Wednesday, October 11, 2017

BỮA ĐIỂM TÂM CỦA TRÂN SA


Hồ Đình Nghiêm

Thi phẩm của Trân Sa

đời ta đâu phải là cây mục
trôi với rong và rã với rêu
đời ta đâu phải là ga xép
đứng chờ đỗ lại một tàu xiêu.

Bài trên có tựa là “Tĩnh”. Còn dưới đây, thơ mang tên “Động”. Sắp chung một trang, được viết vào năm 1983.

đôi khi gió bão qua ngang núi
chim bay cuồng nơi ẩn trú đâu
đôi khi cỏ dại gai đầy lối
ngựa ngửng đầu ngơ ngác ngó quanh.

Biên giới giữa Tĩnh và Động, cái sự lọt vào, thứ trạng thái nhập nhằng ấy dường như không hiện diện trong thơ Trân Sa. Cô mềm lòng khi đứng bên này đường và cô cứng rắn khi đặt chân sang tới lề bên kia. Con người Trân Sa chẳng chấp nhận cái nửa vời. Nắng chan hoà trên từng câu thơ, đôi khi chữ chết chìm dưới một bầu trời sũng nước. Tôi đọc, không nhìn ra cái ui ui của thứ thời tiết tức giông nắng trốn. Ra ngô ra khoai, chẳng ỡm ờ!

Từ chỗ tôi ở đến thành phố Trân Sa trú ngụ cách nhau 6 giờ lái xe. Mưa ở Montréal mà nắng vàng ngập phố Toronto. Cách trở bao nhiêu cây số mà trái khoáy vậy? Tôi mua vé xe lửa (không tàu xiêu) và lần khác thì leo lên xe đò băng đồng vượt suối. Chúng tôi gặp nhau đúng ba lần (sự bất quá tam). Vậy thì cuộc hội ngộ còn lại là do “người về từ Toronto” tạo nên. Ba lần, trải dài qua tháng năm của thời điểm 1989 và 1990. Ôi, mới đó mà đã sang một thế kỷ rồi ư?

Trân Sa hơi gầy, hình như ngày cũ ở Nha Trang. Trân Sa nói giọng Huế chưa phai nhạt nước sông Hương, trầm, hơi khản tiếng; thứ chất giọng mà tôi nghĩ những người hát nhạc Jazz đều sở hữu. Tóc cắt ngắn, thật ngắn. Mang gương cận thị. Thích uống cà phê đen đậm đặc và ngồi bên nhau chừng hơn nửa giờ, hai đứa đã đốt khói bay 20 điếu thuốc trong chiều tà. Nhìn Trân Sa, tôi dấu ý nghĩ là cô đã vô tình chở trí nhớ tôi về lại Huế năm xưa, hồi tôi gặp nhà văn Trùng Dương theo nhật báo Sóng Thần đi viết bài tận vùng địa đầu giới tuyến. Ngồi với anh Đinh Cường trong Đại Nội có thể đón nhận cơn địa chấn lan về do hoả tiễn lẫn đại pháo chăm trút xuống cổ thành Quảng Trị. Có chút gì đọng trên gương mặt Trân Sa làm gợi tới Trùng Dương? Cái kính to trên gương mặt gầy tóc ngắn? Những cọng khói ẻo lả từ tay bay lên? Và văn chương. Và lên đường. Và nhập cuộc. (Có thời Trân Sa làm chủ biên tờ Trăm Con, đăng tải thơ văn nhiều bài đặc sắc nhưng chẳng thọ lâu do bởi những ngộ nhận, ngay tại Toronto).

Chúng tôi ngó phố phường, miệng mồm thì bận cà phê thuốc lá, nói chung là vụng về không biết tìm cách trao đổi lời qua tiếng lại. Mà nghĩ cũng chẳng cần thiết bởi vì cả Trân Sa và tôi dạo đó đều viết rất hăng. Mê muội gửi bài tới các tạp chí văn học. Đã đọc của nhau và vai đâu vai như giờ này cũng do chữ nghĩa tác thành để làm nên cuộc xúi dại, hơi ngây ngô, hơi khờ khạo. Ngoài thơ, những truyện ngắn của Trân Sa tựu trung đều là những hạt cát quý, lấp lánh (chẳng rành Hán Nôm nhưng tôi vẫn diễn dịch tên Trân Sa ra thế). Ý tưởng lạ, cách dựng truyện và không khí trong đó luôn để lại một thứ gì gần với xót xa. Một dụng công cố sắp xếp lại những đổ vỡ. Hạnh phúc vốn từ đau đớn mà phát sinh. Truyện ngắn “Giữa Những Hàng Ghế Trống” là một ví dụ. “Về Già Tôi Sẽ Đi Tu” là một chứng minh khác.

Tôi nghĩ, ngồi bên nhau mà người ta ít nói, gần như câm lặng, cũng nên được xem là họ đã hiểu lòng nhau. Nếu cho đó là nguỵ biện, thì có thể thưa rằng, e chúng đang bận suy tưởng, mỗi người tự truy đuổi riêng một nỗi niềm để về nhà dựng được một áng văn ghi dấu, đãi đằng nhau.

