Nguyễn
Đức Tùng
Naomi Shihab Nye & tác phẩm. Nguồn: Internet
Trước khi biết lòng tử
tế là gì
Bạn phải mất đi nhiều
thứ
Đã
có lần nào trong đời bạn lâm vào cảnh chán nản, thua sạch, mất hết, tuyệt vọng
không?
Lúc
ấy bạn muốn đi tới sự bình an. Bằng một ý tưởng, không phải hình ảnh, Naomi Nye
tìm được cách nói giản dị, dễ hiểu, chỉ ra tính chất của sự việc từ lời mở đầu,
trong khi vẫn ngấm ngầm báo hiệu cho những người đọc khác, gần mình hơn, thấy
được sức nặng của sự khai triển bất ngờ về sau. Chỉ khi ở trong tình huống tột
cùng, cực đoan, gay cấn, chúng ta mới đủ sức đánh mất tất cả. Sự thật có thể
không chịu đựng nổi: không một người nào tự nguyện rời bỏ các thói quen và niềm
tin và chân lý của mình dễ dàng, cũng như không một nhà độc tài nào từ bỏ dễ
dàng ngai vàng của mình: chúng ta phải
bị đánh bật ra từ cội rễ của chúng ta; chúng ta không thể lấy một tay mình để
chặt đứt tay khác. Chỉ trong trường hợp cực đoan như thế, đánh mất tất cả, con
người mới thấy được chân diện mục. Như một kẻ bị hất xuống vực thẳm nhưng còn sống,
bạn từ từ ngoi lên, thở phào, mở mắt: mây trời lặng lẽ bay.
Bạn
muốn về nhà.
Lòng
Tử Tế
Trước khi biết lòng tử
tế là gì
Bạn phải mất đi nhiều
thứ
Cả tương lai bỗng chốc
hóa thành không
Như muối tan trong bọt
nước.
Điều gì trước đây bạn
nắm được trong tay,
Đếm lui đếm tới mỗi
ngày, nâng niu gìn giữ:
Tất cả đều phải ra đi
Nhờ thế, may ra bạn
biết
Cảnh đời đơn chiếc ra
sao
Giữa những miền đất
xôn xao hạnh phúc
Bạn đi cuộc đi vô
cùng tận
Cứ tưởng rằng chuyến
xe chẳng bao giờ ngừng hẳn
Bạn tưởng những hành
khách ngồi kia
Đang ăn thịt gà và bắp
Sẽ suốt đời ngồi bên
cửa sổ nhìn ra bầu trời.
Rồi trước khi bạn biết
sức nặng dịu dàng
Của lòng tử tế
Bạn cần phải đi xa
hơn thế, đến một nơi
Một người da đỏ nằm
chết
Bên vệ đường, trong tấm
vải poncho
Bạn phải nhìn cho được:
kẻ nằm chết ấy chính là bạn,
Anh ta có thể là người
Đi trong đêm trường với
nhiều kế hoạch
Chỉ hơi thở mong manh
buộc chặt với đời.
Trước khi bạn biết
lòng tử tế từ sâu sắc nguồn cơn
Bạn phải biết đau buồn
kia cũng sâu xa như thế
Bạn phải thức dậy mỗi
ngày với nỗi đau buồn ấy
Tập chuyện trò với nó
Chưa đủ đâu: bạn còn
phải trò chuyện suốt ngày
Mê mải cho đến khi giọng
nói của bạn
Khàn đi, cúi nhặt
Những sợi chỉ khổ đau
vương vãi thế gian này
Bạn sẽ thấy được tấm
vải ngày ngày chúng ta đan dệt
Rồi cuối cùng thật ra
chỉ còn lòng tử tế, sau hết chỉ còn chúng là có nghĩa
Chỉ lòng tử tế thắt lại
dây giày cho bạn
Dẫn bạn ra đường, đi
tới thùng thư, mua bánh mì
Chỉ lòng tử tế ngẩng
đầu lên
Như một người lạ mặt
từ đám đông, của thế giới rộn ràng kia
Bảo bạn rằng: chính
tôi là người bạn đi tìm
Khắp thế gian
Rồi nắm tay bạn đi
qua những ngã đường
Như một cái bóng
Hay như một người tri
kỷ.
(Naomi
Shihab Nye)
(1)
Nhịp
điệu của thơ: là nhịp tim của người viết và người đọc. Nếu bạn di chuyển mau lẹ,
nhịp đập của tim tăng lên, ảnh hưởng đến sự phát ra âm thanh của chữ. Sau một giai
đoạn nhấn mạnh gay cấn ở phần giữa của bài thơ, Naomi Nye trở lại nhịp cân bằng
mà bà tự mình làm mất đi sau những câu đầu tiên. Các hình ảnh xảy ra tự nhiên
khiến người đọc có cảm giác chúng xuất hiện trước như kẻ dẫn đường. Hầu hết các
cảm xúc và ý tưởng khác đến sau, gần như phi tuyến tính, tiền ngôn ngữ.
