Hồ
Đình Nghiêm
Trung Thu xóm nghèo
Bắt đầu là tiếng “Huế
mềnh” đặc sệt của một gã lưu vong đã ở xứ lạ quá nửa đời người- gợi nhớ một lần
nghe ông Cao Xuân Hạo giải thích về khuynh hướng “càng ly tâm càng hướng tâm”
khi tôi thắc mắc vì răng người Nam bộ vốn nổi tiếng ăn nói mộc mạc, giản dị mà
trong ca dao tục ngữ lại giữ một lượng lớn thành ngữ Hán Việt cổ điển- rồi đến
giọng “u-mua” lẫn tí mùi tán gái cợt nhã, bụi bờ, mà pha được điệu ngậm ngùi thế
sự mới tài! Tôi cho nó phải là một trong những đặc trưng lối văn Hồ Đình
Nghiêm.
“Khúc đưới” (phần dưới)
của o Ngà được chính đương sự nhận là xấu- tiếc là người kể không nói rõ thêm
“đưới” nớ ra răng mà chịu xấu rứa!- nhưng khúc đưới (kết) của truyện ngắn thì
“couldn’t be better”.
Cảm ơn Nghiêm: Cái
đau của đời có khi hơn… hoạn thiệt, nhưng cái đau văn chương đem lại đâu chỉ
thuần thương đau.
Nguyễn Thanh Văn
Sài Gòn
Long
người Nam, từ Sài-gòn ra trọ học, ở gần nhà và học cùng lớp nên chúng tôi làm bạn
với nhau. Lối ăn mặc, cách tiêu pha có vẻ như con nhà khá giả. Hắn lỡ phạm một
lỗi lầm nào đó, nên ra Huế, với hắn là bản án lưu đày mà gia đình đã tuyên xử,
nỡ xuống tay. Thức ăn cay, mưa gió rả rích, phố xá nhỏ chật… hắn có thể tìm ra
cả vạn lý do để minh định lập trường: Không cảm tình với Huế.
Một
bữa, Long ghé nhà, hậm hực. Hình như đương sự có chửi thề. Tôi đang nằm đọc cuốn
“Uyên ương gãy cánh” và những hình ảnh thơ mộng trong cuốn sách đã bị tước đoạt
trong nháy mắt. Tôi hỏi, để được biết là hắn đi may một cái quần tây khá đắt tiền
nhưng khi mang về thì phát hiện rất nhiều lầm lỗi. Thất bại! Hắn nói. Đó là chữ
hắn thường dùng để chấm câu. Uống một cốc cà phê hơi nhạt. Thất bại! Mua một quả
cam chua. Thất bại! Tất cả đều thất bại. Tựu thành một việc hằng mong mỏi, chưa
bao giờ nghe hắn nói: Thành công.
Tôi
trấn an, chuyện gì cũng còn có đó, ông may quần ở đâu?
Hắn
có chiếc xe gắn máy, Honda 65 phân khối chở từ “trỏng” ra, gắn bảng số quận 3
Sài-gòn. Hắn từng giựt le với đám bạn học về cái sự bốc của chiếc xe và cả đám
đều xuýt xoa, y như rằng cái con “hắc mã” đó là độc nhất vô nhị ở cái xứ hiếm của
lạ luôn trầm mặc này. Chạy mau lắm thê, không phải nói trạng mô nợ. Một vài đứa
trong lớp gốc gác ngoại thành phát biểu cảm tưởng. Tôi leo lên yên sau, ôm bọc
giấy gói kín chiếc quần không như ý để hắn bốc tới nơi gây phiền hà. Tiệm nằm
ngoài phố, bảng hiệu có người ra công vẽ sơn hình tháp Eiffel đồ sộ như thể cầu
chứng, mang tay nghề về từ kinh đô ánh sáng.
Tiệm
vắng, đứng bên chiếc bàn dài là người đàn ông tóc tém lui sau, chải mượt bóng dầu
mỡ thấy rõ sự chuyên cần mà răng lược đã cày qua. Áo bỏ vào quần tươm tất, điệu
đàng, đỏm dáng. Tiếc một điều chân mang dép cao su mòn vẹt và ông xứng đáng để
đại diện cho những người thiếu thước tấc. Ông cao ngang vai tôi, cổ ông có sợi
thước dây vắt tròng, vật trang sức như ta thường thấy nơi mấy vị chuyên nghề đo
đạc.
