Cung
Trầm Tưởng
Nhà thơ Cung Trầm Tưởng
“Mais où sont les
neiges d’antan?”
Mà những bông tuyết
thuở ấy bây giờ ở đâu?
François
Villon
Gửi
người bạn điệu đời Phạm Vũ, le dernier
des parisiens toujours pur et fidèle- người Paris cuối cùng mãi mãi thuần
khiết và thủy chung.
Với
nguyên nhung nhớ về les neiges d'antan-những
bông tuyết thuở ấy-và những kỷ niệm tinh khôi khác tôi có được về Paris của những
năm 1950, lúc tôi mới chớm tuổi hoa niên. Tuổi của
Râm ran vô thức hâm lồng
ngực
Sứ rỉ nhựa nồng đêm cẩm
nhung
và
của
Phuơng phi tình lớn
lên như thổi
Trên cánh đu bồng bềnh
Michèle
với
những buổi hẹn em quán nhỏ trên tả ngạn sông Seine, giữa một không gian văn hóa
đô hội
Đẹp
đối cân trong rừng dáng nét
Nhà thờ gôtích, tượng
Rôđanh
Thi ca hàm súc, âm
giao hưởng
Sầm uất nhân văn, hậu
trữ tình
Tất
cả đồng hướng về sự thăng hoa một cứu cánh
Tình yêu đôi cánh
nâng nhân phẩm
Bến ấm hồn vào thả
neo tâm
và
vinh tôn một hạnh ngộ
Qua môi tìm đến môi
vinh hiển
Tiếng hát thiên thần
hiển hiện lên
Được
nuôi dưỡng trong một môi trường văn hóa khoáng đạt lấy các đức tính xử thế của
con người như lễ độ, lịch sự, thanh tao, trang nhã, tế nhị, hiếu hòa, niềm nở,
trung hậu...làm nền móng cho một tương giao xã hội nhân bản văn minh, phóng
khoáng, thuận hòa, tuổi trẻ Paris thuở ấy-đa số có trình độ học vấn từ cấp tú
tài trở lên-hòa mình với quần chúng trong các buổi liên hoan nghệ thuật, lễ hội
hay các hình thức vui chơi tập thể khác với một tình thần cởi mở và một phong
cách háo hức nhưng không xô bồ, hoan hô nhưng không hò hét, cổ vũ nhưng không
thiên vị, đầy ắp nhiệt tình nhưng không buông thả thác loạn, mang mỹ học vào cuộc
sống với ở sao cho đẹp và sự hài hòa vào văn hóa hưởng lạc với
Cái vui cũng khéo pha
nồng độ
Đọc sách công viên,
xiếc quảng trường
Là
như thế cung cách ăn ở ý nhị tôi học được của tuổi trẻ Paris thời hoàng kim,
lúc tôi mới tập tễnh bước vào tuổi hai mươi còn hoi mùi sách vở. Và cho đến nay
sau hơn nửa thế kỷ có lắm vật đổi sao dời, với sự ngự trị ngày càng quy mô và lấn
át của một thứ chủ nghĩa duy đô vật lấy đồng đô la và những giá trị vật chất nó
tạo ra làm hai điều kiện tất yếu hàng đầu để mưu cầu hạnh phúc cho con người,
và với sự xâm thực ngày càng thô bạo vào văn học và nghệ thuật của một thứ chủ
nghĩa hậu hiện đại máy móc, thô thiển, rởm đời, tôi lại càng luyến tiếc Paris
thời hoàng kim ở đó tôi đã may mắn có được những ngày tháng tốt đẹp nhất của đời
mình.
Với
một tâm thái như vậy, tôi đọc câu thơ dẫn trên của nhà thơ Pháp François Villon
(1431-1489) với cảm giác như đang đọc một luyến niệm ca về Paris thuở chưa bị
biến chất bởi những tệ đoan của lối sống duy đô vật như hiện nay. Thuở nó còn
nguyên vẹn là chính nó-một chốn ngàn năm đô hội với tất cả sắc vẻ huy hoàng mà
từ ngữ này gợi lên cho chúng ta. Thuở nó còn là một trung tâm giao lưu văn hóa
hàng đầu của thế giới, nơi xuất phát và chổ đổ về của các tư trào tiến bộ và
tinh hoa nghệ thuật của loài người. Thuở nó còn là một thứ Tràng An trong truyền
thuyết Trung Hoa của các tài tử văn nhân, trai thanh gái lịch đến từ tứ xứ.Thuở
nó còn là thành phố ước mơ của tuổi trẻ toàn cầu, đối tượng của ngạn ngữ dân
gian "Voir Paris et mourir"- Phải thấy Paris đã rồi mới chết.