Có
một sự khác biệt rõ ràng giữa câu thơ và câu văn phạm trong thơ của Naomi Nye.
Câu thơ là những nhịp đập mà chúng ta không biết đến, hệt như một người khỏe mạnh
không cảm nhận được nhịp đập của tim mình. Trong khi chúng là thành phần căn bản
về nhạc điệu thì câu văn phạm có vai trò trong việc tạo ra vóc dáng cấu trúc của
bài thơ. Tác giả chọn phương pháp đặc sắc mà tôi muốn chỉ ra: không một câu thơ
nào đứng một mình như một câu văn phạm. Tất cả đều là các đoạn bị cắt rời, làm
cho sự ngắt dòng trở nên tươi mới, duyên dáng và nhịp đi có tính dồn dập, thúc
đẩy.
Đọc
chậm:
What you held in your
hand,
what you counted and
carefully saved,
all this must go so
you know
how desolate the
landscape can be
between the regions
of kindness.
Nhưng
Naomi Nye là ai?
Sinh
năm 1952, bà thuộc thế hệ những nhà thơ Hoa Kỳ sau thế chiến thứ II. Thật khó
mà biết được họ đã chịu ảnh hưởng như thế nào từ những người đi trước, trong
không khí văn chương sôi động của những năm sáu mươi, bảy mươi. Robert Lowell,
Anne Sexton, Mariane Moore, Allen Ginsberg, Sylvia Plath, Gerald Stern, John
Ashbery và những người khác. Nhất là Dylan Thomas. Thơ của bà kết hợp được
phong cách dữ dội, nổi loạn của Lucille Clifton, Maya Angelou và tính dịu dàng
nhưng cương nghị của Mariane Moore, Nikki Giovanni. Đọc Naomi Nye, tôi thường lấy
lại cảm giác bình tĩnh như được trấn an.
Chính tôi là người bạn
đi tìm khắp thế gian
Ngày
11 tháng 9 năm 2001 là một chấn thương lớn của Hoa Kỳ, cũng là của cộng đồng Hồi
giáo, cho những người có nguồn gốc Trung Đông và những người yêu mến văn hóa Ả
Rập. Và chấn thương ấy sẽ lâu dài. Naomi Nye sinh ở Mỹ, nhưng thân phụ bà sinh ở
Jerusalem; ông lớn lên giữa những người Do Thái, người Armenia và Hy Lạp. Mẹ là
một phụ nữ Mỹ. Nhà thơ thường quay về Trung Đông thăm viếng và tham dự những
sinh hoạt văn hóa xã hội; và trong gia đình bà, tiếng Ả Rập cũng được nói bên cạnh
tiếng Anh. Cuộc chiến tranh Palestine, sự khủng hoảng Hồi Giáo sau sự kiện 911,
sự đàn áp phụ nữ, đàn áp dân chủ và nhân quyền, chống lại các giá trị phổ biến,
chiến tranh, tội ác chống nhân loại, là những mối quan tâm sâu sắc và thường trực
của bà.
Khi tin tức về cái chết
của anh truyền tới
Chúng tôi ngồi khép lại
vòng tròn
Có người khóc, có người
không khóc
Ngày xa xưa, trên một
xứ sở khác
Những cô gái dịu dàng
đội lên đầu thùng nước
Và nhịp nhàng bước đi
(2)
(The
Grieving Ring)
Cái
gì đã nối những người ngồi thành vòng tròn với cái chết, nối cái chết với những
thùng nước đội đầu của các cô gái?
Tôi
nghĩ đến vòng tròn. Sự trở đi trở lại. Sức nảy nở của hạt giống mùa màng. Các
qui ước, nghi lễ, nghi thức (rituals) tiêu biểu cho trạng thái tịch lặng, an
nhiên, vững chãi của đời sống tâm linh cộng đồng. Những kẻ muốn tạo ra các thế
hệ mới, các thế hệ được trang bị ký ức có tính chọn lọc về quá khứ, có thể tài
giỏi về chuyên môn nhưng nô lệ về tinh thần, là những kẻ sợ hãi các nghi thức,
vì chúng chống lại sự thay đổi.
