Nguyễn
Đức Tùng
Hoàng
Hưng & Nguyễn Đức Tùng
Minh họa
một bài thơ Hoàng Hưng
Hoàng
Hưng là người của mơ mộng và tỉnh thức.
Trong
cùng một bài thơ, anh có thể đi xuyên qua cả hai thứ ấy.
Tất cả nước mắt loài
người bao vây nhà ta
Nằm bên anh em kể câu
chuyện buồn
Chôn sâu trong lòng
giờ mới nói ra
Gợi ý của trận mưa
chưa từng thấy
Đã một nghìn đêm mưa
trắng đêm
Điên cuồng nhớ mùi
anh như con bò cái nhớ mùi phân rác
Anh đánh mất mùi anh
trên những sàn đá lạ
Lịch
sử phải trả giá bao nhiêu cho một bài thơ nhân chứng?
Quá
nhiều. Những tổn thương. Lầm đường. Cái chết. Sự làm chứng dối. Tính lao nhao bầy
đàn từ nhiều phía. Hư vô. Sự giả dối của văn học. Sự đầu hàng.
Khả
năng làm chứng vốn thuộc về thơ tự sự và trường ca cổ điển. Ngày nay thơ trữ
tình phát triển, dần thay thế các thể loại vừa nói. Nhưng đối tượng của thơ trữ
tình là đời sống nội tâm, vì vậy vai trò nhân chứng trở thành nỗi phân vân của
tác giả. Thơ trữ tình ghi lại lịch sử một cá nhân, các chấn thương mà bạo lực,
chiến tranh, tù đầy mang đến cho họ như những nạn nhân. Nhiều người không biết
rằng nếu văn học có thể xuất hiện như chứng cớ thì nó cũng có khả năng bôi xóa
lịch sử, thay đổi diện mạo quá khứ, nói dối về một xã hội trong chiến tranh hay
hòa bình.
Đứa giết người mắt trắng
dã
Ca một khúc vọng cổ
não nề
Lão làm thuốc tây giả
Run run nhặt từng hạt
cơm thiu
Thằng nhóc “cắt bom”
ga Hàng Cỏ
Sằng sặc bóp cổ tên
hiếp trẻ con
Ba thằng buôn cơm đen
Ngồi nhìn ông cựu bí
thư nhảy múa
Dù
mô tả trực tiếp những con người có thể có thật ngoài đời, bài thơ bao giờ cũng
là phép ẩn dụ, được sắp xếp sao cho không có một sắp xếp thứ hai nào có thể
mang lại cùng ý nghĩa. Đọc bài thơ, không phải chúng ta chỉ được sống kinh nghiệm
của nhân vật kể chuyện. Chúng ta trở thành nhân vật ấy. Mục đích của tưởng tượng
sáng tạo là giúp người đọc nhận ra những khả năng khác nhau của tồn tại, chuỗi
nhân quả, khả năng sống sót, chiều sâu của ý nghĩa. Trong một thời kỳ hỗn mang
như hôm nay, lòng tin là chỗ dựa cuối cùng của người viết. Lòng tin ấy có thể bị
thách thức.
Đồng cói đầy trăng em
ơi
đồng cói
Nhưng em đã bay đi
như cánh vạc
Để rợn vàng đồng cói
trăng rơi
Thơ
ca yêu mến những điều không thể hiểu được. Ngôn ngữ thơ lắng nghe tiếng nói của
chính nó và lắng nghe thế giới xung quanh. Mặc dù hầu như lúc nào cũng xoay
quanh một ý tưởng, bài thơ của Hoàng Hưng không phải là sự chống lại cảm quan.
Người đọc có thể tìm thấy ở đó hoàn cảnh thực, sự thất vọng, sự nghèo nàn của một
xã hội thiếu tự do, hay sự giàu có của cuộc đời giữa ánh sáng của tình yêu, sự
va chạm, mùi vị, tiếng động. Và bạn tin tưởng vào anh, hay vào nhân vật của
anh. Tham gia nhiều hoạt động xã hội, Hoàng Hưng vẫn giữ cho thơ mình một khoảng
cách. Như một nhà thơ đương đại, anh được gọi tới bởi chính cuộc đời, kẻ bị ruồng
bỏ, bên lề, những lịch sử bị vùi lấp, sự im lặng của bất công, kẻ bị thương tổn.
Vì thế, tất cả ký ức của anh, không chỉ dừng lại trong ngày tù tội, mà trước và
sau đó, đặc biệt sau đó, liên đới với kinh nghiệm của người khác, làm cho kinh
nghiệm cá nhân trở thành kinh nghiệm văn hóa.
Bãi dài ngập nắng em
ơi
bãi nắng
Nhưng thịt da em ráng
chiều vụt tắt
Cát không màu khép dưới
bàn chân.
Triều dâng sóng trắng
em ơi
sóng nở
Nhưng đến trước ngực
ta sóng vỡ
Bọt tan sôi réo lòng
chiều
Lưới thu đóng bạc
mình thu em ơi
Mắt em nhìn ta qua lưới
thưa
Xa lạ như là con mắt
cá
Sắp quẫy vào lòng biển
sâu
Âm
điệu tạo nên bài hát. Sự im lặng tạo nên bài thơ trữ tình.
Hoàng
Hưng cố gắng chống lại thói sáo cũ, quy ước. Cố gắng ấy chỉ trở thành thực tế bằng
chính thử nghiệm bạo liệt về ngôn ngữ, điều mà anh hướng tới một cách ý thức,
nhưng tất nhiên không phải khi nào anh cũng nắm giữ. Tôi tin rằng những nhà thơ
sống trong hoàn cảnh nhiễu nhương, tù đầy, đều phân vân giữa hai ngả đường: ghi
lại các sự kiện, bày tỏ tình yêu và phẫn nộ như thông điệp, và một bên là theo
đuổi giấc mơ sáng tạo riêng, đặc trưng cho các tài năng, không mấy ai hiểu. Câu
chuyện thay đổi, thời đại thay đổi, người làm chứng sẽ chết. Hoặc bị bắn từ
phía sau trên đường về nhà. Hoặc chết già trong nhà dưỡng lão. Bạn chỉ còn lại
lời kể, ngày xưa, nơi xa lạ. Và bạn bắt đầu nhớ lại tên người, địa danh, cơn
đói, sự hoảng sợ, nhục nhã, căm hận. Khi cố gắng của bạn không thành công, chuyện
kể đứt đoạn, bài thơ dang dở, người ngồi nghe tản mát, nghi ngờ. Những kẻ nghi
ngờ sẵn sàng tin theo tất cả cám giỗ khác, mê tín khác, tuân lệnh những dối trá
khác: sự ngu ngốc xuất hiện từ cả hai ba phía, khi văn học đánh mất khả năng bảo
vệ con người. Nhưng nghệ sĩ là người sáng tạo trong những hoàn cảnh như vậy,
khó khăn nghiệt ngã.