Ông
tính nói điều gì đó nhưng thoáng cau mày khi nhìn ra thằng bạn tôi. Hẳn ông đã
đánh hơi ra chuyện thất thường. Hai đứa ni tới để kiện tụng chớ không phải mua
sắm may mặc. Chúng tôi đã lựa thời điểm là sau buổi trưa, tránh giờ mở hàng “mất
mì xưa” của chủ tiệm, mình chưa nói năng họ đã càm ràm nghe cũng ngán.
Rồi
cái quần được trải thẳng trên mặt bàn dài. Tôi như đứa thông ngôn vì có khi mặt
bạn tôi nghệch ra, ú ớ không hiểu lời phân trần. Tui đồng ý là khúc trữa có hơi
bị nhăn nhíu, nhưng khúc đưới và khúc côi ni, anh xem đi, phải nói là khéo tay.
Hàng vải ni rất khó may, anh thông cảm để tui chỉnh sửa lại. Côi, trữa, đưới.
Thất bại, phải không? Tuy thương hiệu có vẽ cái tháp biểu tượng của Paris,
nhưng ổng hổng nói tiếng Tây tiếng u đâu. Đậm đà bản sắc địa phương đó nợ, chớ
mô lai tạp đầu Ngô mình Sở: Chín giờ kèn thổi “cu-sê”, thôi em ở lại anh về
“áp-bên”. Coucher là ngủ ngáy mà appel là điểm danh, nôm na là tục tác gọi gà về
chuồng, trời túi hung rồi.
75
là cú thổi “áp-bên” đầy xao xác khiến giấc “cu-sê” mãi không tròn giấc, hoặc có
người làm cú “cu-sê” dài dằng dặc, dài miên man. Tất cả ngác ngơ lạc hồn như gà
con mất mẹ.
Bữa
nọ tôi ngác ngơ đi vào chợ trời để bán bộ áo quần còn lành lặn thì có người con
gái gọi đúng tên tôi. Chiếc nón lá, quai lụa tím, tóc ngang vai. Tôi ngó và tôi
tưởng tai mình nghe lầm. Tôi chẳng thể nhìn ra chút gì quen thuộc nơi khuôn mặt
lạ lẫm kia. Anh Long bữa ni trốn ở chỗ mô hả anh? Long hả, thì nó vào lại
Sài-gòn từ khuya, từ độ xấc bấc xang bang ai cũng giỏi chân tháo chạy. Có còn
mô đây mà hỏi. Cô là chi của hắn? Chuyện dài lắm, lôi thôi lắm, làm răng nói
năng? Chứ anh đi mô đây? Ôm kè kè cái bọc chi rứa?
Cô
tên Ngà, đang hành nghề mánh mung. Cô thật thà khai báo. Cứ đi lòng vòng, gặp
con nai vàng cỡ như tôi thì nhảy ra chận đầu, mua đi bán lại thứ “chà đồ nhôm”
chôm đồ nhà. Thượng vàng hạ cám đều có thể tiêu thụ giữa thời buổi lắm phong ba
mãi làm sấp ngửa.
Anh
kẹt tiền hung? Ngà hỏi. Ai mà không kẹt. Tôi trả lời. Cần tiền để trang trải
chuyện chi? Ậy, cà phê thuốc lá cũng xúi mình tằn tiện việc ăn việc mặc vậy. Cứ
nhất y độc quỡn cho giống với người ta. Lạnh thân chứ không thể buồn miệng.
Nhờ
Ngà, bộ áo quần lành lặn của tôi bay biến rất mau. Ngà đưa tôi nạm tiền rít rát
như biết ứa mồ hôi, chất giấy xấu như thứ dành để cúng cô hồn. Em không lấy tiền
công, anh có thể bao em một chầu cà phê cà pháo không?
Tôi
chở Ngà ra tới đầu đường, chun vô ngồi dưới một mái tồn che nắng của cái quán
nước tả tơi ghế bàn. Nền đất nện không phẳng, ly tách không đồng dạng, cà phê
bít tất nằm trong cái ấm đen thui bắt trên kiềng ba chân có ngọn lửa mãi táp. Mấy
thanh củi ẩm làm cay mắt. Hai đứa ngồi xuống ghế nhựa, phải xê dịch đôi chút mới
tìm được sự quân bình. Một cà phê đá một chè đậu đỏ. Thằng nhỏ ở trần nói vọng
lui sau, nơi có sợi dây thép chùng mãi rung động ba cái khăn nhàu rách đang phơi.
Ngà ngồi gần, tôi ngó vô áo bà ba và thấy một đường khe rám nắng. Hình như vì
trời oi bức, chẳng thấy bóng dáng chiếc xu-chiêng. Vóc vạc, mặt mày, tay chân,
hình thể, tôi đoán tuổi Ngà khoảng hai chục, hoặc nhỏ hơn.