Riêng
cá nhân tôi đã tìm được ở Paris một không gian nhân sinh thuận lợi-thứ đất lành
chim đậu-cho tôi có cơ hội để phát triển đời sống trí tuệ của mình, sống một cuộc
sống sung mãn, thanh thỏa, quảng giao, phóng khoáng, hòa nhã, ở đẹp với mọi người,
nhờ đó mà gieo được những hạt mầm tốt cho việc hình thành con người tương lai của
mình.
Đối
với tôi, những bông tuyết thuở ấy của Villon là một biểu tượng tuyệt vời của những
kỷ niệm tinh khôi tôi có được về Paris thời hoàng kim. Chẳng hạn nụ hôn đầu nồng
nàn ấm mịn Michele trao cho tôi trong buổi khiêu vũ tại một câu lạc bộ tuổi trẻ
ở Xóm Học trong một đêm Giáng Sinh có những bông tuyết trắng trinh nguyên đang
nhảy múa ở ngoài trời; hay cuộc liên hoan ca-vũ-nhạc gitan tưng bừng, náo nhiệt,
lộng lẫy trong khuôn viên Vườn Lục Xâm một ngày đầu xuân nắng ấm lung linh với
Cả nàng là ngút ngàn
diên vĩ
Điệp khúc kim cương,
biến tấu vàng
***
Về
mặt lý luận, triết học là phương pháp tư duy tối ưu để tìm hiểu ý nghĩa uyên
nguyên của sự tồn tại của con người và sự vật. Vì vậy, triết học được hơn một
nhà phê bình thi ca sử dụng để tìm hiểu bản chất của nó.
Chẳng
hạn Jean Paul Sartre đã dùng học thuyết hiện sinh của mình và phân tâm học để
phân tích thi phẩm nổi tiếng Les Fleurs du Mal-Những đóa hoa nở từ miền đất xấu-của
Charle Beaudelaire. Theo ông, thi phẩm đó có một giá trị nghệ thuật cao nhưng
không đích thực, bởi vì nó không phản ánh đúng cuộc sống ngoài đời của tác giả
vốn là một tay ăn chơi phóng đảng và mắc bệnh phong tình. Nó thật ra chỉ là một
thủ thuật ngôn ngữ tinh vi nhằm đánh lừa người đọc, tạo ra cho họ một cảm giác
là tác giả đã ngoi lên khỏi sự sa đọa của mình như một đóa hoa nhô lên từ một
ao bùn nhơ nhuốc, trong khi thực sự ông vẫn tiếp tục tới tận cuối đời cuộc sống
ăn chơi đồi trụy của mình. Sartre cho đó là một hành vi thiếu lương thiện.
Còn
Martin Heidegger thì đứng trên quan điểm hữu thể học của mình để nhận xét về
thi ca của Hoderlin. Theo ông, thi ca đó không những chỉ diễn tả sống động những
cảm nghiệm uyên nguyên về ý nghĩa cơ bản nhất của sự hiện hữu của con người mà
còn phản ánh trung thực con người thật của tác giả. Một thi ca như vậy thì là sự
hắt chiếu lên mặt bằng của nó con người sống ngoài đời của tác giả. Nói theo
cách nói của hiện tượng luận, nó là sự nới ra hữu cơ của con người thật của tác
giả. Với tính cách này, nó là một poesie authentique-một thi ca đích thực.
Nói
chung, nhận định trên hàm ý rằng một tác phẩm đích thực và tác giả của nó là một
nhất thể bất khả phân cách. Một thi ca mà thiếu phẩm chất đích thực thì chưa phải
là một thi ca hoàn chỉnh.
Theo
nhận xét chủ quan của chúng tôi, đó là lý do tại sao Heidegger cho Hoderlin là
thi sĩ của những thi sĩ.
Còn
chúng tôi thì dựa vào mối tương quan chặt chẽ mà chúng tôi phát hiện được giữa
một số quan điểm hữu thể học của Heidegger và những vần thơ hoài cổ của ba nhà
thơ Bà Huyện Thanh Quan, Trần Tế Xương và Villon để tìm hiểu uyên lý, tức nguyên
nhân của những nguyên nhân, tại sao những vần thơ đó lại được cho là bất hủ,
nghĩa là chúng sẽ ở lại mãi mãi trong trí nhớ bất tận của người đọc của muôn
thuở.