Đêm xuống rồi
Ta lẻn
Đi tìm mặt mình
Đi tìm mặt mình đi
tìm mặt mình đi tìm mặt mình
Em mặt trẻ thơ mình
thiếu phụ
Em cử động giữa tiếng
va cốc thìa
Cà phê và sữa.
Công viên chiều đẹp
quá và lịch sự đến thành xa lạ
Tường vi nở mưa trên
gạch đỏ
Mặt họ no đủ quá
Họ vui dễ thế kia
(Người
đi tìm mặt)
Xét
về cấu trúc, thơ Hoàng Hưng là thơ mô tả. Trong một bài thơ của anh ít có tâm
tình, bày tỏ, biểu hiện. Nhân vật tôi dù xuất hiện một cách rõ ràng, ít khi là
người phát ngôn trực tiếp. Nhà thơ mô tả hoàn cảnh, diễn tiến câu chuyện, thỉnh
thoảng mới xen vào những ý kiến riêng, thậm chí cũng không phải là những ý kiến
mà chỉ là những kinh nghiệm riêng.
Giật mình một cái vỗ
vai
Bài
thơ của anh thường xoay vòng lại ở những câu kết, và mở ra, như trong cấu trúc
vòng xoắn, tầm hiểu biết cao hơn hoặc nhận thức thẩm mỹ sâu hơn. Cấu trúc kiểu
mô tả trong thơ Hoàng Hưng còn được phối hợp với cấu trúc kiểu suy tư. Dựa vào
những kinh nghiệm cụ thể của đời sống cá nhân, những ký ức đôi khi sắc bén đôi
khi rời rạc, khả năng tưởng tượng dồi dào, niềm vui thú đối với ngôn ngữ, anh
có khả năng triển khai nhiều đề tài, trong một bài thơ có kích thước vừa phải.
Trong khi đó ở những bài thơ ngắn hơn, sự kết hợp hai thức điệu mô tả và suy tư
có phần thiếu nhịp nhàng. Thơ anh không ngừng nhắc chúng ta về tha hóa của ngôn
ngữ, sự nô lệ của trí thức và mặt khác, sự vô trách nhiệm hóa của nghệ thuật.
Vì ngôn ngữ là chìa khóa của một nền văn hóa, đọc thơ đương đại là tìm đến cánh
cửa mở vào xã hội đương thời, hạnh phúc và bi kịch của nó, sự tường minh và sự
bơ vơ của nó,
Mặt tôi trong gió cuốn
Mặt tôi trong nắng đốt
Mặt tôi trong lá ngón
Mặt tôi còi vọng cô
liêu
Mặt tôi bàn tay ôm ấp
Mặt tôi đá núi im lìm
Sự
lập lại, thủ pháp trùng điệp, tất nhiên thường được dùng trong thơ, thực ra là
biểu hiện của chuyển hóa nội tâm của nhân vật. Bài thơ anh viết những năm bảy
mươi thế kỷ trước. Trong trường hợp này, thơ gần như tiên tri, mặc dù không phải
đức tin tôn giáo. Nhưng niềm cảm hứng cho thơ Hoàng Hưng thường là sự kiện có
tính xúc động, những hoàn cảnh đặc biệt, bi phẫn, xã hội hoặc cá nhân. Phản ứng
đối với các sự kiện: ưu điểm và khuyết điểm của thơ Hoàng Hưng sẽ tập trung ở
đó. Lúc ở Mỹ, trong ồn ào, anh nghe được tiếng nói an bình, khi ở trong nước,
trong im lặng, anh nghe tiếng gào thét phẫn nộ, sự trỗi dậy của tương lai. Sự gắn
bó của Hoàng Hưng đối với thế giới này là mạnh mẽ, và không thay đổi. Những bài
thơ thành công nhất của anh, khi đã xuất hiện tựa như những bức ảnh ghi lại thất
bại và chiến thắng của cái đẹp. Nhiều bài thơ như được viết trong tâm trí,
không phải trên giấy, xuất hiện như những sản phẩm của giấc mơ.
Kiếp tha hương nửa đời
vật lộn
Sống chỉ còn như một
thói quen
Trời phương Nam đêm
nay sao rét Bắc
Cho ta thèm một ly
đen
Rủ rê ta những giọt
mưa đêm
Nhưng xe máy lang
thang thì thua xe đạp
Ta năm mười rồi đâu thể
cùng em...
Dạo ấy ba mươi ta là
thi sĩ
Bây giờ thèm khát một
câu thơ
Khi đời sống làm mình
hoá đá
Bỗng rùng mình vì một
hạt mưa
(Mưa
đêm)
Ngôn
ngữ không chỉ là phương tiện truyền tải kinh nghiệm, nó chính là kinh nghiệm.
Có hai khuynh hướng trong thơ đương đại: bài thơ đầy những sự vật và bài thơ đầy
những ngôn ngữ. Khuynh hướng thứ nhất, thơ chứa nhiều hình ảnh, cảm giác, rung
động đơn lẻ, khuynh hướng thứ hai giàu chất suy tưởng, ít những gợi ý rõ ràng về
không gian, tính chất hiện thực suy giảm. Thời kỳ đầu, Hoàng Hưng thuộc khuynh
hướng thứ nhất, càng về sau anh càng có khuynh hướng thứ hai, mặc dù, sự chuyển
động này không đều đặn, chứng tỏ có thể người viết không tự ý thức về điều ấy.