Chỉ ba lần, nhìn sâu vào mắt nói trong vô ngôn, rồi Trân Sa thầm lặng bỏ đi, biền biệt, mất dấu. Hỏi thăm bạn bè ở dưới đó, không một ai hay. Chưa già, chắc chắn là Trân Sa chẳng “Tôi sẽ đi tu”. Chợt nhớ lại bài thơ “Bơ Vơ” của người đang lẩn trốn vào bóng tối:

Phật ở bên tay trái
Chúa ở bên tay phải
Đối diện: một rừng người
Phía sau lưng: vực thẳm
Ngó xuống: toàn hư vô

Bàn chân tôi đứng lại
Giữa vô cùng bơ vơ
Xác thân chỉ tồn tại
Những nhịp sầu rất thơ.

Nhớ luôn cả bài “Bạn Xưa”:

trong giấc mơ người ám ảnh tôi
sáng hôm nay trời đất buồn rầu
tôi thay áo bước vào đời sống
quá khứ nặng bàn chân thế sao

tôi ở đây hồn ở đâu đâu
một cánh hoa lạc loài trong đầu
đem gửi tặng người qua trí tưởng
thấy môi ai cười khô héo thôi.

Tới ngang đây, tôi đành “nhớ” thêm các bài thơ khác của Trân Sa. Tôi mượn Trân Sa để gửi theo chút tâm tình mà mình chẳng đủ lời để thổ lộ. Tôi vẫn tự nhận tôi mãi kém thua bạn tôi. Và về già có thể tôi sẽ đi tu, tại gia. Ngồi diện bích, hồi tưởng: Chúng tôi đã có một thời như thế. Hồn nhiên trong sự già cỗi. Dấn thân trong hoạn nạn. Mê muội trong phụ rẫy. Tàn hơi trong lãng công. Chỉ còn nỗi nhớ trong thất lạc. Và chỉ còn thơ văn làm bồi đắp thứ tình bạn không tuổi tác. Một buổi điểm tâm Xanh.

Tuy chênh lệch đôi ba tuổi, nhưng Trân Sa tìm đến thơ văn trước tôi một chặng đường dài. Có bài làm năm 1973, 1975, lai rai về sau… Nhưng tôi yêu thơ Trân Sa ở thời điểm mà tôi vừa đến góp chung một tiếng nói. Chẳng hạn như bài “Đối Thoại Trong Một Cuốn Tiểu Thuyết” được viết vào tháng 11, năm 1988:

Họ nói về những bầy chim gẫy cánh giữa trời
về những con người chôn mặt mình trong đất
về cuộc đời giữa những còn và mất
về tương lai trống không và hiện tại chôn vùi

Họ nói về một vầng trăng chết đuối ngoài khơi
về một tình yêu không còn trong trí nhớ
về cái chết và về niềm hãi sợ
về hoang đảo cô liêu chỉ có một người

Họ quên nói với nhau về những tiếng cười
về những ban đêm không thể còn bóng tối
về không-một-trái-tim-nào-có-tội
về không-ai-là-dã-nhân khi còn biết thương đời

Họ bận rộn nhỏ lên nhau giọt lệ ngậm ngùi
nên quên nói với nhau những lời hy vọng
Họ mải miết với quá nhiều phủ nhận
nên không còn gì ở giữa những đôi môi.


MỘT

tâm hoa nở rộ khắp mùa
thương em búp nhỏ bao giờ ra bông
tay ai khuấy nước trên sông
thương em gợn sóng tan vào hư vô

a ha địa ngục tang bồng
ta quăng cực lạc nhập vòng tử sinh
bước chân lạc lõng u minh
môi cười bình lặng tỉnh điên cũng là

bao giờ em hiểu ra ta
ý thân nhất thể ta là chính em.

(4/88)


LẠNH

tôi đã đi rồi tôi đến đâu
không về. nhất định chẳng về đâu
trời ơi. sao đất vô cùng lạnh
dưới một dòng sông gãy nhịp cầu.

(1987)


NHỚ

đã ra đi
đã qua đường
tình xưa
còn động
vết thương ngọt ngào

đã quay lưng
đã tay chào
hôm nay
còn nhớ
hôm nào,

rưng rưng.

(6/86)


NGƯỜI

đêm
nâng ly café
thấy Nét Đẹp Em Người Da Đen

buổi sáng
châm điếu thuốc
hồng Lửa Ấm Anh Người Da Đỏ

trưa
một ly sữa nhỏ
mát rượi Diễm Phúc Người Da Trắng

chiều
tĩnh lặng
Tôi Người Da Vàng trực nhận mối tương quan
đầy thân ái

nhân loại bao la
dưỡng sinh và huỷ phá
Tôi xin yêu Người
   Da Đen Da Đỏ Da Trắng Da Vàng
Tôi xin vô cùng yêu Anh yêu Em yêu Tôi

Dù sao.