Nghi
thức không phải chỉ là, thậm chí không bao giờ là, các lễ hội ồn ào có nhiều
người tham dự với các hình thức ồn ào hào nhoáng. Như nhiều người vẫn hiểu lầm,
vô tình hay với dụng ý. Chúng bao quát hơn, tinh tế hơn, thường ngày hơn, và
quan trọng nhất là, chúng phải được tạo nên qua nhiều năm tháng, dần dà một
cách “tự nhiên”. Không có tác giả. Cũng như ngôn ngữ hay ca dao. Cũng như, một
ví dụ khác, bữa ăn tối gia đình mỗi ngày có đông đủ mọi người, thời bây giờ rất
khó làm được, là một thứ nghi thức.
Một kẻ không nhà
Tháo giày ra
Trước căn phòng bằng
giấy các tông của mình
(Penny
Harter, haiku, ghi theo trí nhớ)
Nhân
loại yêu mến các nghi thức. Vì đó là căn nhà của họ, hay là quán cà – phê - vỉa
- hè - dưới- hàng - phượng - vĩ tụ tập bạn bè mấy mươi năm của họ.
Ngôn
ngữ thơ của Nye không dựng trên căn bản của tu từ học, vốn bị giam cầm bên
trong các biên giới quốc gia; nó nằm sâu hơn, dưới những tầng lớp cốt lõi của
tư tưởng, của cảm xúc, có tính tập thể, của nguồn mạch văn minh văn hóa Ả Rập
hùng mạnh.
Hùng
mạnh tức là khiêm tốn, cởi mở. Nhờ thế, Naomi Nye có khả năng viết về nhiều đề
tài. Plato từng cho rằng đề tài của thơ không phải là sự chọn lựa chủ quan của
tác giả. Quả thật, nếu chỉ dựa vào văn bản thì khó biết được bà đã đi đường
nào: chọn lựa đề tài, xây dựng các ý tưởng, dựng bài thơ lên như dựng ngôi nhà,
hay hoàn toàn ngẫu nhiên, không biết mình nói gì cho đến khi bài thơ đã nói
xong? Mặc dù viết về những vấn đề chung, như tự do, chiến tranh, bạo lực, thơ của
bà mang nặng tính riêng tư, cá nhân, cũng như nhiều nhà thơ Mỹ cùng thời. Đây
có lẽ là một trong những khác biệt tế nhị giữa thơ Mỹ và thơ châu Âu: trong
kinh nghiệm đọc của riêng tôi, thơ châu Âu thường trừu tượng hơn, để lại ít hơn
các dấu ấn cá biệt của hoàn cảnh riêng tư, trong khi thơ Mỹ “hiện thực” hơn.
Tôi nghĩ rằng có phần ảnh hưởng của phong trào “Thơ xưng tội” (Confessional
poetry) khởi đi từ Robert Lowell và Anne Sexton. Có con đường đi xuống, đi xuống
mãi đến vực lỗi lầm quá khứ, đến tội lỗi của chúng ta, đến niềm hy vọng tan vỡ,
đến sự thất vọng đối với con người. Từ bóng tối, chúng ta đi dần lên trở lại,
khó nhọc nhưng không bỏ cuộc, cuối cùng chúng ta đi lên được từng bước, nâng đỡ
bởi sự tha thứ. Sự tha thứ đối với người khác và đối với chính dĩ vãng của
chúng ta. Bài thơ nào cũng có nhiều hình ảnh, nhưng chúng thường xoay quanh một
hình ảnh trung tâm, xuyên qua nhiều bậc thang nhận thức. Đây là một hình ảnh
trung tâm:
Bạn phải đi xa hơn thế
nữa, đến nơi một người
Da đỏ nằm chết bên vệ
đường
Trong tấm vải poncho
Hình
ảnh là một phần của cuộc sống, có tầm ảnh hưởng rộng hơn nhiều người tưởng. Khi
phát âm một chữ, ta thường nghĩ đến một hình ảnh cụ thể; các giấc mơ đọng lại
trong ký ức cũng bằng hình ảnh. Chúng là những hoạt động vừa lý trí vừa xúc cảm,
đến thẳng từ vô thức. Không thể giải thích được tại sao lại là người da đỏ, lại
là tấm vải poncho. Chúng hoàn toàn đặc thù cho một hoàn cảnh riêng tư, nhưng bất
kỳ một người đọc nào ở ngoài biên giới Hoa Kỳ cũng có thể cảm nhận và chia sẻ.
Bởi vì:
Bạn
phải nhìn cho được: kẻ nằm chết ấy chính là bạn
Đó
là cách nói nửa kêu gọi, nửa tâm tình. Nói cho cùng, trong nhiều trường hợp,
thơ tâm tình cũng có khả năng mê hoặc, hùng biện. Ví dụ:
Mùa cam đương ngọt
trên đầu
Chim kêu ríu rít địa
cầu của ta
(Tố
Hữu)
Hay,
nhưng có phần hùng biện.