Không phải là một nhà thơ siêu thực, Hoàng Hưng có những hình ảnh vượt ra ngoài
ranh giới của cảm quan thông thường, chúng như là kết quả của hội tụ giữa tưởng
tượng và chuyển hóa - thăng hoa. Thơ anh là sự thăm dò các bi kịch, hành hạ, bạo
động, tình yêu, tha thứ. Và sự làm mới lại đời sống hôm nay.
Em bỗng chín đỏ như
trái cây chạm mặt trời
mùa hạ
Trái cây hoang dã
Vùng biển nâu
En chín đỏ
Mà sao không hái được
Rồi em sẽ rụng nằm
trong cát
Bỏng rẫy mặt trời
hoang
Bài
thơ là sự tập trung trong bối cảnh của rời rạc, hỗn loạn, mông muội. Thể là cấu
trúc. Hoàng Hưng nhiều năm sống gần biển, nên hay nhắc đến biển, sóng, cát, mặt
trời. Đó là vật liệu của anh. Nhưng biển là tự do, sóng là hoang dại, cát là vỗ
về nguôi ngoai. Ca tụng cái hàng ngày, cái không hoàn hảo, sự kết thúc một bài
thơ không có kết luận không phải là truyền thống của nhiều nhà thơ Việt nam.
Hình như càng về sau trong Hoàng Hưng càng xuất hiện khuynh hướng thẩm mỹ ở đó
cái đẹp không phải là sự hoàn thiện mà là sự khiêm tốn, giản dị, mất cân bằng,
sự tạm thời. Ở đó, sự vô thường. Những mảnh vỡ, kẽ nứt, sự khiếm khuyết của con
người và tạo vật. Sự nhầm lẫn. Nhầm lẫn của tạo hóa và của tình yêu. Anh có những
hình ảnh thoạt nhìn khá quen thuộc, gần sáo cũ, nhưng chúng đột nhiên sáng lên,
gần như mới lạ. Cái mới lạ ấy trước hết là từ cảm xúc chân thực. Cảm xúc được
nhào nặn nhiều lần, thể nghiệm nhiều lần bởi một cá nhân, mở đường cho các ý tưởng
mới, nhiều người gọi là tứ thơ.
Thạch sùng tặc lưỡi
trên cao
Phòng giam lạnh lẽo
chìm vào cõi đêm
Nhà ta giờ đã lên đèn
Bữa cơm giờ chắc đã
quen thiếu người
Tôi
nghĩ đến một số bài thơ trong dòng thơ vụt hiện, chính là giây phút được nén lại.
Kết quả là, một thứ thơ vừa được chuẩn bị kỹ, vừa ngẫu hứng, vừa phóng đại, vừa
thanh bạch. Tính chất hàng ngày được soi rõ trong thơ anh, ở đó sự đơn giản và
phức tạp gặp gỡ nhau, nhịp điệu không phải của ngôn ngữ mà của tâm trí. Tôi
không biết anh làm thơ dễ hay khó, nhưng hầu hết các câu thơ viết gọn ghẽ, ý tứ,
cân nhắc, khá hiếm những câu viết vụng. Nhưng điều ấy cũng có hạn chế: một vài
bài thơ ngắn có thể viết dài hơn, phóng túng hơn. Dàn trải mà không thừa:
Hắn đạp vào mặt tất cả
chúng ta
nếu chúng ta chỉ biết
khoanh tay
đứng nhìn CÁI ÁC
đang lên ngôi trên đất
nước này!
Ôi nỗi nhục ngậm mồm
chịu đạp
Ôi nỗi đau cốt nhục
tương tàn
chịu đến bao giờ? bao
giờ? bao giờ?
Bàn phím ta rỏ máu
ghi mấy lời bất lực gửi
anh em!
Các
câu thơ xếp liên tiếp nhau máy móc, là sự đơn tuyến hóa các hình ảnh, làm cho
toàn bộ một đoạn thơ thật ra chỉ là một câu. Trong những bài thơ chưa thành
công, anh nặng về bộc lộ tư tưởng và tình cảm, sự mô tả trở lên sơ lược, khái
quát. Tôi nghĩ các nhà thơ cần chú ý rằng khi chúng ta hồi tưởng, suy tư, thơ
trở nên chậm lại, khi chúng ta đối diện với ngày hôm nay, thơ trở nên nhanh
hơn. Có lần đã lâu trên chuyến bay rời quê cũ, sau khi mở khóa dây an toàn, kéo
mặt bàn nhận khay thức ăn với tách cà phê, tôi bỗng nhớ đến mấy câu loáng
thoáng của Hoàng Hưng.
Mẹ không còn để gói
cho anh nắm cơm nếp đỗ
Vụng về em giã tạm cối
vừng
Anh đi rồi mùi thơm
mãi bâng khuâng
Thời
gian trôi chậm lại. Có một liên kết bí ẩn, riêng tư mà tôi không biết rõ. Sự mất
mát, tuy vậy, không hề là một truyền thống lớn của thơ Việt Nam, như nhiều người
vẫn tưởng.
Thôi thế từ nay đọa
kiếp rồi
Tin dữ bây giờ chắc tới
nơi
Nhà ta đau đớn chừng
nào nhỉ
Tối sầm trước mặt bát
cơm rơi
Tâm
trạng song sinh của mất mát là thương tiếc. Nhưng chúng là hai tình trạng khác
nhau. Nhân vật không những chỉ muốn biểu hiện cảm xúc về sự mất tự do, bị tước
đoạt, bị làm nhục, mà còn muốn mọi người chia sẻ điều ấy. Sự mất mát, thương tiếc
dẫn đến một trong hai khuynh hướng: im lặng, chấp nhận, tê liệt, như một nạn
nhân. Hoặc tố cáo, thách thức, tin tưởng, vượt lên, trưởng thành.
Cầu vồng chắn cơn mưa
Cầu vồng chắn cơn mơ
Cầu vồng mở
Vùng trời mù mờ
Ở
người chiến thắng và may mắn, lòng hoài niệm là không đáng kể. Ở người thua trận
và bất hạnh, nó sâu sắc.
Về
tâm lý học, hoài niệm là phản ứng đối với mất mát và cách ứng xử đối với quá khứ.