Em
luôn loanh quanh khu chợ trời này, lần sau kẹt tiền nhớ chạy vô hú em một tiếng.
Ngà nói khi nhìn chiếc xe đạp tôi dựng bên một gốc cây. Cây thưa lá nên nắng
chang chang trên vuông đất khô. Tôi cũng thấy mình kiệt cạn dần, rụng từng ngày
nghèo đủ thứ, nghèo tới độ có muốn đăng ký làm dân vô sản cũng bị họ chê bai,
không đủ tư cách. Một ngày chẳng xa, tôi sẽ bán chiếc xe đạp ấy, tài sản giá trị
cuối cùng để thoi thóp đón đợi tin vui. Người tôi yêu đã vượt biên, chả thèm ư
hử. Tuy đau lòng nhưng tôi mãi mong cho người đến được bến bờ trong an lành. Cả
tháng dài lâu chưa nghe vọng động. Ở ngoài chợ có bà bán cá thấy trong ruột nó
lấp lánh chiếc nhẫn đính hột kim cương. Nghe lạ không? Chẳng lạ, nhưng nên
tránh ăn cá biển. Ăn cá sông hồ và con nào càng nhỏ càng tốt. Hừ, tiền đâu mà
mua cá to?
Cà
phê cạn dần, hột đậu đỏ cuối cũng đã mắc vào kẽ răng Ngà, chuyện vãn nhạt thua
cả nước đá; cuối cùng tôi bới móc về dấu hỏi vĩ đại: Vì răng em quen Long để rồi
biết tới tên anh? Ngà đổi thế ngồi, tay cầm nón quạt lia quạt lịa, tóc Ngà phất
phơ mà mặt tôi cũng đón được chút gió thơm mùi mồ hôi dầu của đương sự. Chừng mỏi
tay, Ngà đưa mấy ngón mân mê sờ soạng chiếc quai lụa, mặt cúi xuống. Anh còn nhớ
cái bữa mà hai người chạy tới tiệm may để ca cẩm kiện tụng chiếc quần tây
không? Có thể là anh không biết chuyện ni, sau bữa nọ, chẳng biết răng mà anh
Long siêng trở lui để may áo quần. Em ở dưới quê lên học nghề, hay đúng ra là
lo cơm nước cho chú Quý, chủ tiệm. Ngồi khuất sau màn chờ nghe sai việc, nay
đơm bộ khuy, mốt thì chạy u đi vắt sổ, giặt khúc vải, ủi cái áo… Chú Quý nói,
tao chịu đèn cái thằng Sè-gòn đó rồi. Hắn nhiều tiền, không ưa mặc cả, dễ tính,
là hạng người mà mình có chặt đẹp hắn cũng mần thinh. Hắn ưa ngủ đò cho biết sự
tình mà tao can ngăn, vui thú chi nơi mà ham, chưa kể dây dưa tới bịnh tình.
Chú đưa em tám ngàn, nói mi ngủ với hắn chút xíu có chết đi mô mà sợ. Em nhắm mắt
đánh liều cho anh Long ưa làm chi đó thì mặc sức làm. Em thì ốt dột mà anh Long
thì gà mờ, loay hoay chi chút mà cũng bở hơi tai. Anh nói: Thất bại! Lần khác
anh lợi sẽ uýnh một trận ngó đường hoàng hơn. Giờ thì anh phải dìa.
Tôi
có kinh nghiệm đau thương, là khi mà bạn đã lỡ bán đi một thứ gì đó, thì việc
làm kia nó tạo trớn để bạn thấy dễ dãi tiếp tục lần hai, lần ba, lần bốn. Cũng
có thể mang thành ngữ ra để giải thích, tựa như: Ngựa quen đường cũ, ăn quen
bén mùi.