(1984)


NỖI NHỚ

yêu từ cái thuở
trăng còn Rằm
thuở Hoa
đơm nụ mới
đầu năm
bao nhiêu
Thu rụng
Đông tàn úa
Xuân Hạ
còn nguyên
nỗi nhớ
Xanh.


TÂM TRẠNG

có khi rớt xuống huyệt
có khi bay lên trời
có khi đùa mải miết
có khi sầu không nguôi

có khi tôi yêu người
có khi lòng lạnh nhạt
có khi hát yêu đời
có khi gần tự sát

có khi ngồi nghĩ mãi
điều vô lý đời mình
có khi chợt kinh hãi
lặng lẽ kiếp nhân sinh.


BAO DUNG

lặng im mà ngó
mưa về
ngó trời đất
sụp
gần kề hai chân
lặng im
rơi lệ xuống
thầm
trái tim nhẫn nhục
ôm chầm bão giông

từ đêm
địa chấn tới gần
lặng im nghe
tiếng chim gầm mái hiên
lặng im nghe
tiếng khóc phiền
lặng im nhìn
những sắc hình
rụng phơi

lặng im
môi hé
nửa vời
tiếng bao dung
thoảng
giữa trời bụi che.


MEN MÙA HẠ

chiều mang tiếng nói đi theo gió
mang theo ngọn nắng khuất về tây
có chi trong nắng mà tôi nhớ?
một giọng cười hay sợi tóc bay?

có chi trong tiếng mà tôi nhớ?
một chút ân cần một chút vui?
có chi như mật trên môi đó
ngọt với muôn người hay chỉ tôi?

có chi như thể trong vườn lạ
nở một nhành ôi đẹp bất thường
có chi xanh mượt như cây lá
vẽ lại trần gian vốn thật buồn

có chi như thể hương mùa hạ
tiễn một mùa đông đã quá dài
ô hay cứ tưởng tim thành đá
lại đập hồn nhiên mấy nhịp sai

cứ đến rồi đi rồi trở lại
cứ cho tôi nhớ hết đêm này
ngày mai cứ nắng đừng mưa nhé
cứ vẫn ngọt ngào như bữa nay

chiều mang tiếng nói đi theo gió
mang theo ngọn nắng khuất về tây
có chi trong nhớ mà tôi ngỡ
men nồng chưa chuốc vội vàng say…

Những bài thơ hiển thị ở trên, tôi nhặt ra từ hai thi tập “nàng thơ” ký tặng năm xưa (đã qua thế kỷ rồi sao?): “Thơ Trân Sa” (Tập Họp xuất bản năm 1989) và “Điểm Tâm Cho Người Tình” (Tân Thư xuất bản năm 1990). Cả hai thi tập đều không ghi đôi dòng tiểu sử tác giả và những trang thơ giờ này thảy đều úa màu. Thứ sắc màu vàng vọt có trong thơ Nguyễn Tất Nhiên:

“Nắng bờ sông như màu trang vở cũ
Thuở học trò em làm khổ ai chưa?”

Tôi từng khổ và tôi đang hối hận. Giá mà ngày ấy thực hiện được một buổi chuyện trò cùng bạn, để tìm hiểu do đâu, ngọn nắng nào đã soi rọi vào, tác thành nên những hạt cát lấp lánh có tên gọi Trân Sa. Bởi chăng chúng ta đều bị cuốn vào thứ đời sống hối hả chuyện mưu sinh. Không thể cưỡng chống, chẳng thể nghe theo lời Bùi Giáng:

“Áo cơm bỏ lại bên đời
Bỏ tan lìa mộng bên lời tử sinh”.

Bạn còn đâu đó ở Toronto? Hay “khi về già tôi sẽ trở lại chốn xưa”? Sài Gòn, Phan Thiết, Đà Lạt hay Nha Trang? Thành phố mà nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng từng gọi: “Hang động của tuổi thơ”. Có lẽ bạn chẳng hay biết “chuyện nhỏ” về tai ương mà tôi từng hứng trong mùa Đông khắc nghiệt chốn này. Khi ấy, tôi gượng cơn đau, nhớ thơ bạn vụt hiện:

“đi ngang bãi tuyết
thấy đời dễ thương
ngã trong đám tuyết
ôi lạnh khôn cùng”.

Mùa đông lại sắp về, tôi chống gậy đi tới quán cà phê cũ kỹ mà chúng ta từng ngồi hun khói. Tôi nhớ lại nhân dáng bạn, khuôn mặt bạn, đang ngồi ghế đối diện. Ừ, nỗi nhớ hiện ra “giữa những hàng ghế trống”. Tôi chép lại thơ bạn, một cách thiếu sót, cũng là một cách làm ấm lại. Chúng ta, chẳng ai có cảm tình về một khoảng trống cả. Phương ấy, bạn còn khổ tâm chêm đầy vơi những câu thơ? Và quan trọng hơn, bây chừ lòng bạn đang Tĩnh hay đang Động?

Chỉ một chút
thoáng động
trên
ngọn cỏ ướt mưa
ngoài ngắt xanh biển rộng
con cá nằm
ngủ trưa.

H ĐÌNH NGHIÊM
song thập, 2017

No comments:

Post a Comment