tạp
bút Nguyễn Âu Hồng
Sông Ba
Sông
Ba là một dòng sông kỳ diệu. Nó vừa êm đềm thơ mộng vừa “gờn gợn trên sóng bạc
những căm hờn”(Phạm Cao Hoàng), vừa đầy ắp trăng sao vừa “gầm lên cuồn cuộn
máu”(Khuyết Danh).
Xuất
phát từ đỉnh Ngọc Linh của Kontum, Sông Ba chảy “phía sau lưng” hai tỉnh Quảng
Ngãi và Bình Định, xiên xiên từ bắc xuống nam qua Gia Lai, Phú Bổn thuộc Tây
Nguyên. Khi vào lãnh địa Phú Yên, Sông Ba tiếp nhận thêm chi lưu Sông Hinh rồi
đổi tên thành sông Đà Rằng khi chảy qua đồng bằng Tuy Hòa.
Thời chiến Sông Ba-Đà Rằng chảy qua những vùng giao tranh ác liệt, đã chứng kiến nhiều trận đánh đẫm máu và một cuộc “di tản chiến thuật” đầy bi thương. Trong dòng nước thấm đẫm phù sa của nó có cả nước mắt và máu. Mùa lũ, nước tuôn chảy dữ dội, lẫn trong củi mục cành khô có cả xác gia súc và xác người.
Dòng
sông kỳ diệu này hưởng hai chế độ mưa: mưa Tây Nguyên và mưa đồng bằng ven biển
miền Trung. Chính vì vậy mà lắm lúc vùng ven biển mưa không lớn nhưng “nước đã
lên mênh mông” (Y Uyên). Nắm vững chu kỳ mùa khô-mùa lũ của dòng sông, cư dân sống
ven bờ vùng hạ lưu đã khai thác những “gò cát pha” là những gò nổi ngay giữa
dòng sông để trồng hoa màu và lúa ngắn ngày. Lúa bắp, hoa màu và cả hoa Tết trồng
trên những gò nổi này (tiếng địa phương gọi là soi) ít khi dùng đến phân bón vì
được phù sa bồi đắp hằng năm.
Ngoài
những ruộng lúa, soi bắp, soi dưa rải rác dưới sông, hai bên bờ, dọc các lũy
tre làng còn có những gò cát rộng lớn trải dài với hoa mầu đủ loại mà nhiều nhất
là bí đỏ. Xã Hòa Bình có bãi bí rộng lớn nhất vùng nên bị một câu ca dao châm
chọc, “Hòa Bình là Hòa Bình
còi/ Có ba bông bí cũng đòi đi phiên”. Nhưng bông
bí đâu phải là loại rau canh tầm thường, “Thương chồng nấu cháo le le/ nấu canh
bông bí, nấu chè hạt sen”.
Dòng
sông kỳ diệu hưởng hai chế độ mưa nên đồng bằng của nó có khi được phù sa bồi đắp
đến hai lần trong một năm. Đây là yếu tố thiên nhiên thuận lợi giúp duy trì độ
phì nhiêu và vệ sinh đồng ruộng. Một yếu tố vô cùng quan trọng tiếp theo là nguồn
nước tưới. Sông Ba cung cấp môt nguồn nước tưới dồi dào qua hệ thống thủy nông
đập Đồng Cam.
Bằng
sức sáng tạo và lao động cần cù, người dân Phú Yên đã khai thác hợp lý các yếu
tố thiên thời-địa lợi để xây dựng đồng bằng Sông Ba-Đà Rằng thành một vựa lúa lớn
nhất, thơm dẻo và thơm thảo nhất Miền Trung.
Khi
chỉ còn vài cây số nữa là ra đến biển qua cửa Đà Diễn (1), một cửa sông rộng đến
bát ngát, sông Đà Rằng được một chiếc cầu nối hai bờ nam- bắc. Đây chính là chiếc
cầu với những vòm sắt đen đủi
(Y Uyên) và những nhịp cầu đen buồn bã (Phạm Cao Hoàng).
Dòng sông kỳ diệu với chiếc cầu
dài nhất Miền Trung tạo điều kiện cho cuộc hội ngộ diệu kỳ của văn và thơ. Bài
này chỉ gói gọn văn xuôi Y Uyên và thơ Phạm Cao Hoàng.
