Nguyễn
Thanh Châu
Nhà thơ Khoa Hữu
KHOA
HỮU, tên thật NGÔ ĐÌNH KHOA sinh ngày 21 tháng 8 năm 1938 tại Bắc phần. Đào
thoát vào Nam tháng 3 năm 1953. Tốt nghiệp Bách Khoa hệ Cao đẳng 4 năm. Bị tù
chính trị oan, mất sở làm. Sau đó đi dạy tư 4 năm. Đi lính tác chiến 10 năm, bị
thương 2 lần. Đã đăng thơ và truyện ngắn trên vài tạp chí văn học tại Sài gòn.
Đến tháng 4 năm 1975 giải giáp. Trong thời gian tại thế, ông vẫn âm thầm sáng
tác, không hợp tác với bất cứ tạp chí, tổ chức văn nghệ nào của chế độ hiện
hành.
Đã
xuất bản sau năm 1975:
1/
Tập thơ LỤC BÁT do nhà xuất bản TRÌNH BÀY và nhà thơ DIỄM CHÂU ấn hành tại PHÁP
năm 1994.
2/
Tập thơ THƠ KHOA HỮU do tạp chí VĂN HỌC phát hành tại MỸ.
3/
NỬA KHUÔN MẶT, tập thơ lục bát do Thư Ấn Quán Hoa Kỳ xuất bản 2010.
4/
Tập thơ LỬA do Thư Ấn Quán Hoa Kỳ xuất bản 2012
Những
tác phẩm đã hoàn tất chờ in:
–
LỜI BẠT MỘT TÁC PHẨM ( truyện dài )
–
NHỮNG VIÊN ĐẠN ( truyện ngắn )
Đêm
trước ngày triệu tập
Đêm,
nghe hơi thở cầm canh
sớm
mai còn ngấn lệ quanh mắt người
ơn
em hàm chút ơn đời
buồn
chia chưa đủ môi cười tiễn nhau.
Cầm
bằng bước lỡ mai sau
tóc
xưa đã cắt ngang đầu làm tin
chẳng
chân cứng cũng đá mềm
chẳng
quên đời thảng thốt quên từng ngày.
–
Cầm bằng ta hạt bụi bay.
Số
3c đường…
Bước
đi, tội nặng hai vai
đá
xanh vết lở đường dài cơn đau
đến
đây, bè bạn trước sau
gốc
xưa xác lá ngọn sầu quê hương
đến
đây, nghiêm cấm linh hồn
cỏ
lên hoang phế bụi chôn tháng ngày
cửa
ơi đóng nhẹ bàn tay
gió
ơi tiếng khẽ đêm hay giật mình
kẽm
gai nhọn huyết bình minh
hoàng
hôn như bịt mắt nhìn thấy đâu
thương
ta sợi tóc trên đầu
mọc
thân trên ghế để râu quanh hàm
–
thương ta thơ cũng lầm than.
Tình
khúc cho vợ
Ví
người thắt cổ ta, đây
dây
oan xin hãy nhẹ tay-tơ hồng
treo
trên ngày tháng hư không
đêm
canh ác quỷ ngày trông gian tà.
Ví
người chết thế dùm ta
tiễn
người ta nguyện đưa qua chín tầng
cực
hình chia ở thế gian
vai
gông chân xích ta mang dùm người.
đường
đi ta vẫn ngậm cười
môi
hôn đã chạm nỗi đời biệt ly.
Ải
bắc
Biên
cương rừng giới bạt ngàn phủ
trùng
trùng núi đứng giáp đầu mây
đường
lên ải bắc dọc ngang lộ
muôn
dấu chân qua bạt lối này.
Ta
nghe tiếng vọng triền miên lũng
đỉnh
đá khua hay vực gió dồn
bụi
cát mù mù vó ngựa động
lòng
ta, mốc cắm vết suy vong.
Ta
lên ải bắc hỏi tin nhạn
hỏi
thời gian tìm nhạn môn mây
thủa
loạn ngôn trời đất cũng loạn
đất
cắt, trời chia, loạn cỏ cây.
Ngọn
suối nước khe dòng lịch sử
nghe
đâu đây gọi tiếng mơ hồ
cung
kiếm mấy đời đi giữ đất
chiến
bào da ngựa bọc biên khu.
Nhúng
bàn tay xuống trường giang lớn
năm
ngón như chạm mũi cọc chôn
nhớ
theo sóng lớp Bạch Đằng lộng
bóng
chinh phu đoạt dáo trên thuyền.