Trước
khi vào đề, xin thông báo bạn đọc là một số điều chúng tôi trình bày sau đây dựa
vào một số giải thích có tính chuyên môn của tiến sĩ triết học Nguyễn Quang Hiệp
về hữu thể học của Heidegger đăng tạp chí Khai Thác Thị Trường số 102.
Con
người là một hiện thể của hai thực thể vật chất và tinh thần. Thực thể tinh thần
được Heidegger gọi là Hữu Thể. Theo ông, Hữu Thể tổng quát gồm có Hữu Thể con
người và hữu thể của sự vật. Ông cho rằng có sự khác biệt căn bản giữa Hữu Thể
và vật thể, và ông gọi sự khác biệt này là một phân biệt bản thể học-ontological
difference. Vì vậy, sự con người bị tha hóa thành một vật thể là hình thức vong
thân tồi tệ nhất của nó.
Sau
khi chủ nghĩa duy vật Mac-xit bị chôn vùi dưới đống tro tàn của lịch sử, con
người vẫn tiếp tục bị tha hóa thành một vật thể, nhiều khi còn bị coi là một
hóa phẩm trên thị trường, bởi một lối sống tân duy vật chủ nghĩa cực đoan khinh
thường những giá trị tinh thần và coi trọng những giá trị vật chất như là nền tảng
hàng đầu của lối sống hiện đại mà nhiều người cho rằng phải là như thế thì mới
văn minh.
Sự
Heidegger có ý viết hoa từ Hữu Thể của cụm từ Hữu Thể con người hàm ý rằng Hữu
Thể tiềm ẩn trong con người, nhưng con người, nhất là con người thường nhật
(the daily we, le on quotidien) thường không nhận ra Hữu Thể, dù rằng nó có một
hiểu biết nào đó về Hữu Thể. Nó chỉ nhận ra Hữu Thể khi lâm vào những tình huống
bất bình thường được gọi là những tình huống tới hạn-situation limite. Chẳng hạn
tình thế ngặt nghèo của một người bị bạo bệnh giáp mặt với cái chết; hoặc tình
cảnh đau khổ tột cùng của một người chồng mà người vợ thương yêu vốn là lẽ sống
của đời mình vừa mới vĩnh viễn ra đi; hoặc hoàn cảnh rợn rùng của một người bỗng
cảm thấy một nỗi chán ngắt hiện sinh-ennui existentiel-khiến cho hắn có cảm
giác là cả mình lẫn cái khối trời đất quen thuộc của mình như đang bị cuốn tuột
vào một lỗ đen hun hút bí hiểm.Mà chỉ trong khoảnh khắc hãi hùng đó, khi lo âu
đan xen một sắc màu tuyệt vọng, hắn mới ngộ ra ý nghĩa cơ bản nhất của sự hiện
hữu của mình: đó là tính không vĩnh hằng, tính phù sinh của con người. Mà chỉ
khi nào cảm thấy mình luôn luôn đứng trước cái chết, con người mới thấy giá trị
đích thực-một giá trị hiện sinh-của từng lát giây của cuộc đời.
Chung
quy lại, chỉ khi nào con người lâm vào những tình huống tới hạn như trên chẳng
hạn, Hữu Thể mới nhô ra khỏi bóng tối kín mịt thường che giấu Hữu Thể của cái
en soi, tức cái tự thân, của con người để xuất lộ lên màn ảnh ngộ thức của nó.
Cũng
như Chúa Trời sinh ra Ngôi Lời Nhập Thể để triển dương Chân Lý của Chúa Trời
nơi trần thế, Hữu Thể phải cần đến một tiếng nói đặc biệt nào đó của con người
để triển khai Chân Lý của Hữu Thể trong nhân gian. Trong chiều hướng đó,
Heidegger thường dẫn thơ của Hoderlin mà ông ngưỡng mộ để diễn giải nội dung của
những tư tưởng triết học trừu tượng của mình. Còn chúng tôi thì dựa vào hai câu
thơ
"Đêm nghe tiếng ếch
bên tai
Giật mình còn tưởng
tiếng ai gọi đò"
của
nhà thơ Trần Tế Xuống để giải thích nhận định không phải là dể hiểu đối với một
người đọc ngoại đạo của Heidegger theo đó Hữu Thể yêu cầu con người hãy trả lời
tiếng gọi của Hữu Thể.