Đôi khi, có thể tìm thấy giữa những câu thơ Hoàng Hưng nụ cười nhẹ nhõm, châm
biếm, nhưng hiền lành. Sự lặp đi lặp lại một số chữ trong vài bài thơ của anh
làm chúng trở nên nhàm chán, nhưng nhiều trường hợp khác, đó là các giai điệu dễ
nhớ, thú vị. Bạn có thể nhận ra thơ Hoàng Hưng: tương đối ngắn, câu thơ gọn, ý
tưởng sáng sủa, điểm dừng vừa phải, không bất ngờ, chói tai, nhưng vẫn tạo ra
biến chuyển về nhận thức hay cảm xúc.
Chiếc lá bàng
Những đôi mắt âm thầm
Rõi qua khe cửa
Bao giờ rụng chiếc lá
bàng cuối cùng?
Sẽ rụng đêm nay
Khi gió bấc nổi
Không. Nó sẽ còn đeo
đẳng mãi trên cây
Dai như kiếp sống đọa
đầy
Trong giấc ngủ màu
máu
Chiếc lá bàng mênh
mông
Thức dậy không còn lá
Bầu trời tím thâm
Bỗng rùng mình kiệt
quệ
Như vừa ra đi giọt
máu cuối cùng
Kể
chuyện trong thơ trữ tình là nghệ thuật khó. Các hình ảnh thường chen vai thích
cánh vượt lên, giành chỗ nhau, chúng muốn chiếm lĩnh trung tâm bài thơ. Cấu
trúc của một bài thơ đang viết như một căn nhà chưa xây xong, với một thứ trật
tự không hoàn toàn xác định, sự mất cân bằng ở phút chót. Người làm thơ tự do
không thể nào không giải quyết bài toán của cấu trúc, giữa một bên là cân bằng,
một bên là động lực mà nó mang chứa. Không phải khi nào Hoàng Hưng cũng bắt đầu
bài thơ dễ dàng, không phải bao giờ những câu mở đầu của anh cũng đầy năng lượng.
Có lúc anh hơi lúng túng, và vào giây phút ấy bị chinh phục bởi quán tính.
Đường phố hôm nay mùa
đông
Sao áo em mùa hạ?
Rõ ràng là hai câu
khá tầm thường. Nhưng có lẽ sự hứng khởi của tình yêu, sức hút của suy nghĩ, đã
kéo anh đi, nâng lên.
Những sọc áo xanh cuộn
sóng
Em mang trên ngực biển
đầy
Do đó anh tiếp tục để
sóng tung cao.
Biển những ngày hè đẹp
lắm
Ngày nào tìm biển ta
say
Nhưng mùa hạ đã ra đi
Chân trời xa không ngấn
nắng
Chuyển tiếp này hợp
lý, đẹp, mở ra.
Sao em còn mang áo mỏng
Có còn mùa hạ nữa đâu
Sao em làm lòng ta
đau
Nhớ ngọn lửa hè đã tắt
Sự hồi tưởng, tuy cảm
thương, vẫn không bi lụy, mặc dù câu thứ ba cũ, vẫn được chấp nhận. Sau đó, anh
lập tức lấy được động năng.
Chắc biển ngoài kia
cũng xám
Lạnh co những sóng rộng
dài
Và đẩy xa suy tưởng
thẩm mỹ, chạm sải tay được vào bờ, như tình yêu của anh chạm tới ngực người đàn
bà.
Ngực em cao làm tức
ngực
Hãy chôn dưới lớp áo
dầy
Đường phố hôm nay mùa
đông
Hãy để mùa hè yên nghỉ
(Hãy
để mùa hè yên nghỉ)
Cấu
trúc càng chặt chẽ, người đọc càng tham dự nhiều: đọc như một quá trình sáng tạo.
Bài thơ đầy khúc quanh, hình ảnh và ảo ảnh, gọi tên và ẩn ý, sự khéo léo và vụng
về, sự đọc bằng mắt và sự đọc lớn lên, cái chuẩn bị và cái không chuẩn bị.
Trời không đứng không
đi
Chén vàng Lệ Mật
Người về đốm râu
Chùm si nõn
Bạn
không hiểu gì cả. Bạn đứng lại và nhìn nó. Nhìn bài thơ. Như một cái cây, như
căn nhà, một sự vật. Có lúc cánh cửa mở ra.
Lợn
thở bình yên quán rượu
Ta
hát như điên bài hát rẻ tiền
Rồi
cánh cửa khác. Bạn đi tới góc tối khuất trong nhà, bật đèn, nhưng đèn không
sáng, bạn vấp phải tấm mạng nhện, và bước qua nó, đến trước:
Cong tàn nhang miếu đổ
Cha đi Hà Nội ngàn
năm
Chỉ
là một trong những cách đi vào một bài thơ.
Có
cách khác, tất nhiên, như trong tình yêu. Tình yêu nam nữ giống và khác với những
thứ tình khác ở nhiều điểm: tổ quốc, mẫu tử, tình bạn, gia đình. Điểm quan trọng
nhất của tình nam nữ có lẽ là chất riêng tư, sự thèm khát được đồng nhất và ý
chí chiếm hữu. Sự phảng phất tình dục trong một số bài thơ của Hoàng Hưng có
nét xao xuyến nửa nguyên thủy nửa nhu cầu được vỗ về trước tổn thương. Nhưng đôi khi anh cũng sử dụng những chữ quá
trừu tượng và tổng quát.
Biển
những ngày hè đẹp lắm
Ngày
nào tìm biển ta say
Trong
nhiều trường hợp khác, anh vượt qua chúng với kỹ thuật mô tả sống động, chi tiết,
như kỹ thuật truyện ngắn. Lịch sử được viết bởi kẻ mạnh. Thơ trữ tình được viết
bởi nạn nhân. Có một lòng tin vào lương tri phổ biến, sự chuẩn tắc luân lý và
văn hóa, chảy ngầm bên dưới những nổi loạn nghệ sĩ. Kierkegaard cho rằng lòng
tin là bước nhảy vọt, vượt qua tầm thường. Thơ anh là phản kháng trí thức,
chính là khuôn mặt của sự thật. Anh phản kháng điều gì? Sự nói dối, thói dung tục,
sự xúc phạm nhân phẩm. Tuy vậy thơ Hoàng Hưng không phải là tiếng thét, lời kêu
gọi. Thơ anh là một thay thế nhiều hơn là một chống đối, sự không khuất phục
nhiều hơn là sự nổi loạn, cái cao quý nhiều hơn cái căm phẫn, chất hiện thực đầy
thuyết phục nhiều hơn tính tranh cãi hùng biện. Vì tính nhân chứng, thơ anh gần
với ngoại biên, vì thiếu tính gây tranh cãi, thơ anh không thuộc về khuynh hướng
hậu hiện đại.