Chừng
một tháng, sau khi gặp Ngà, tôi lại đạp xe vào “thị tại môn tiền náo”. Chỉ một
tháng mà lắm đổi thay, chợ nhộn nhịp, người mua kẻ bán đông chật hơn, phạm vi
được nới rộng ra. Duy có thứ vẫn bổn cũ soạn lại, vẫn một mực giữ nguyên, đó là
thần sắc người ngợm vô ra thảy đều lạc hồn xanh mướt chân đi xiêu lạc áo quần tả
tơi. Sáng ra đứng phố- ngồi hè, phồn hoa đô hội đâu dè thế ru.*
Ngà
rất mừng khi ngó thấy tôi, cái tở mở thành thực nằm đọng trong đôi mắt long
lanh. Ngà đủ thông minh để hiểu thấu cớ sao tôi dẫn xác vào chốn này. Ngà phủ
bàn tay lên những ngón tôi bấu vào gi-đông xe. Anh tìm em phải không? Chơ cớ
làm răng mà mặt anh xanh ngắt ra rứa? Tôi thiếu chất dinh dưỡng, bên bệnh viện
họ phán thế. Cậu thiếu vitamin, thiếu đủ thứ, A, B, C, D, E. Đừng có đi bán máu
nữa nhé. Tôi viết cho cậu tờ giấy chứng nhận để khỏi phải đi lao động xã hội chủ
nghĩa vào chủ nhật tới. Nên bồi dưỡng, nên tranh thủ ăn nhiều chất đạm vào. Nhớ
chưa?
Tôi
không nhớ gì cả. Tôi chỉ nhớ Ngà. Tôi thiếu vitamin N. Khủng hoảng thiếu. Trầm
trọng vắng. Tôi hỏi Ngà ở đâu? Ngà nói ở chung với đứa bạn buôn bán ve chai và
đồ đồng nát, gần chỗ ni, có điều tồi tàn lắm, cốt để tránh gió mưa. Chỉ chỗ đi,
anh chở em về. Anh đang nói chơi à? Nói chơi làm chi cho tốn hơi. Anh nói thiệt,
anh bán chiếc xe đạp ni cho Ngà, mua không? Ôn mệ ơi, tiền bạc mô đủ mà mua
anh. Đời em như tấm mền rách thì anh cũng đã chộ rồi. Bậy nà, anh chưa hề thấy
qua. Nói thiệt nghe, khúc đưới của em có hơi xấu, ở côi thì ngó tàm tạm, còn
khúc trữa? Chắc Ngà phải cho anh thấy mới nói năng linh tinh như ông Quý tiệm
may.
Ngà
cười một tràng trong vắt. Nếu tôi là bạo chúa sẽ bắt Ngà về cười suốt, thay vì
nghe tiếng xé lụa hoặc tiếng lửa reo bên doanh trại đối phương. Một tiếng cười
hưng phấn. Ngà nhảy phóc lên yên sau, mang nguyên cả cánh tay ra ôm choàng lấy
tấm thân gầy xé gió của tôi. Tôi cảm nhận được cái mềm mại của trái vú sữa nằm
gần khúc côi của Ngà. Thứ trái cây rám nắng tự nẩy nở lấy mà chẳng nhiêu khê
chín giú trong xú-chiêng.
Cửa
đóng then cài không lâu, tôi và Ngà lần lượt mở khóa cho nhau. Ngà mặc quần vải
mỏng có tròng giây thun ở lưng, thắt thỏm. Đói ăn bụng lép rồi giây thun đang tới
hồi lỏng, mất tính đàn hồi co giãn nên chi thoắt một cái là khúc trữa lộ hình.
Nó sẽ tiết ra một giòng sữa mật mà riêng viện bào chế chẳng chịu gọi là
vitamin. Nó sẽ bồi dưỡng cho tôi thứ mà văn học gọi trái cấm ở thiên đường nhiều
cám dỗ.
Tôi
ôm giữ lấy khuôn mặt Ngà. Tôi hôn vào môi khô đang bấn loạn thở. Tôi đồng ý với
anh là khúc đưới hơi thô thiển, nhưng phần côi và khúc trữa xoắn tít những cụm
chỉ rối vụng về tay gỡ, thì phải mạnh dạn để nói, đó là tặng vật của đời.
Tôi
vật Ngà xuống tấm chiếu có vẽ hình long phụng đưa móng bám giữ chữ Phúc. Hôm
qua, tôi nghe hung tin, người yêu tôi (người tôi yêu) đã bị rơi vào tay bọn hải
tặc Thái. Tôi đã chết, hôm qua. Và hôm nay, hồn ma tôi chợt hiện. Nó yêu Ngà để
nước mắt quỷ sứ tự dưng chảy hoen ra chiếu lạnh.
Tiếng
rao “Có ai bán nồi niêu chén bát sứt cọng gãy càng không” chẳng làm cho hai con
thú tật nguyền phân tâm. Chúng mãi chia ngọt sẻ bùi dưới căn hộ hoang sơ tựa một
cổ mộ mà thời buổi đương đại này chưa đủ chất xám để định hình, giải mã, rêu
rao.
* thơ Bùi Giáng
HỒ
ĐÌNH NGHIÊM
No comments:
Post a Comment