…”Tuốt bờ sông bên kia
rải rác vài chiếc chuyền bất động mơ hồ. Dòng nước mỗi lúc như thêm dữ dội xoáy
quanh những chân cầu bao dây kẽm gai…Dòng nước quá mạnh. Con vật trôi mau…Thân
một cây dừa trôi sau con bò đã bang bang qua cầu…Chỉ có tiếng nước xoáy…” (Trích
“Tiếng Hát Của Người Gác Cầu”-Truyên ngắn Y Uyên)
…Mùa nước lớn nước
xuôi cuồn cuộn
bóng
chim qua soải cánh mù tăm
mây
xuống thấp cùng mưa buồn vỡ chết
anh
lặng thầm nay đã bao năm
Hỡi
những nhịp cầu đen buồn bã
có
buồn không những sớm mưa qua
có
se sắt như lòng tên đãng tử
đã
dừng chân đứng lại bên bờ
có
heo may như gió đầu tháng chạp
thổi
đầy trời, thổi giạt bóng mây xa”
(Trích “Những Nhịp Cầu Đen Buồn
Bã” thơ Phạm Cao Hoàng)
… “Cách đây bốn năm hôm
lòng sông còn cạn khô, nước đọng trong những vũng sâu rải rác, trâu bò còn đi
thung thăng dưới chân cầu. Bây giờ nước đã ngập hết những vết tích từ bãi cát đầy
vết xe nhà binh ở đầu cầu đến những gò cát nổi cao như những cù lao xanh um cỏ..”
(Y Uyên- Tiếng Hát Của Người Gác Cầu)
…
“Mùa nước cạn cát trùng trùng cuối bãi
cỏ
rêu kia xa cách đời nhau
anh
dõi mắt mà trông niềm ly biệt
như
dòng sông khô nước dưới chân cầu”
(Phạm Cao Hoàng-Những Nhịp
Cầu Đen Buồn Bã.)
…”Mưa chợt đổ xuống dồn
dập…Ngọn núi cao ngất đỉnh đội một phiến đá vuông, ở cuối khúc quanh vừa hiện
ra mờ mờ đã biến mất…”
(Y Uyên-Tiếng Hát Của
Người Gác Cầu.)
…”Bạn ta, bên kia sông
là núi
núi
của ngàn năm đá vọng bóng ngươi đi
núi
tiếp sông và sông tiếp biển
sông
tiễn người qua bên phân ly”
(Trích “Hành Phương
Đông”-Thơ Phạm Cao Hoàng)
…”Chết
mìn hôm trước đó. Một cái xe lam, một cái xe nhà binh, chết sáu mươi mấy người…Chết
vậy mà chỉ tét bụng, đứt chân, mất đầu chớ không nát bấy như hồi ở Dốc Đá. Mấy
xác người vô thừa nhận có một người đàn bà đầu ăng xuonngs sông tới hồi vớt lên
mớ tóc dài vẫn còn như cũ.”
(Trích “Bão Khô”-Truyện
ngắn Y Uyên)
…”Sông
ngậm ngùi vỗ sóng thiên thu
mùa
bão tới gầm lên hồi bi thiết
gờn
gợn trên sóng bạc những căm thù
bởi
máu đã nhuộm hồng sông nước.”
(Phạm Cao Hoàng- Hành Phương
Đông)
Y Uyên viết “Tiếng Hát Của Người
Gác Cầu” và ”Bão Khô” năm 1966, Phạm Cao Hoàng sáng tác “Những Nhịp Cầu Đen Buồn
Bã” và “Hành Phương Đông” năm 1971. Tuổi tác chênh nhau năm năm, thời điểm viết
về dòng sông và chiếc cầu cũng chênh nhau tương tự. Y Uyên rời Tuy Hòa nhập ngũ
và tử trận ở đồi Nora, Bình Thuận năm 1969; ít lâu sau Phạm Cao Hoàng tốt nghiệp
sư phạm về dạy ở Tuy Hòa. Người đi, kẻ đến (về), cả hai từng qua nhiều năm sống
ở Tuy Hòa, từng nhiều lần qua lại cầu Đà Rằng. (Phạm Cao Hoàng qua lại nhiều
hơn vì quê anh ở Phú Thứ xã Hòa Bình cách cầu khoảng mười cây số).