Người về từ cõi ấy
Vợ khóc một đêm con lạ
một ngày
Người về từ cõi ấy
Bước vào cửa người
quen tái mặt
Người về từ cõi ấy
Giữa phố đông nhồn nhột
sau gáy
Một năm sau còn nghẹn
giữa cuộc vui
Hai năm còn mộng toát
mồ hôi
Ba năm còn nhớ một
con thạch thùng
Mười năm còn quen ngồi
một mình trong tối
Một hôm có kẻ nhìn
trân trối
Một đêm có tiếng bâng
quơ hỏi
Giật mình
một cái vỗ vai.
(Người
về)
Thơ
Hoàng Hưng thật ra khó đọc hơn thế, kén độc giả, đòi hỏi nhiều công sức để thưởng
thức. Nói cách khác, anh bỏ ra nhiều năng lượng hơn chúng ta tưởng. Cần có lòng
tự tin, đôi khi gần như bất cần, để một nhà thơ hôm nay viết một loại thơ ít được
hiểu. Anh chọn kể lại sự thật bằng phương cách riêng biệt, kể lại bi kịch cá
nhân giữa những khung cảnh mơ hồ, mờ ảo, phần nào gây ra bởi giọng điệu.
Mặt ga đêm
Miệng mở ngủ
Giật thức
Mắt kinh hoàng
Người bốn phương chạy
đổi chỗ.
Em đi về đâu em có đi
cùng anh
Em có một cái mặt
không ?
Ta soi nhau mà tìm.
Đêm bốn bề người chen
đêm chật
(Người
đi tìm mặt) (*)
Thơ
Hoàng Hưng bắt rễ sâu vào đời sống nhưng trừu tượng và siêu hình. Mối quan hệ của
anh với cuộc đời là mật thiết nhưng phức tạp, dù ngôn ngữ trong trẻo. Tôi chú ý
đến bài thơ Cửa Sông sau đây vì giọng thơ quen thuộc, chất phác, mà gây bất ngờ.
Đó là thứ thơ trầm tĩnh, bất hạnh, được nén lại, ấp ủ qua mùa, ý thức lấp lánh.
Bài thơ như cái nhìn không chớp mắt vào lịch sử dân tộc.
Con đò nhỏ đưa ta ra
cửa sông
Anh với em ngồi giữa
những bạn chài
Mắt cười hiền
Họ không hỏi chúng
mình đi đâu
Ra cửa sông họ sẽ lên
những con thuyền thúng
Buông câu chờ bữa ăn
hôm nay
Còn chúng mình đi
đâu, đâu những con cá lạ ?
Những ngày sắp tới có
gì mới hơn ?
Ta bước lên một chợ
cá sắp tàn
Cồn cát trắng lửng lơ
giữa biển.
Đến hết cồn này mình
sẽ thành con trẻ
Cởi ba lô vứt lại giữa
những mảnh ván thuyền,
Đến hết cồn này mình
sẽ sang kiếp khác…
Em ngập ngừng một giọt
lệ trên mi
Đời sống này buồn mà
đẹp quá.
Em ngập ngừng giữa
phiên chợ nắng
Đò nhổ neo, nổ máy gọi
về
Ta cứ đứng phân vân
trên cồn cát
Các bạn chài đã đi hết
rồi
Những chiếc thúng rập
rờn ngoài cửa biển
Còn hai chúng mình
Đi thôi
Về thôi.
(Cửa
Sông)
Không
khí huyền ảo. Có linh cảm, gần như tiên đoán. Không khí này dẫn đến cảm giác
phân vân ở cuối bài. Khái niệm phân vân được sử dụng như sự đa nghĩa. Đây là sự
đa nghĩa chủ quan, người đọc có thể dự đoán nhưng không thể nào biết nhân vật của
bài thơ nghĩ gì và hành động ra sao. Đối với bài thơ có tính chủ quan như trong
thơ trữ tình, việc tiếp nhận của người đọc đối với tác phẩm là đề tài lý thú.
Trong lý thuyết tiếp nhận của Wolfgang Iser, người đọc càng có quan điểm thẩm mỹ
và xã hội rõ ràng, càng khó tiếp nhận những khả năng khác nhau của việc diễn dịch.
Chỉ những người cởi mở, mới có thể thưởng thức vẻ đẹp của đa nghĩa. Ta bước
lên, là ba chữ mở đầu phần hai, gây ấn tượng bước từ thấp lên cao, như khi ta
bước lên một con dốc, nhưng cũng là khái niệm trừu tượng, cái bước tinh thần, đời
sống tâm linh. Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng (Thế Lữ). Là làm chủ số
phận.
Đến
hết cồn này mình sẽ thành con trẻ
Là
câu thơ bí mật. Sự vang dội của nó tương phản với bầu trời gay gắt hoang tàn mà
câu trước vẽ lên. Sự cô độc mong manh không phải dễ nhận ra. Thế giới đầy nghi
ngờ. Thế giới là bình minh nhưng cũng là hoàng hôn. Đất nước tàn úa. Cảnh chợ
cá ban chiều có lẽ là hình ảnh chính xác nhất để mô tả thời chúng ta. Hoàng
Hưng là tiếng thơ lạ, không phải chỉ vì hoàn cảnh tù đày mà anh trải qua, nhiều
người biết, mà vì anh chọn lựa cho mình tiếng nói riêng giữa hai khuynh hướng,
xã hội và ngôn ngữ. Vì khuynh hướng thứ hai này, thơ anh gần như bắt buộc phải
là thơ cá nhân và trữ tình. Vượt ra ngoài truyền thống trữ tình Việt Nam, anh
đi những bước xa hơn, khá sớm. Không phải chỉ là tâm trạng của một thời buổi,
thơ anh còn tìm sự kết hợp giữa mất mát và tình yêu, giữa sở hữu và lưu vong,
những hình thức kết hợp trong một dạng thức trầm tư lặng lẽ, đôi khi buồn rầu
nhưng không tuyệt vọng, của nghệ thuật yêu mến cái không toàn hảo. Trong khi ngữ
cảnh là cụ thể, thì ngôn ngữ của anh có phần trừu tượng trí thức. Tất nhiên đó
vừa là điểm mạnh vừa là điểm yếu của một bút pháp. Để đi đến chọn lựa cuối
cùng, khó khăn, Hoàng Hưng mô tả chi tiết cảnh trên bờ biển, cồn cát, bản chài,
cảnh trời chiều, cảnh chợ cá. Sự mô tả ngắn gọn, khách quan, có chút lạnh lẽo,
với kỹ thuật gần phim ảnh, mở ra khung cảnh rộng lớn hơn của đất nước. Rồi nhà
thơ thu lại ở hai người, bơ vơ, sự đơn độc trong chọn lựa của họ.