Đọc
xong, người đọc dễ quên “cam” và “chim” đi mà nghĩ nhiều hơn đến địa cầu. Địa cầu
của ta: vì vậy nó đang rộng hóa ra chật. Cái ta bao giờ cũng nhỏ bé.
Tranh luận với người
khác, là hùng biện, tranh luận với chính mình, là thơ.
(William
B. Yeats)
Tâm
tình hay hùng biện là vấn đề giọng điệu. Giọng điệu của một bài thơ là giọng
nói của nhà thơ thể hiện trong bài thơ ấy. Là chữ ký, dấu triện của nhà thơ lên
một bài cụ thể. Giọng điệu có thể thay đổi; giọng nói thì không. Một bài thơ có
thể có nhiều hơn một giọng điệu. Cơ sở vật chất của giọng điệu là từ vựng, văn
phạm, cấu trúc câu, cách ngắt dòng, vần, cách nói trực tiếp và cách nói bóng bẩy.
Âm thanh bao gồm các nguyên âm, các phụ âm, lên giọng xuống giọng; và trong tiếng
Việt còn là các dấu huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã. Tiếng nói một người, trong một
bài thơ, có thể mau lẹ hay chậm rãi, thúc giục gay gắt hay ung dung từ tốn. Sức
nặng của mỗi chữ cũng khác nhau: những chữ có “nội dung” nặng hơn những chữ bổ
túc, thường là các tính từ, trạng từ, liên từ. Sự khác nhau này cũng tạo ra chú
ý của người đọc đối với một câu thơ, nhờ vào việc di lệch khỏi các chuẩn tắc.
Ví
dụ đại danh từ có tính liên kết who và
liên từ and chuyên chở một nội dung lớn
hơn trọng lượng của chính chúng:
Đi trong đêm trường với
nhiều kế hoạch
Chỉ hơi thở mong manh
buộc chặt với đời.
(3)
Mặc
dù truyền thống văn học Trung Đông ảnh hưởng đến bà, ghi dấu ấn của nó trong những
bài thơ có hình thức như thể gazelle, Naomi Nye thường làm thơ tự do như bài
thơ trên đây. Tương tự các nhà thơ đương đại, thơ tự do của bà rất “tự do”,
nghĩa là nếu tháo rời chúng ra như người ta tháo một cái máy, cấu trúc của các
bài thơ ấy gần như không còn lại gì cả, có thể làm cho các nhà phê bình cổ điển
ngẩn ngơ. Ai cũng biết rằng thơ tự do không có luật cố định về vần, không có
khuôn mẫu cố định về điệu (mặc dù tất nhiên chúng vẫn có thể có vần điệu riêng
của từng bài), nhưng gần đây chúng cũng đánh mất cả những tiêu điểm cuối cùng
như đơn vị câu thơ và sự chuyển câu, ngắt câu (line-ending).
Tôi
cho rằng tuy thế vẫn còn một trong hai yếu tố cuối cùng bền bỉ ở lại: (1) sự lập
lại (repetition) của các chữ, hay (2) sự lập lại của các mẫu cảm xúc.
Before you know
Before you learn
Before you know
Nhờ
thế, có một sự dừng lại, một điều gì gần như là sự treo lơ lửng, nằm xen kẽ giữa
các trạng huống gấp rút hơn.
Bà
sử dụng trong thơ nhiều hình ảnh mang tính phổ biến, di chuyển gần về phía các
biểu tượng, vốn cũng là một loại ẩn dụ nhưng có tầm khái quát cao, mang tính tập
thể và bao giờ cũng có tính truyền thống. Chúng có thể xuất hiện đơn nhất hay tạo
ra các tổ hợp. Các ẩn dụ chăm chú nói về bản thân nó, trong khi các biểu tượng
không nói về bản thân nó.
Naomi
Nye thường nhắc đến đất đá, nước, mưa, trà, ngựa, mặt trời, mù sương…đầy khí hậu
sa mạc chẳng hạn. Thắp đèn khuya ngồi kể
chuyện trăng tàn là tổ hợp ẩn dụ của Tuệ Sỹ. Đêm mơ Hà nội dáng kiều thơm là tổ hợp biểu tượng của Quang Dũng. Bộ lạc ta xưa mất hải tần vừa là ẩn dụ vừa
là biểu tượng của Đinh Hùng.