Dòng sông cùng với chiếc cầu phản
ánh nhiều mặt cuộc sống cũng như cuộc chiến ở hai bờ.
Nhà văn Y Uyên mượn dòng sông và
chiêc cầu làm nhân chứng cho những trang viết. Thế còn nhà thơ, làm thơ mà cũng
cần nhân chứng sao? Nếu không, giải thích sao đây về cuộc hội ngộ diệu kỳ giữa
văn xuôi Y Uyên và thơ Phạm Cao Hoàng như những phần vừa trích?
Nhà văn Y Uyên và nhà thơ Phạm
Cao Hoàng, hai chàng tuổi trẻ tinh anh phát tiết, không chỉ cùng đi trên một
chiếc cầu, cùng nhìn xuống một dòng sông mà còn gặp nhau trên con đường sáng
tác văn học, cùng nhận được thông tri bí mật từ nguyên lý sáng tạo. Đây là điều
chỉ những bậc tài hoa mới có cơ may ngàn năm một thuở.
Jan
2013 - Dec 2015
Viết
thêm:
Phần trên là cuộc hội ngộ lạ lùng
giữa văn xuôi và thơ, hơn bôn thập niên trước.
Gần đây xuất hiện một bài thơ viết
về Sông Ba cũng đấy máu và nước mắt:
TỔ
KHÚC SÔNG BA
Sông
Ba nghiêng nghiêng tìm hướng xuống Đà Rằng
nghiêng
về phía những đồi lau hoang mạc
Qua
những buôn làng xơ xác
mái
nhà túp lá che thân
Qua
những buôn làng trù phú
nhà
dài một tiếng chinh ngân.
Sông
Ba ánh lên nghìn ánh mắt
Cõi
lòng u uẩn hận căm căm
Tây
Nguyên bất khuất ra hờn uất
Tiếng
thác gầm theo tiếng núi gầm.
Sông
Ba gầm lên cuồn cuộn máu
Nước
hờn xô đổ bờ đất cao
Ô
hay nước mắt tuôn thành máu
Sóng
quặn lòng ai sóng cuộn trào!
KHUYẾT
DANH (2011)
Mời đọc lại mấy khổ thơ của Phạm
Cao Hoàng trong Hành Phương Đông (1971)
“bạn
ta, bên kia sông là núi
núi
của ngàn năm đá vọng bóng người đi
núi
tiếp sông và sông tiếp biển
sông
tiễn người qua bến phân ly
sông
ngậm ngùi vỗ sóng thiên thu
mùa
bão tới gầm lên hồi bi thiết
gờn
gợn trên sóng bạc những căm thù
bởi
máu đã nhuộm hồng sông nước.
Phải chăng đây là cuộc hội ngộ
bình thường của thi ca? Có thể kẻ khuyêt danh kia “thấy sang bắt quàng làm họ”.
Nhưng, lẽ nào từ thế kỷ trước sang thế kỷ sau, bốn thập niên qua, Sông Ba-Đà Rằng
vẫn tiếp tục hết “gầm lên hồi bi thiết”(PCH), lại “gầm lên cuồn cuộn máu”(KD)?
Dòng sông tiếp tục phản ánh cuộc
sống đôi bờ từ thượng nguồn đến hạ lưu, tiếp tục làm nhân chứng.
Nhưng, lẽ nào chiến tranh qua lâu
rồi mà dòng sông vẫn chưa được êm đềm thơ mộng, vẫn thiếu ánh trăng soi? Lẽ nào
vẫn tiếp tục “gờn
gợn trên sóng bạc những căm thù”(PCH) từ năm 1971 kéo dài đến năm 2011 “sóng quặn lòng ai
sóng cuộn trào”(KD)?
Vết thương chiến tranh đã lành
chưa mà lại khơi dòng lệ, đến nỗi “nước nắt tuôn thành máu”(KD), sau bốn mươi năm?
Jan
2013 – Dec 2015
Nguyễn Âu Hồng
Bản
in trên Thư Quán Bản Thảo chúng tôi đánh nhầm là Đà Nông- cửa sông Bàn Thạch.
Ngoài ra còn có một lỗi đánh máy ở câu áp cuối, xin sửa lại là sóng cuộn trào.
No comments:
Post a Comment