Đời
sống này buồn mà đẹp quá
Tiếng
thở dài, không phải của bi quan chán nản, mà ngược lại, như lời nhắn gởi sự trở
lại, hồi phục. Bạn nhắm mắt, hình dung một người, bước vào bóng tối, bước ra
ánh sáng, đi giữa những người tù, nằm trên sàn đá lạnh, trần truồng trước người
khác. Bạn hình dung sóng biển, mùa hè. Bạn nhắm mắt lại và thấy một cơn mưa.
Bài thơ là vở kịch, người đọc, người viết, nhân vật, đi lại trên sân khấu. Để
làm gì? Để cảm thấy quyền năng của ngôn ngữ, của câu thơ, của tín hiệu. Để hiểu
rằng chúng ta không cô độc, trong cuộc chiến đấu chống lại ngu tối, tội ác.
Cả em nữa em ơi
Như thuộc về cõi khác
Hụt hẫng phút hàn
huyên
Anh ôm em ngơ ngác.
Và xin em chớ giận
Khi nhìn thấy gói quà
Anh muốn ngay lập tức
Quay lại chỗ vừa ra
Để run run mở gói
Hau háu mắt bạn tù
Nếu
văn học có thể trở thành phương tiện của chân lý thì nó cũng có thừa khả năng
biện hộ cho sự chống lại con người. Lý thuyết rối loạn hậu chấn thương (post
traumatic stress disorder) chỉ ra rằng ở người trải qua hoàn cảnh khắc nghiệt
như tra tấn, thiên tai, bệnh tật, có thể có ba loại biểu hiện: biểu hiện sớm,
trong vòng sáu tháng đầu tiên; trở nên mãn tính; hoặc có thể không có biểu hiện
nào cho đến nhiều năm sau.
Thôi em về đi nhé
May em không khóc oà
Quay lưng con bỗng thét
Giờ mới nhận ra cha.
Anh cúi đầu bước vội
Thầm nói em đừng chờ
Tôi lại quay trở lại
Thế giới của tôi đây
Em chỉ là giấc mộng
Bên trên khối mộ dầy.
Triệu
chứng chính là sự sống lại các kinh nghiệm chấn thương hoặc bằng những hồi tưởng
hoặc ác mộng, có khả năng làm tê liệt một số đáp ứng tinh thần hay khả năng
giao tiếp ngoại giới, những rối loạn về thần kinh thực vật hoặc về tâm trạng
như trầm cảm. Nạn nhân của các chấn thương có thể hoàn toàn bị đánh ngã bởi hội
chứng sau chấn thương, nhưng cũng có thể hồi phục nếu biết cách vượt lên bằng
những phương cách khác nhau.
Thơ
là một phương cách. Có lẽ vì thế mà anh có nhu cầu về những kinh nghiệm tâm
linh, đôi khi cũng có ý vị thiền, hướng tới an tĩnh, hướng tới bậc tuệ giác.
Bây giờ - ở đây
Tự do ngay phút này -
hoặc không bao giờ nữa
(Bậc
thầy)
Khi
người công dân lương thiện chết đi, lịch sử không tàn héo, mà sống lại mạnh mẽ
hơn, từ trong trấn áp, cơ cực. Cảm giác đau buồn có thể làm mờ tâm trí bạn
trong một lúc. Có thể bạn nghĩ thế giới đã kết thúc. Như khi cuộc chiến tranh
mà bạn tin tưởng vào tính chính nghĩa của nó bị đánh bại. Có thể bạn nghĩ tất cả
luật lệ sụp đổ. Như khi bạn lọt vào thuyền của bọn cướp biển. Có thể bạn nghĩ bạn
hoàn toàn tự do, không ước thúc bởi bất kỳ một chuẩn tắc đạo đức nào. Chúng ta
hãy đứng tách ra, ra khỏi bạn, như những khán giả, và nhìn xem bạn hành xử thế
nào.
Anh đánh mất mùi anh
trên những sàn đá lạ
Chỉ còn mưa mùi nước
mắt đêm
Em còn yêu anh không
yêu đến đâu giận ghét đến đâu
Mười lăm năm lòng
mình chưa hiểu hết
Mưa mưa ngập tầng trệt
Đưa nhau lên gác xép
nằm nghe mưa sập mái tôn
Ước nằm nghe mưa rồi
chết.
(Mùi
mưa hay bài thơ của M.)
Giọng
điệu trong một bài thơ là mối quan hệ giữa người nói và người nghe, người viết
và người đọc, và là ngôn ngữ thân xác. Thơ Hoàng Hưng có những mẩu như đối thoại,
như tâm tình giữa hai người, hay như tranh luận. Như thế gọi là phong cách
(gesture), một nghệ thuật biểu hiện. Bối cảnh là căn phòng, căn nhà riêng tư của
hai người, một đêm mưa như trút. Bối cảnh là chia tay và đoàn tụ. Động lực của
nó là sợ hãi, lo âu, vui mừng đoàn tụ, tình yêu, và cả tình dục, niềm vui tinh
thần và niềm vui thể xác. Đụng chạm. Người nam, người nữ.