Bài
thơ của Naomi Nye đi xa mà không lạc đề, về gần nhưng không ràng buộc; đó là nhờ
khả năng cưu mang sự diễn dịch nhiều lớp đối với các ý nghĩa. Dùng một câu thơ
để chở một ý tưởng trừu tượng là một trong những công việc khó khăn của nhà
thơ. Nó có thể thất bại. Bởi vì ý tưởng trừu tượng đến lượt chúng hạn chế sự
phát triển nhiều lớp của các ý nghĩa. Chủ
đề của một bài thơ có thể phức tạp, nhiều hơn một, miễn là tính phức tạp của
chúng đừng trở nên quá nặng đối với bài thơ. Naomi Nye có thể đề cập đến cùng
lúc nhiều vấn đề như tình yêu, sự đau khổ, sự cô độc, lòng nhân hậu, một phần
vì khả năng sử dụng ngôn ngữ có tính liên kết: các giới từ và liên từ nối chúng
lại. Tôi có thói quen chú ý đến cách sử dụng các giới từ và liên từ của các nhà
thơ, nhất là những nhà thơ mới xuất hiện, nhận xét họ qua một kỹ năng gần như
không thay đổi trong các bài thơ khác nhau, cùng một người.
Before you know
kindness as the deepest thing inside,
like salt in a
weakened broth.
Chúng
ta chú ý chữ as (như) và chữ like (như) được dùng khác nhau. Đó là
các liên từ vừa kết nối vừa phân biệt các sự vật, đối tượng. Ngưỡng cửa siêu hình:
Bạn phải nhìn cho được:
kẻ nằm chết ấy chính là bạn
Thơ
không sinh ra trong chân không, nhưng đọc một số nhà thơ tiếng Việt (và cả tiếng
Anh) gần đây, tôi không có ấn tượng mạnh mẽ về việc họ đang sống ở đâu, viết ở
đâu, triết lý của họ về cuộc đời là gì. Đọc Naomi Nye thì trái lại: bà sống cuộc
đời cụ thể mỗi ngày, ghi lại chúng, hít thở không khí tự do hiện đại nhưng vẫn
không đi lạc trong môi trường đa văn hóa của Mỹ. Người ta không thể nào kiến tạo
một thế giới tốt đẹp mà không bắt đầu từ sự cảm thông giữa một người và một người.
Những kẻ không có khả năng “chạnh lòng” trước sự đau khổ cá nhân của người
khác, một cách riêng lẻ - sự chạnh lòng đôi khi làm họ mất cả khả năng tự kiểm
soát, lạc hướng, thứ tình yêu đôi khi làm họ thất bại - những kẻ ấy không bao
giờ có thể trở thành những người cứu giúp thế giới, những nhà cách mạng hay những
kẻ tự tuyên bố tương tự. Sự cảm thông là
phương tiện quan trọng nhất để cải thiện các mối quan hệ xã hội. Khi một người
bắt đầu tập nhìn sự vật từ tâm trạng của người khác, anh ta sẽ dịu giọng xuống,
bớt ra vẻ hùng hồn say đắm, khi một người may mắn thành công bắt đầu tập nhìn sự
vật từ khung cửa hẹp của kẻ rủi ro thất bại, anh ta sẽ bớt hăng hái đi trong
các tuyên bố về chân lý của mình. Nhờ thế, anh hiểu ra rằng chính anh cũng có
thể rơi vào vị trí của người thất bại, hoặc là trong quá khứ, hoặc là trong
tương lai: anh trở nên khiêm tốn hơn, và do đó, thông minh hơn, anh trở nên lưỡng
lự hơn, và do đó, minh triết hơn.
Tuy
thế bạn vẫn có thể tránh được kinh nghiệm trực tiếp mà vẫn học được bài học lịch
sử nếu lắng nghe người khác. Lắng nghe các nạn nhân, trẻ con, những người phụ nữ,
những người dũng cảm và các đấng thiêng liêng. Không mất thì giờ lắng nghe những
kẻ đang bị chi phối bởi lợi ích hay quyền lực, đang say mê bởi các lý thuyết. Lắng
nghe tiếng nói của thơ ca. Trẻ con biết cách để cảm thông với người khác mau lẹ.
Có lẽ đó là lý do khiến Naomi Nye, sau cuộc chiến tranh vùng vịnh 1991, xuất bản
tuyển tập thơ Bầu Trời Chung Của Chúng Ta (This Same Sky), tập hợp 129 nhà thơ
nhỏ tuổi khắp thế giới. Trong khi nước Mỹ lao vào cuộc chiến tranh ở Iraq thì
nó cũng đủ sức mạnh tinh thần để khiêm tốn tiếp nhận và hào hiệp truyền đi
thông điệp từ một cô bé thi sĩ ở Iraq.
Ai có thể mở cánh cửa
này
Của dòng sông xanh, của
đám mây vàng,
Của trái tim tôi?
(Zuhur
Dixon)
Thơ
không kêu gọi các hành động cụ thể, không dẫn đến các kết luận, nhưng với chút
hài hước nhẹ nhàng, có thể tạo ra các khải thị:
Điều gì trước đây bạn
nắm được trong tay,
Đếm lui đếm tới mỗi
ngày, nâng niu gìn giữ:
Tất cả đều phải ra đi
Mối
quan hệ giữa hình thức và nội dung trong thơ có lẽ bắt đầu như thế này: nội
dung kêu gọi hình thức, nhưng đó không phải là một nội dung hiển hiện như ta thấy
trong văn bản, tức là trong hình thức sau cùng của nó, sau sự xuất hiện của thể.