Ta
đi tìm lại đoạn đường tận
xưa,
Nguyễn Trãi ngồi ngun ngút thù
người
đi chân xích vai gông nặng
kẻ
quay về mài bút bình ngô.
Có
con nhạn trắng tung trời hót
bay
liệng giữa vòng nhớ ải quan
có
gã dân giã già cô độc
ngoái
lại trăm năm đã mỏi
Trái
tim người qua sông cửu long
Ta
về, một tấc lòng xuyên Việt
trách
gì sông nước cuộc bể dâu
ta
về vẫn hai bờ tâm huyết
người
nhớ sông, sông cũng bạc đầu.
Ta
vui từng bước chân ta bước
ta
vui úp mặt trong bàn tay
ta
vui sao lòng ta thổn thức
như
sông cuồn cuộn sóng hồn này.
Mười
năm về đời bên bờ bắc
mười
năm về nhớ xiết như sông
đợi
chuyến phà sang, gọi ký ức
nặng
lòng ta chiếc bắc giữa dòng.
Ai
vẽ mùa xuân chen sắc hạ
tháng
ngày trong trí nhớ như tranh
ôi
yêu dấu nồng nàn như cỏ
yêu
dấu như giọt nước trầm mình.
Và
lớp lớp thuyền đi ngang dọc
lớp
lớp người thủa ấy về đâu
ta
hiểu mỗi đời là hạt thóc
gieo
mầm cho đất một mùa sau.
Kè
đá thức trắng đêm sương phủ
huyền
hoặc trăng trên đá mài gươm
bỏ
núi xa rừng trăng viễn xứ
đá
sắt son lòng đá ngậm ngàn.
Ta
về, hồi tưởng sông truyền thuyết
chín
con rồng ẩn tích về đây
chọn
đất thiêng gửi dấu móng vuốt
qua ngàn năm sót chút hình hài.
Ta
về, tưởng giữa dòng trống giục
sóng
thét, bầy voi trận xuất binh
cuồn
cuộn đi như ngọn nước xiết
bóng
mây dồn theo bóng Quang Trung.
Hai
bờ chật quân ngồi nghỉ khát
dưới
mặt trời kết mảng qua sông
bạt
vía, kinh hồn lân bang giặc
về
phương nam thần thoại phương đông.
Thời
niên thiếu cha cho áo vải
áo
mẹ may thành giáp long bào
nước
có nguồn cây từ cội ấy
ơn
sâu, nghĩa cả nặng ngàn sau…
Ta
về, mưa nắng như trời đất
sông
nước chờ ta - dẫu mười năm
ví
ta còn sót chút nước mắt …
nói
làm sao chuyện của cõi lòng?
Ta
về nhật nguyệt soi vầng trán
Lịch
sử còn lưu dấu cổ kim.
Tử
lộ
Ta
về đây bụi đường dong duổi
ngọn
gió mùa vuốt mái da nhăn
người
lính cũ thành tên tù mới
cỏ
cây ơi còn nhớ gì chăng.
Điếu
thuốc đốt tâm can dị diệt
vết
thời gian khói ám vàng tay
ngày
tháng tận chiêm bao cũng tận
chỗ
dung thân chỉ trái tim này.
Cuối
bãi đầu sông dòng nước rút
đánh
thức ta đau nỗi nghìn thu
chợt
mất chợt còn như lẽ thật
chữ
tử sinh âu cũng điên rồ.
Đất
rã thịt xương trời sạch máu
chuyến
đời đi, nào, kể từ đâu
đứt
ruột ta bầm gan tháng sáu
mềm
thân ta dìm mắt đêm sâu.
Đồng
đội ta mấy người khuất mặt
giống
ma hờn quỷ khóc chờ đây
mưa
tạt run lòng ta u uất
chừng
nghe viên đạn mới phanh thây.
Độ
ấy em về trong hoang tưởng
áo
tiểu thư phong kín chiều tà
ta
gửi mắt, gửi môi, gửi tóc
bứt
cỏ vàng thay một cành hoa.
Điểm
gở ấy báo tin định mệnh
ta
biết tìm đâu lỗi đất trời
giữa
đồng gió còn xanh hẹn ước
ngôi
mộ nằm trắng toát mầu vôi.
Ta
nguyền rủa ta sao chẳng chết
cớ
gì thiên hạ giết em đi
ta
áo trận súng tay loạn nước
em
yêu là phản nghịch cớ gì.
Hai
mươi năm nhìn ra tử lộ
ta
khóc dùm ta nỗi chán chường
bầy
ngựa cũ già rong tứ xứ
cắm
đầu, không ngoảnh lại bắc phương.
KHOA
HỮU
No comments:
Post a Comment