Một
tiếng ếch nghe thấy bên tai trong một đêm khuya vắng mà làm cho người nghe phải
giật mình tưởng đến tiếng ai gọi đò thì ắt phải hàm chứa một ý nghĩa nhân sinh
hệ trọng nào đó. Ở trường hợp cụ thể của Trần Tế Xương, ý nghĩa này là cái lẽ
vô thường của đời người ông bỗng ngộ ra nhờ nghe thấy bên tai tiếng ếch đó. Một
tiếng ếch mà có tác dụng nhân sinh kỳ diệu đến thế thì không là gì khác hơn biểu
tượng của một thi ca có chiều sâu tư tưởng phản ánh cái diện mục bản lai của sự
hiện hữu của con người. Một thi ca như vậy là một thi ca hữu thể học, và tiếng ếch
của nó do đó có giá trị của một tiếng gọi, và tiếng gọi đó chính là của Hữu Thể
để nhắc nhở con người về diễn mục bản lai trên.
Nhận
định trên cho thấy hai câu thơ của Trần Tế Xương là sự trả lời thấu lý tiếng gọi
của Hữu Thể. Với tính cách này, nó là một trả lời hữu thể học, với ai đó chính
là hiện thể Da-sein ở đó (being there, etant là) của Hữu Thể, và đò đó chính là
biểu tượng của phận người nổi trôi trên một dòng đời đầy bất trắc và lắm đổi
thay. Mà phải có cái giật mình sửng sốt kiểu Trần Tế Xương-một cái giật mình
siêu hình-thì mới nhận ra chân lý của những chân lý: đó là Chân Lý Hữu Thể.
Heidegger gọi sự nhận ra này là sự vén lên tấm màn (unveiling, devoilement) thuờng
che giấu Hữu Thể nơi con người.
Một
ngôn ngữ thơ như vậy không những chỉ đơn thuần diễn tả thấu lý và sống động cái
cảm nghiệm uyên nguyên về Chân Lý Hữu Thể mà còn chính là sự xuất lộ ra ngoài
ánh sáng của Chân Lý Hữu Thể. Với tính cách này, nó hơn là sự trả lời sâu sắc của
con người khi nghe ra tiếng gọi nó của Hữu Thể mà chính là tiếng nói của Hữu Thể.
Thi
ca nào mà có một ngôn ngữ hữu thể học như vậy thì được Heidegger gọi là poesie grave-một trầm tưởng thi.
***
Ở
những bông tuyết thuở ấy của Villon và hồn thu thảo của Bà Huyện Thanh Quan, ta
nhận ra hình và hồn của thực thể tinh thần hoài cổ, một góc cạnh của thực thể
thi ca. Ta hãy triển khai nhận định khái quát này thông qua việc tìm hiểu cặn kẻ
hơn về những sắc thái ý nghĩa của tinh thần hoài cổ trong thi ca.
Bài
thơ Thăng Long Thành Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan được chọn là đối tượng của
việc tìm hiểu này.
Nhìn
theo góc độ của hữu thể học, hoài cổ là một thực thể tinh thần, tức Hữu Thể, của
con người thơ có tính lịch sử. Ở trường hợp Bà Huyện Thanh Quan, hoài cổ là một
hồi tưởng thấm nhuần hương sắc của một ngôn ngữ thi ca trữ tình ưu hạng và hào
quang của một lịch sử huy hoàng đã qua đi. Vẻ huy hoàng này được cụ thể hóa
thành "lối xưa xe ngựa" và"nền cũ lâu đài", với xe ngựa và
lâu đài là hai biểu tượng đậm nét của lối sống sầm uất và có văn hoá của thị
dân thuở Thăng Long còn vừa là một thủ đô ngàn năm văn vật, vừa là một đô hội
phồn hoa.
Vẻ
đẹp tinh thần của bài thơ xuất phát từ vẻ đẹp tinh tế của tâm hồn Bà Huyện. Nó
được tôn lên hàng một vẻ đẹp thi ca bởi cái ngôn ngữ thơ có một sức biểu cảm dồi
dào, sâu sắc và một vẻ đẹp cổ điển trang nhã và cân xứng.
Nhìn
theo góc độ của hiện tượng luận, vẻ đẹp của ngôn ngữ bài thơ là sự đơm hoa kết
trái của vẻ đẹp tinh thần của nó. Vẻ đẹp đó mang lại cho vẻ đẹp tinh thần một sắc
thái đặc thù, sống động, và chính nó mới là uyên lý-nguyên nhân của những
nguyên nhân-của sự ở lại với thời gian của bài thơ.