Ví dụ: ở nông thôn khi rảnh rỗi, xong việc đồng áng, thế nào cũng phát sinh các
hình thức tế lễ, ca hát, nhảy múa, trong những hình thức được quy định. Hình thức
lễ hội này là biểu hiện sau cùng của sự chờ đợi, mong đợi, của kỳ vọng tập thể.
Đó là thể. Biểu hiện bên trong của thể là cấu trúc, biểu hiện bên ngoài của cấu
trúc là thể. Đến thăm một người mới qua đời, chúng ta thất vọng nếu không thấy
cảnh tang lễ, người thân khóc lóc, đi qua một đám cưới chúng ta thất vọng nếu
không thấy cô dâu mặc áo choàng trắng dịu dàng mà thấy một cô nàng mặc quần
jeans nói cười ầm ĩ. Như vậy các lễ cưới làm cho niềm vui được trọn vẹn, cũng
như tang lễ làm cho sự đau khổ trở nên chịu đựng được, đáng kính trọng và có ý
nghĩa. Tuy thế, hình thức không phục vụ cho nội dung theo nghĩa giản dị của chữ
này. Thể của một bài thơ không phải là phương tiện của các ý tưởng. Khác với một
số nhà thơ có khuynh hướng trừu tượng, sử dụng nghĩa bóng nhiều hơn nghĩa đen,
dùng nhiều hình ảnh trong các giấc mơ, ví dụ John Ashbery hay Frank O’Hara thực
mà ảo, ảo mà thực, Naomi Nye có lối viết trực tiếp, dẫn chuyện có cao điểm và
có kết thúc, một phần nhờ cấu trúc nhiều lớp ý nghĩa.
Sự
tiếp nhận của người đọc đối với ý nghĩa là một quan tâm của thơ hậu hiện đại.
Trong khi từ chối sự diễn dịch ý nghĩa, nói cho cùng các bài thơ vẫn mời gọi sự
đọc kỹ, đọc lại.
Ví
dụ, nếu đọc Wallace Stevens (Ngọn Nến Trong Thung Lũng):
Ngọn nến của tôi cháy
một mình trong thung lũng bao la
Những tia sáng dài xa
của đêm sâu chụm đầu lên nó
Cho đến khi gió thổi.
(4)
Bạn
sẽ thấy sự khó hiểu không nằm trong ngôn ngữ. Nó nằm ở ý nghĩa. Ngôn ngữ không
chỉ chứa đựng các thông tin; chúng có thể được chia làm hai loại: một loại ngôn
ngữ mang tính quy chiếu (referential language), có tính biểu tượng, tượng trưng,
đại diện. Đó là ngôn ngữ của các từ điển. Loại thứ hai có thể gọi là ngôn ngữ
trình diễn (performative language), khi sự xuất hiện của chúng tạo ra sự thay đổi
một tình trạng ở người tiếp nhận. Vì ngôn ngữ thơ là sống động, có tính trình
diễn, nên ý nghĩa của chúng không nên được hiểu theo quy chiếu thông thường. Mặt
khác trong khi ngôn ngữ thơ không thuần túy là ngôn ngữ thông tin, không nên được
hiểu như một ngôn ngữ quy chiếu, thì nó lại chống lại sự trống rỗng, chống lại
cái vô tích sự của ngông ngữ đối với cuộc sống. Những bài thơ mô tả sự nhàm
chán của đời sống lại không được quyền nhàm chán.
Tôi
cho rằng đây là điều mà hiện nay nhiều người nhầm lẫn. Bài thơ của Naomi Nye chứng
tỏ ngôn ngữ thơ dày đặc các thông tin: chúng được nén lại trong các câu, giữa
các chữ, bên trong các chữ. Ngay khi có những chữ ít quan trọng hơn, ít có ý
nghĩa về ký hiệu hơn xuất hiện, thì những chữ ấy cũng cần phải được người đọc
và người trình diễn thơ quan tâm hệt như các chữ quan trọng khác. Các nhà thơ
có thể viết những chữ hay những câu có vẻ vô nghĩa hay trống rỗng nhưng đó là
chủ ý nghệ thuật riêng. Trong trường hợp này chúng cũng quan trọng như bất kỳ một
câu hay chữ nào khác.
