Nguyễn
Thị Thảo An
Qua sông
Tô
Thùy Yên là một tên tuổi lớn trong thi ca Việt Nam. Thời chiến tranh, ông là
người lính. Trong thời bình, ông là người tù. Đi lính, làm thơ lính. Đi tù, làm
thơ tù. Thơ tù của ông khiến thiên hạ xốn xang, kể cả cai tù cũng phải rúng động.
Nhưng thơ lính lại có người “chê”, nhất là giới trẻ. Người ta vẫn quen lối mòn
suy nghĩ, thơ lính là thơ hùng, người lính lúc nào cũng lăm lăm tay súng.
Bài
Qua Sông, Anh Hùng Tận, Đêm Qua Bắc Vàm Cống,
Đãng Tử, Trường Sa Hành… là thơ lính, nhưng mà là thơ buồn. Người lính bơ
phờ, mỏi mệt, sau những chuyến quân hành. Người lính “dô dô..”, lính nhậu nhẹt,
lính quên đời. Uống để quên những gương mặt bạn bè, đồng đội… mới vừa ngã xuống.
Thơ lính của Tô Thùy Yên nói lên tiếng nói tự do, quyền được khóc. Đó là điều
nghiêm cấm ở Miền Bắc. Không có bài thơ lính nào ở Miền Bắc có nước mắt cả. Vì
vậy thơ lính TTY là tiếng thơ nhân bản cho thân phận con người. Ông Tô không phải
chỉ là người lính của Miền Nam, mà còn là người lính của thân phận, của con người.
Tuy buồn đấy, nhưng cái nét bi hùng vẫn cuồn cuộn trong thơ:
“Ly rượu rót mời, xin
uống cạn.
Bài ca ta hát đến đâu
rồi?
Xin hát nốt – còn đi
kẻo muộn…
Cho úp ly – bóng xế
đường dài…
Bìm bịp chiều chiều
kêu nước lớn.
Đi, đi đâu, chèo chống
mỏi mê?
Đến ngã ba, đành theo
một lối,
Tiếc ngẩn không cùng
theo lối kia.
Thoáng nhớ có lần ta
đọc trộm
Lược sử ta trong bí lục
nào,
Văn nghĩa mơ hồ không
hiểu trọn,
Thiên thu loé tắt vệt
phù du… “
(Đãng Tử)
Trong
nhạc Việt, người ta thường ví Phạm Duy là phù thủy âm thanh. Trong thơ, phải ví
Tô Thùy Yên là phù thủy của ngôn ngữ. Trong bài Qua Sông, ông dùng những chữ diễn tả thật mới lạ. Như , “trời mốc”,
vẽ nên màu trời vần vũ âm âm hơi nước. “xa như nhớ” - chỉ khoảng cách trừu tượng,
không thể ước lượng. Chiều mập mờ xiêu lạc dáng cò”. Thi trung hữu họa là đây.
Chỉ bằng hai chữ "xiêu lạc dáng cò" Con cò phiêu hốt bỗng dưng hiển
hiện trong trí tưởng mọi người,…
“Quán chật xanh lên rừng
lính ướt.
Mặt bơ phờ dính gió
bao la”
Lần
đầu tiên có người diễn tả người lính qua sông là “lính ướt”, mặt “dính gió”,...
Những chữ đặc thù của Tô Thùy Yên khiến thơ ông không lẫn với ai được.
QUA
SÔNG
Đò nghẹn đoàn quân xa
tiếp viện.
Mưa lâu, trời mốc, buồn
hôi xưa.
Con đường đáo nhậm xa
như nhớ.
Chiều mập mờ xiêu lạc
dáng cò.
Quán chật xanh lên rừng
lính ướt,
Mặt bơ phờ dính gió
bao la.
Khí ẩm mù bay, mùi
thuốc khét,
Chuyện tình cờ nhúm ấm
cây mưa.
Vang lên những địa
danh huyền hoặc,
Mỗi địa danh nồng một
xót xa.
Giặc đánh lớn – mùa
mưa đã tới.
Mùa mưa như một trận
mưa liền.
Châu thổ mang mang trời
nước sát,
Hồn chừng hiu hắt nỗi
không tên.
Tiếp tế khó – đôi lần
phải lục
Trên người bạn gục đạn
mươi viên.
Di tản khó – sâu dòi
lúc nhúc
Trong vết thương người
bạn nín rên.
Người chết mấy ngày
chưa lấy xác,
Thây sình, mặt nát, lạch
mương tanh…
Sông cái nước men bờ
sóng sánh.
Cồn xa cây vướng sáng
mơ màng.
Áo quan phong quốc kỳ
anh liệt.
Niềm thiên thu đầm cỗ
xe tang.
Quê xa không tiện đường
đưa tiễn,
Nghĩa tận sơ sài, đám
lạnh tanh.
Thêm một chút gì như
hối hả,
Người thân chưa khóc
ráo thâm tình…
… Nao nao mường tượng
bóng mình
Mịt mùng cõi tới, u
minh tiếng rền.
Xuống đò, đời đã bỏ
quên…
Một sông nước lớn
trào lên mắt ngời.
Hai
câu cuối,
"Xuống đò, đời
đã bỏ quên...
Một sông nước lớn
trào lên mắt ngời."
Khiến
người ta liên tưởng tới hai câu thơ khác.
"Thùng
thùng trống đánh ngũ liên.
Bước
chân xuống thuyền nước mắt như mưa."
Đời
lính xưa nay, thời nào cũng "Túy ngọa sa trường" cả. Nếu sống sót thì
lại chỉ sống bằng ký ức.
NGUYỄN
THỊ THẢO AN
6/19/17
No comments:
Post a Comment