Còn
nếu nhìn theo góc độ của hữu thể học, thì vẻ đẹp của ngôn ngữ bài thơ là sự xuất
lộ ý nghĩa lên mặt bằng bài thơ của thực thể tinh thần hoài cổ. Mà một ngôn ngữ
thơ có vẻ đẹp hữu thể học như vậy thì là hiện thể của Hữu Thể. Và với tính cách
này, nó được Hữu Thể đến với và chọn làm chỗ nương gửi, nhà ở (abode, demeure)
của Hữu Thể.
Sông đăng vào tá túc
Thấu đáo một bờ thơ
Chở che lời tuất trợ
Nghe Sông có gọi bờ
CTT
- 1985.
Nói
đến hoài cổ cũng là nói đến sự so sánh phẩm chất của lối sống hiện đại với của
lối sống trước kia.
Về
mặt vật chất, lối sống hiện đại là một tiến bộ vượt bực so với lối sống cũ.
Nhưng về mặt tinh thần, nó là một bước thụt lùi lớn dẫn đến một cuộc khủng hoảng
nhân sinh quan nghiêm trọng mà con người đang phải trải qua.
So
với con người trước kia, con người hiện đại sống căng thẳng hơn, trằn trọc hơn,
lo âu hơn, bất ổn hơn, bi quan hơn, tiêu cực hơn, thiếu đích thực hơn, mau quên
hơn, vô ơn hơn, bạo động hơn, v.v...Nói vắn tắt, con người hiện đại sống không
có hạnh phúc như con người xưa.
Qua
lăng kính của nhận định trên, ta thấy được lý do tại sao niềm hoài cổ của Bà
Huyện Thanh Quan lại xót xa đến thế. Một người đọc hiện đại mà chưa đánh mất
mình thì cảm thấu được vẻ đẹp làm đứt ruột của các vần thơ:
"Đá vẫn trơ gan
cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với
tang thương"
và
"Cảnh đó người
đây luống đoạn trường" của Bà Huyện.
Nói
chung, hoài cổ là sự nuối tiếc về những cái gì tốt đẹp đã qua đi-những bông tuyết
thuở ấy của Villon. Chẳng hạn một thành phố cổ có những di tích lịch sử vô giá
và một cấu trúc vật thể đặc thù tiêu biểu cho một thời đại văn minh nào đó đã bị
chôn vùi bởi sự tàn phá của thiên tai hay nhân hoạ; hoặc một lạc cảnh trần gian
ở đó con người có một đời sống sung túc, thái hoà, tràn đầy hạnh phúc và thi ca
được tôn lên ngôi nữ hoàng của nghệ thuật, nhưng nay vì một bất hạnh nào đó gây
ra bởi lịch sử, nên chỉ còn hiện hữu trong tâm tư hoài cổ của con người, nhất
là thi nhân vốn là một tâm hồn đầy ắp những hương xưa sắc cũ vì có trí nhớ thủy
chung của một viện bảo tàng vật cổ; hoặc những thuần phong mỹ tục-cái cốt chất
tinh thần, tức quốc hồn-của một dân tộc bị xóa sổ bởi chủ trương san bằng quá
khứ của một nhà nước độc tài cực tả hay bởi chính sách đồng hoá thô bạo của một
đế quốc thực dân xâm lược tự cho mình là bậc thầy của thiên hạ, v.v...
Ở
tâm hồn một thi nhân mộ đạo, đạo Thiên Chúa chẳng hạn, ngoài là sự nuối tiếc về
một lạc cảnh trần gian như trên, hoài cổ còn là một hoài tưởng siêu hình về một
Xứ Trời gọi là Thiên Đàng mà tiền thân thiên thần của thi nhân đã bị đuổi khỏi
vì không nghe lời răn của Chúa Trời, nên bị đày xuống trần gian để chuộc tội.
Cái
tật mà cũng là thiên tài của thi nhân là, vốn là một nòi nặng tình với quá khứ
và chỉ nhớ những cái gì đáng nhớ, thi nhân không thể sao quên được tội gốc ấy
mà tiền thân của những tiền thân của mình đã mắc phải, nên những vần thơ thân
phận thi nhân làm ra không thể không đượm một sắc màu sám hối đan xen một luyến
niệm về thuở mình còn là một thiên thần và tâm hồn mình còn trong trắng ngây
thơ như những bông tuyết thuở ấy của Villon.
Mức
độ sâu sắc của niềm luyến niệm về một thiên đàng đã mất ấy của thi nhân quyết định
tầm vóc của những vần thơ thân phận thi nhân làm ra nhân danh loài người.
CUNG
TRẦM TƯỞNG
Minnesota một ngày cuối
thu 2017
No comments:
Post a Comment