Trước
khi bạn biết lòng tử tế từ sâu sắc nguồn cơn
Bạn phải biết đau buồn
kia cũng sâu xa như thế
Thơ
trước hết là âm thanh. Các chữ xung quanh chúng ta, tôi nghĩ, cũng tạo nên một
trường. Chúng tương tác với nhau, chữ này gọi chữ kia, chữ trước kích thích chữ
sau, chữ ngoài hất chữ trong ra. Việc đọc thơ vang lên làm cho trường chữ có tương
tác mạnh hơn.
Như
thế, đọc thơ tạo ra một kinh nghiệm hiếm có; đọc một bài thơ không phải là lập
lại kinh nghiệm của tác giả, như máy ghi âm ghi lại lời người khác, mà tạo nên
một tiếng nói thứ ba, ở tầm vóc lớn hơn hay nhỏ hơn, tùy người đọc. Toàn bộ
kinh nghiệm sống của người đọc ấy được dồn lại trong khi đọc một bài thơ, chuyển
tất cả kí ức thành các niềm mơ ước về tương lai, thẩm định và chuyển giao các
giá trị tinh thần. Cách đọc (lớn lên, thành tiếng) một bài thơ quan trọng đến mức
tùy theo giọng đọc lớn hay nhỏ, thấp hay cao, tâm trạng buồn rầu hay hứng khởi,
các chữ được kéo dài ra hay được nén lại, mà bài thơ có tác động khác nhau lên
người nghe, tôi muốn nói là cộng đồng người nghe, trong đó có chính người đọc
lên. Đọc theo trí nhớ còn là chuyện khác nữa, vì trí nhớ thay đổi. Các ý tưởng,
cũng như các mùi vị, cảm giác chen lẫn nhau khi bạn thưởng thức cái đẹp. Vậy, đọc
thơ là một quá trình liên tưởng tự do, giúp chiếu rọi ánh sáng tới những vùng tối
riêng, phi điều kiện hóa, nhằm giải phóng lịch sử.
Đọc
thơ không nên dừng lại với việc đọc bằng mắt. Thơ cũng viết cho tai: cần đọc
chúng vang lên.
Ngoại
lệ: đối với các bài thơ dở thì bạn được miễn nhiệm vụ này.
Thơ
của Naomi Nye gây cho người đọc ấn tượng về một người suốt đời đi tìm sự thật,
mặc dù bà không đặt nhiều niềm tin vào cái gọi là sự thật cuối cùng, vào chân
lý cuối cùng, quan trọng nhất. Thật ra, không làm gì có sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch
sử. Tuy vậy, khác với quan điểm của chủ nghĩa giải cấu trúc, như có thể thấy với
Jacques Derrida, Naomi Nye tin tưởng vào khả năng của thơ ca trong việc nhìn thấu
tận đáy bản chất của sự đau khổ của thế giới, và khả năng nhìn thấy được những
khuôn mặt khác nhau của sự thật. Như thế, bà gần với Margaret Atwood hơn, nhà
thơ Canada, người viết những câu thơ:
Nếu sự thật của thế
giới này một ngày được nhận ra
Sẽ được nhận ra qua
nước mắt
(5)
(Dẫn
theo Hilda Hollis)
Cách
đây vài năm, tôi đến thăm di tích Maya ở Nam Mỹ. Bên những ngọn tháp hùng vĩ,
tôi ngạc nhiên khi được biết bí mật cao nhất của người Maya trong xây dựng lại
thuộc về âm nhạc. Nếu đứng dưới chân một bức tường, không cần phải là hai bức
tường đối diện, và vỗ tay, bạn sẽ nghe được tiếng ngân rất lâu dội đi dội lại.
Như thế kiến trúc của tường tháp đã được xây ở mức nhạy cảm khiến cho các rung
động âm thanh của bàn tay nhỏ bé được ghi nhận. Vào giây phút ấy, tôi bỗng nhận
ra rằng có một sự tương đồng lạ lùng giữa lòng tử tế của con người và sự hài
hòa về âm học của các vật thể. Con người cũng như những bức tường đá kia hoàn
toàn có khả năng ghi nhận các rung động từ người khác. Dễ dàng quan sát thấy rằng
những đứa bé khi đứng gần nhau sẽ bắt chước điệu bộ cử chỉ, cười khóc của nhau.
Đó là sự lan tỏa tức thời của các xúc động tinh thần. Nếu sự xúc động không thể
lây lan trong một cộng đồng, nếu người này không thể tác động đến người khác để
họ đồng cảm với mình, xã hội sẽ rơi vào một tình cảnh đáng sợ. Khi nhìn thấy sự
đau khổ ở người khác, nếu chúng ta hoàn toàn thờ ơ, cơ chế tinh thần của chúng
ta sẽ bị gãy đổ, các hoạt động tâm lý sẽ tê liệt, cái mà Freud gọi là cơ chế
thăng hoa sẽ không làm việc, superego vắng mặt. Khi nhìn thấy sự bất công của
xã hội, nếu chúng ta hành động, bất kể hành động ấy đưa đến kết quả cụ thể thế
nào, thành công hay thất bại, thì về mặt tinh thần, chúng lập tức tạo kết quả
lên chúng ta: đó là sự khẳng định rằng ý thức của chúng ta vẫn còn hoạt động.