Đã
một nghìn đêm mưa trắng đêm
Đến
đây thì rõ là mưa không chỉ ngoài trời. Mưa rơi ngoài phố. Mưa rơi trong lòng
ta. Như trong một bài thơ tiếng Pháp. Nhưng tác giả lại đưa ta đến với khung cảnh
này:
Mưa
mưa ngập tầng trệt
Đưa
nhau lên gác xép nằm nghe mưa sập mái tôn
Thì
là mưa thật. Có hai cơn mưa, của thời tiết và của tâm hồn, của bây giờ và của
nghìn đêm. Một nghìn đêm, ba năm. Câu cuối là đặc trưng của Hoàng Hưng, lối kết
thúc đặc biệt, ít người kịp chú ý.
Ước
nằm nghe mưa rồi chết
Con
đường dài, sự mỏi mệt. Sự vừa đủ. Hạnh phúc. Nỗi bi quan. Sự đề kháng bay bổng.
Thơ không làm con người trở nên tốt đẹp hơn; thơ chỉ dạy họ mơ ước trở nên tốt
đẹp hơn. Hoàng Hưng là người của công việc; và sự cần mẫn của anh đến từ tình
yêu.
Giấc ngủ đêm đông
chặt làm bốn khúc,
mỗi khúc cập giờ cập
phút
tin tức quê nhà.
Quê hương giờ giữa
ban ngày
mà sao như giữa đêm
dày hỡi quê!
Đêm ở đây tuyết trắng
bốn bề
trắng như dao cắt
ngày về
còn
xa.
(Đêm
cuối năm xa nhà, bốn lần thức giấc mở mạng đọc tin Ba Sàm)
Thực
ra, Hoàng Hưng ở gần đất nước hơn nhiều người khác. Là nhà thơ của ý thức xã hội,
anh giao tiếp, vận động, tạo ra trường tương tác quanh mình. Một cách lặng lẽ.
Thơ anh nói về người khác, đập nhịp cùng người khác, nhưng không phải anh viết
cho người khác: thơ trữ tình viết cho chính mình, bao giờ cũng vậy. Quan điểm vừa
cứng rắn vừa khoan hòa giúp anh nhìn ra nhiều vấn đề hôm nay, vừa không ngăn cản
anh đi xuyên qua, dễ dàng hoặc khó khăn, các biên giới giữa chính trị và nghệ
thuật, giữa trong và ngoài, giữa Nam và Bắc, giữa tả và hữu, chẳng hạn. Sự đồng
thời vừa là người sáng tác vừa là người của báo chí không tạo ra các xung đột ở
anh. Hoặc chúng không lớn. Có thể trong những năm sau này, anh đã có nhiều cơ hội
hơn để điều chỉnh tầm nhìn lịch sử, đặc biệt về cuộc chiến tranh hai mươi năm nội
chiến, nhưng tôi tin rằng nguyên nhân sâu xa nằm ở cội rễ của mọi thứ: một tâm
hồn biết rung động trước cái đẹp, những phẩm chất có tính nhân loại, sự đề
kháng đối với cái ác, giả dối.
Cách bảy lần tường
Tiếng cười vụt qua
Một trưa rất ròn
Sau bảy lần tường
Có người đêm đêm
Mắt mở trừng
Nghe sấm chạy
Một hôm
Có cánh hoa xoan
Vào thăm người ấy
Bàng hoàng người ấy
Nhặt cánh hoa xoan
Chuyện chỉ có vậy
Sau bảy lần tường.
Nhu
cầu đối với sự thật có tính phổ biến ở con người, tuy vậy lại không đồng nhất ở
những người khác nhau. Có người xem sự thật cần thiết như ăn và thở. Có người sợ
hãi, xa lánh nó. Những người nhiều định kiến và ít bao dung, nặng bè phái và
kém trí phán xét, hay tin theo một học thuyết tiền chế, biết rõ điều này.Thơ trữ
tình nhân chứng thường xuyên hướng tới sự thật nhưng không mang lại các giải
pháp. Một bài thơ hay, điều ấy rất hiếm, là một bài thơ đến đúng lúc, gọi đúng
tên bạn từ ngoài cửa, lúc bạn vừa tỉnh giấc, và bạn liền đi theo nó, không hỏi
một lời, đến tận bìa rừng kia, cái giếng gạch đầu làng, chiếc xe hơi cũ với băng
ghế sau bọc da đã mòn. Ở đó, bạn nhìn thấy cội rễ của ao ước thầm kín, nghe được
tiếng nói bị khuất lấp sau đám cỏ cao, và bạn tin. Bạn trở nên can đảm.
Buổi trưa
Sau một cơn động đất
xa
Chói chang ngực rộng
mây bay về khát khát
Cây đá đổ vách trần xiêu
lao đao bốn mặt
Ai gọi rất xa
Chờ ta!
Chờ ta bùng nổ!
