảy mau.
陰陽愆德本相因
變作災屯及世人
大抵有身方有病
若還無病亦無身
靈丹謾詫長生術
良藥難令不死春
早願遠離魔境界
回心向道養天真
變作災屯及世人
大抵有身方有病
若還無病亦無身
靈丹謾詫長生術
良藥難令不死春
早願遠離魔境界
回心向道養天真
Phiên âm:
TAM
SƠN (Bệnh)
Âm
dương khiên đức bản tương nhân
Biến tác tai truân cập thế nhân
Đại để hữu thân phương hữu bệnh
Nhược hoàn vô bệnh diệc vô thân
Linh đan mạn sá trường sinh thuật
Lương dược nan linh bất tử xuân
Tảo nguyện viễn li ma cảnh giới
Hồi tâm hướng đạo dưỡng thiên chân
Biến tác tai truân cập thế nhân
Đại để hữu thân phương hữu bệnh
Nhược hoàn vô bệnh diệc vô thân
Linh đan mạn sá trường sinh thuật
Lương dược nan linh bất tử xuân
Tảo nguyện viễn li ma cảnh giới
Hồi tâm hướng đạo dưỡng thiên chân
Dịch thơ:
BÀI
NÚI THỨ BA (Bệnh)
Âm dương không hợp lẽ với người
Tai
họa gây ra phải vậy thôi
Có
thân có bệnh, đương nhiên thế
Không
thân không bệnh, tất nhiên rồi
Sống
lâu sống mãi, u mê hết
Thuốc
tiên thuốc thánh, phỉnh lừa chơi
Hãy
sớm lìa xa ma cảnh đó
Quay
về chánh đạo thoát luân hồi.
擺蕩狂風括地生
魚翁醉裡釣舟橫
四垂雲合陰霾色
一派波翻鼓動聲
雨腳陣催飄歷歷
雷車輪轉怒轟轟
暫時塵斂天邊淨
月落長江夜幾更
魚翁醉裡釣舟橫
四垂雲合陰霾色
一派波翻鼓動聲
雨腳陣催飄歷歷
雷車輪轉怒轟轟
暫時塵斂天邊淨
月落長江夜幾更
Phiên âm:
TỨ
SƠN (Tử)
Bãi
đãng cuồng phong quát địa sinh
Ngư ông túy lí điếu chu hoành
Tứ thùy vân hiệp âm mai sắc
Nhất phái ba phiên cổ động thanh
Vũ cước trận thôi phiêu lịch lịch
Lôi xa luân chuyển nộ oanh oanh
Tạm thời trần liễm thiên biên tịnh
Nguyệt lạc trường giang dạ kỉ canh
Ngư ông túy lí điếu chu hoành
Tứ thùy vân hiệp âm mai sắc
Nhất phái ba phiên cổ động thanh
Vũ cước trận thôi phiêu lịch lịch
Lôi xa luân chuyển nộ oanh oanh
Tạm thời trần liễm thiên biên tịnh
Nguyệt lạc trường giang dạ kỉ canh
Dịch thơ:
BÀI
NÚI THỨ TƯ (Chết)
Một
trận cuồng phong quét đó đây
Ngư
ông say khước mặc thuyền xoay
Bốn
phương u ám, mây vần vũ
Một
cõi xô bồ, sóng bủa vây
Giăng
giăng mưa trút từng cơn giục
Ầm
ầm sấm nổ nhịp xe quay
Phút
giây quang tạnh, trời tan bụi
Sông
dài đêm lặng, ánh trăng đầy.
NLV
No comments:
Post a Comment