Sự
im lặng vì lẩn tránh và sợ hãi làm người ta già đi mau lẹ, bào mòn trí tuệ, và
quan trọng hơn nhiều, bẻ gãy nhân cách, của họ. Bạn có thể tìm thấy nhiều ví dụ
trong các nhân vật nổi tiếng bị đàn áp, dưới các chế độ khác nhau trong lịch sử.
Như
thế, các hành động xã hội, bất chấp kết quả thành công hay thất bại, tác động
như một liệu pháp tâm hồn. Toàn bộ điều này gọi chung là sự vang động, phản hồi.
Chỉ những người có khả năng tiếp nhận sự vang động thì mới có khả năng cất bước
ra khỏi ngôi nhà trú ẩn của mình, và về mặt luân lý, thoát ra khỏi sự vị kỷ, trở
thành người tự do, mà không cần đến bất kỳ một sự ưu đãi nào. Đây không phải là
sự hòa lẫn giữa cái tôi và cái ta, mà chỉ là tương tác giữa những cái tôi trong
cộng đồng dân tộc, nhân loại. Khép kín mình lại bao giờ cũng đưa đến sự mất bền
vững, không những đối với các định chế xã hội, mà còn đối với sự lành mạnh tâm
linh; sự mất bền vững này đến lượt nó thúc đẩy quá trình suy đồi tập thể.
Nhiều
người nhận xét, với một chút than phiền rằng, thơ và nhạc thường buồn. Nhận xét
đó có thể đúng.
Bạn
phải thức dậy mỗi ngày với nỗi đau buồn ấy
Nhưng
ý nghĩa của chuyện buồn hay vui trong thơ không dừng ở đó. Nỗi buồn đau là bậc
thang, là cánh cửa mà bạn bắt buộc phải bước lên, phải vượt qua, để đi tới một
cảnh quan khác, rộng rãi hơn. Bởi vì khả năng cao nhất của trí óc con người là
tưởng tượng, khả năng cao nhất của tưởng tượng là sự đồng cảm- vốn là thứ nhiều
khi vượt ra ngoài biên cương ngôn ngữ.
Vẫn
Naomi Nye:
Người Ả rập thường
nói
Khi một người khách lạ
mới đến nhà
Trong ba ngày hãy nuôi
nấng anh ta
Rồi mới hỏi: bạn là
ai thế?
(6)
Nếu
điều này làm cho bạn có chút nghĩ ngợi mông lung, ngay giữa một ngày bận rộn,
chuyện này lan qua chuyện khác, đó mới thật là thơ. Ngoài ra, thì không phải.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Thi phẩm của Naomi Shihab Nye
(1)
Kindness
Before you know what
kindness really is
you must lose things,
feel the future
dissolve in a moment
like salt in a
weakened broth.
What you held in your
hand,
what you counted and
carefully saved,
all this must go so
you know
how desolate the
landscape can be
between the regions
of kindness.
How you ride and ride
thinking the bus will
never stop,
the passengers eating
maize and chicken
will stare out the
window forever.
Before you learn the
tender gravity of kindness,
you must travel where
the Indian in a white poncho
lies dead by the side
of the road.
You must see how this
could be you,
how he too was
someone
who journeyed through
the night with plans
and the simple breath
that kept him alive.
Before you know
kindness as the deepest thing inside,
you must know sorrow
as the other deepest thing.
You must wake up with
sorrow.
You must speak to it
till your voice
catches the thread of
all sorrows
and you see the size
of the cloth.
Then it is only
kindness that makes any sense anymore,
only kindness that
ties your shoes
and sends you out
into the day to mail letters and
Purchase bread,
only kindness that
raises its head
from the crowd of the
world to say
It is I you have been
looking for,
and then goes with
you everywhere
like a shadow or a
friend.
(2)
When word of his
death arrived
We sat in a circle
for days
Crying or not crying
Long ago in the other
country
Girls balanced
buckets
On their heads
(3)
who journeyed through
the night with plans
and the simple breath
that kept him alive.
(4)
My candle burned
alone in an immense valley.
Beams of the huge
night converged upon it,
Until the wind blew.
(5)
The facts of this
world seen clearly
Are seen through
tears
(6)
The Arabs used to
say,
When a stranger appears at your door,
Feed him for three
days
Before asking who he
is
No comments:
Post a Comment