Sự
kết thúc một bài thơ ở Hoàng Hưng cũng có chỗ đặc biệt. Anh không vướng vào lối
kết thúc cổ điển, hay gặp ở các nhà thơ cùng thời, trường lớp, kiểu như nâng
cao, mở rộng. Anh kết thúc thản nhiên, điềm tĩnh, không kèm nhận xét, để mặc
câu chuyện trôi đi, đôi khi bi quan, đôi khi tàn nhẫn. Vì tự nhiên, sự thực của
tự nhiên, bao giờ cũng tàn nhẫn. Sự chọn lựa giữa hai thứ ấy, sự thật của nghệ
thuật và sự thật của tự nhiên, thể hiện khuynh hướng của nhà thơ, đôi khi thể
hiện lựa chọn có tính văn hóa. Thơ Hoàng Hưng là thơ thành thị, ít yếu tố thôn
dã, vì thế anh nghiêng về phía hiện đại, đứng xa các truyền thống ủy mị đầy rẫy
trong thơ Việt mấy chục năm nay, Bắc lẫn Nam, trong nước lẫn hải ngoại. Giai đoạn
đau khổ nhất, Hoàng Hưng vẫn không dành nhiều thì giờ cho than vãn, mà hào hứng
hơn với tốc độ của đời sống, cái sắp xảy ra, lập tức. Cái bây giờ, lập tức, mới
là yếu tính của tồn tại. Một tâm hồn đi tìm cứu chuộc, vượt thắng, không phải
là tâm hồn buồn rầu. Có một niềm tin, gần như thiêng liêng, không thể chứng
minh được, vào sự tốt đẹp, vào chiến thắng sau cùng của cái tốt và cái đẹp, một
thứ khả năng hình dung, viễn kiến, nhìn thấy được đằng sau giới hạn của kiếp
người, sau sự đau khổ của nó, một thế giới khác, sự nguyên vẹn khác, cõi rung động
khác. Điều ấy an ủi chúng ta biết bao. Thật ra Hoàng Hưng cũng có thể biểu hiện
nhiều hơn nữa khuynh hướng châm biếm và hài hước, phê phán và tranh luận,
khuynh hướng mô tả tỉ mỉ các chi tiết, không phải chỉ để mô tả, tất nhiên, hoặc
anh có thể kể lại câu chuyện một cách bình tĩnh, nhẹ nhàng như không, rồi đột
ngột chuyển hướng, tạo ra cú va chạm thẩm mỹ. Nhưng những thứ ấy anh ít làm,
hay làm mà chưa trọn vẹn. Ngôn ngữ của anh là của ao ước, chờ đợi, không phải
im lặng tuyệt đối. Thơ anh có nhiều bài viết về sự kiện, nhân dịp, như vào tù,
ra tù, trên đường, nhưng đó chỉ là cơ hội để vô thức cất tiếng nói. Thơ làm sống
lại, giữ thật lâu những hiện hữu thoáng qua, những số phận ngắn ngủi. Sự chuyển
hướng, thay đổi từ nhân vật này đến nhân vật khác, từ hoàn cảnh này đến hoàn cảnh
khác, làm thay đổi không những tâm trạng chung mà còn tạo ra động lực để bài
thơ đi tiếp, đôi khi với tiến độ nhanh hơn. Nếu nghi ngờ là một phẩm chất của
khoa học, nó cũng là phẩm chất của văn chương. Tác phẩm văn chương trong khi có
thể mang lại hiểu biết, lòng tin, thì có thể phơi bày những lưỡng lự, tính đáng
ngờ của sự vật. Hiểu biết trong thơ chính là hiểu biết về giới hạn của nhãn
quan, chật hẹp của chân lý. Trong khi Hoàng Hưng có những bài thơ đã xác định
xong vị trí vững vàng của chúng trong văn học, thì ngôn ngữ của anh cần phá vỡ
và nổi loạn hơn nữa. Những tìm tòi nghệ thuật vẫn chờ anh. Bởi vì:
Không.
Cái chết ấy tôi không chịu nổi
Cuộc
sống đi từ cái không biết đến cái biết. Thơ đi từ cái biết đến cái không biết.
Bài thơ trữ tình của anh, đi tới cái lớn lao, toàn thể, nguyên vẹn, nhưng không
tìm cách giải quyết những mối phân vân.
Đi
thôi
Về
thôi
Công
việc của thơ là tạo ra liên kết giữa người và người trong không gian tối, nhọc
nhằn và hy vọng, của tình yêu và rời bỏ, của xúc động và an tĩnh. Sự giao tiếp
với cái không biết, trong khi gợi lên cảm giác lạc đường thì cũng mang lại cảm
hứng dồi dào, vô hạn. Những cuộc ra đi và trở về, trở về và ra đi, do đó không
còn là một ghi chép về chuyến đi có lẽ là có thật của Hoàng Hưng, mà còn là, và
thực ra là, một ẩn dụ trung tâm của sự tìm kiếm, đuổi theo cái đẹp, toàn hảo
hay không toàn hảo, cuộc lên đường với tất cả nguy nan. Không phải trạng thái
sáng rõ, sự cân bằng, sự ổn định, niềm hài lòng, mà chính cái mờ ảo, những cơn
mộng, nửa tỉnh thức, trạng thái mất cân bằng tạm thời, sự chấn thương, sự lảo đảo,
sự ngờ vực, những thách thức nghiệt ngã, lòng can đảm, khát vọng và vô vọng, mới
là những trung tâm động lực của thơ hôm nay.
NGUYỄN
ĐỨC TÙNG
(trong loạt bài Đọc
Thơ)
Chú
thích:
(*) Hoàng Hưng kể:
"Đêm đợi tàu ở ga Thanh Hoá để về đoàn tụ với đại gia đình ở Hà Nội, giữa
đám trẻ bụi đời mà tôi tự nhiên sáp vào theo một lựa chọn bản năng cho sự an
toàn của mình, sự lựa chọn không thể giải thích bằng lý trí, có lẽ là đêm đầu
tiên tôi không ác mộng. Có thể nói hơn một nghìn đêm sống trong các chỗ giam cầm
khác nhau, từ trại tạm giam Hoả Lò, đến Trung tâm Thẩm vấn Quốc gia ở ngoại
thành Hà Nội, sau cùng là trại cải tạo Thanh Cẩm ở miền núi Thanh Hoá, hầu như
không đêm nào tôi không gặp ít hay nhiều ác mộng, những ác mộng ngắn hoặc dài,
là những mảnh vụn hay cả một câu chuyện. Phần lớn những ác mộng ấy, nếu không
là lạc vào những cảnh giới hãi hùng thì cũng bao gồm cảnh mình bị rượt đuổi, bị
bắt, hay bị giam cầm, hoặc vượt ngục mà không thoát... Có điều tôi có thể khẳng
định là tôi chưa bao giờ mơ thấy mình bị đánh đập hay bị tra tấn!
Đêm tự do đầu tiên
hình như tôi ngủ rất sâu, và tỉnh dậy không nhớ là mình có mơ thấy gì trong lúc
ngủ hay không. Nhưng rồi về sau, cứ lâu lâu, tôi lại có những ác mộng, mà phần
lớn cũng lại vẫn là những cảnh như thế. Tình trạng cứ kéo dài cho đến tận bây
giờ. Tôi hằng mong chúng đừng trở lại, đừng làm tôi thảng thốt tỉnh dậy giữa
đêm, đừng ám ảnh những ngày tôi đang mong muốn tĩnh tâm để hoà nhập lại với xã
hội và tự tu chỉnh con người mình. Nhưng vô ích. Chúng cứ trở lại, lúc thưa lúc
mau, không bao giờ báo trước."
(http://www.thivien.net/Ho%C3%A0ng-H%C6%B0ng/%C3%81c-m%E1%BB%99ng-2006/group-UjqRKcZ2hWjothgXI8CA4Q
)
No comments:
Post a Comment