Trương
Văn Dân
Nguyên Minh. NQChơn vẽ
“ Có một
số nhà văn nhà thơ qua một giai đoạn lịch sử nào đó lại chối bỏ những sáng tác
cũ của mình. Họ phủ nhận hoặc ngượng ngùng nếu ai nhắc lại.Tôi nghĩ những tác
phẩm đó họ không viết từ con tim, từ những suy nghĩ thật lòng, nên nó không tồn
tại.”
Nguyên
Minh
1.
Một cành hoa dại.
Nếu
nhà thơ/nhà biên kịch Lưu Quang Vũ đã từng
nói “đôi khi ta chán cả bạn bè, ba năm không nói được gì mới” thì với Nguyên
Minh hãy nghe anh giãi bày: “ Trong những
lần họp mặt bạn bè tôi rất bực mình nghe Phan kể những thông tin chẳng ăn nhập
vào không khí văn nghệ…/… Đời sống khắc nghiệt đã làm tôi vắng đi những nụ cười.
Tìm đến bạn bè, một chút men say trong không khí thần tình êm ái, cùng nhớ lại
một thời đã qua, thì nói làm gì những chuyện
vô vị của cuộc sống” (TN “Hình
như trời đang mưa”)
Với một con người yêu văn chương hơn mọi
thứ trên đời thì lời tâm sự đầy xót xa sau đây không làm cho ai phải ngạc
nhiên: “Sau biến cố 75, lịch sử đã cuốn chúng tôi chìm dập như cơn bão dữ, làm
tan nát cả một thời vang bóng. Trong những năm đầu chúng tôi điêu đứng vì nghèo
đói, cùn mòn về tâm hồn, không có thì giờ để nghĩ đến nhau, bạn bè tan nát đâu
cả. Muốn biết tin nhau không phải là dễ, nói gì đi tìm đến nhau, để ngồi nói
chuyện văn chương chữ nghĩa.” (tn Chạnh lòng)
Thế nhưng trong thời điểm ‘75 mà nhiều
bạn bè chạy ra nước ngoài thì dù đã mất mát rất nhiều, xưởng in, tòa soạn, không còn Ý Thức, không còn cơ sở phát hành,
bè bạn văn chương anh vẫn bình thản ở lại quê nhà, chấp nhận cuộc đổi đời như
đi qua một khúc quanh của đời mình. Anh đón nhận mọi thứ nhẹ nhàng, không oán
than hờn giận. Những trang viết nhắc lại quãng thời gian này người đọc anh tinh
ý sẽ nhận thấy lòng anh rất bình yên, xem sự đời như nước chảy hoa trôi. Mọi
chuyện, kể cả lịch sử rồi cũng sẽ trôi qua:
“Trong buổi tiệc sum hop tại nhà từ đường.
Lũ cháu nội của anh họ tôi nói thẳng thừng với chúng tôi :
- Thế hệ chiến tranh đã qua. Hận thù
là của chế độ đó. Còn bây giờ, thời bình là của chúng con. Biết yêu thương. Và,
tha thứ
Tôi lặng lẽ bước ra vườn ngắt vội một
nhánh hoa dại cắm lên bàn thờ tổ tiên.”
2.
Con đường độc đạo với
hai tình yêu lớn.
Nếu suốt đời nhiều người cứ mãi loay
hoay đi tìm lẽ sống, không bao giờ bằng lòng với chính mình thì hình như đối với
Nguyên Minh chỉ có một con đường để phải đi. Con đường ấy chính là viết văn và
in báo.
Khi nghe tôi nói thế bạn Vũ Thế Thành
không đồng ý. Anh cho rằng “Lão già NM không phải sinh ra để làm văn chương
đâu. Lão đó sinh ra để làm báo, báo tuần, báo tháng, báo năm,... miễn là làm
báo. Viết văn còn có thể bỏ được, chứ làm báo là bị nghiệp chướng ma ám,..” Anh
Đặng Châu Long cũng phụ họa: “Anh nói đúng quá. Cái chuồng cu của anh đang bị mấy
cái máy in xâm lấn chỉ do tội ghiền làm báo..” Nhưng tôi vẫn cho rằng Nguyên Minh yêu cả hai thứ. Tôi biết ông này
"ghiền" viết đến đâu. Thèm lắm… nhưng làm báo chọn bài, biên tập, in ấn,
phát hành… chiếm rất nhiều thời gian nên viết không nhiều. Anh như lơ lửng giữa
vợ và người tình, như trong cuộc đời mình, yêu mỗi người một cách và không muốn
ai phải phiền lòng.
Hãy nghe cuộc đối thoại giữa Nguyên
Minh và Thân Trọng Minh gần sáu mươi năm trước để hiểu tâm tình anh:
“Ông là bác sĩ tim mạch, ông có cần giải
phẫu xem quả tim tôi như thế nào không?”, Trọng cười: “Quả tim có bốn ngăn.
Ngăn thứ nhất ông dành cho cha mẹ. Ngăn thứ hai ông dành cho vợ con. Ngăn thứ
ba cho tình yêu mà T. đã chiếm hết chỗ. Ngăn thứ tư là của bạn bè”. Tôi ngạc
nhiên hỏi: “Còn văn chương?”- “Cái bọc bao quanh bốn ngăn của quả tim chính là
niềm đam mê của ông về văn chương” (NM, Tưởng chừng đã quên)
Nhà
văn Đặng Châu Long còn kể lại chuyện Nguyên Minh nhờ văn chương mà vượt qua một
trận đau sinh tử trong cơn giải phẫu túi mật. “Lúc đó anh rất ốm yếu. Các bạn học cũ thân thiết
của anh, hai bác sĩ là Đỗ Hồng Ngọc và Thân Trọng Minh đều biết là vô vọng. Các
anh gọi điện thoại cho những người thân xa để báo trước tin xấu và chuẩn bị hậu
sự. Thời may, chị Kim Qui, vợ nhà văn họa sĩ Lê Ký Thương, chạy vô thăm và mang
đến cho anh liều thuốc hồi sinh. Đang thoi thóp mê mệt giữa làn ranh sinh tử,
anh Nguyên Minh thấy chị Kim Qui photocopy lại được quyển Ý Thức 21 năm xưa (mà
Huỳnh Như Phương vừa cho mượn) để tặng anh. Anh chợt hồi sinh, hơi thở và khí sắc
hồng hào trở lại, cầm quyển Ý Thức lâu nay anh trở trăn tìm kiếm, giờ cầm nó
trên tay anh thấy mình sống lại. Sống lại với cả hai ý nghĩa đen và trắng!”
Trương Văn Dân- Elena và Nguyên Minh
3.
Ngọn Gió (Mai) định mệnh.
Nhắc
lại những điều trên để thấy là suốt cuộc đời Nguyên Minh gắn liền với viết văn
và in báo. Ngày chàng học sinh ấy viết lên truyện ngắn đầu tiên rồi cùng vài
người bạn đem quay Roneo trong tập Gió Mai có thể gọi là định mệnh. Định mệnh ấy
giống như hai thanh sắt của đường ray, cứng ngắt, kềm, không cho anh lối rẽ, để
anh đi trọn cuộc đời mang trên vai hai niềm đam mê ăn sâu trong máu thịt: In
báo và viết văn. In báo có thể gọi là
nghề, còn viết văn là nghiệp. Cái này, cái kia tương tác, bổ trợ cho nhau. Anh
say mê cả hai công việc và rất vui khi thấy những trang viết của mình hay của bạn
bè in lên trang giấy.
Suốt một đời Nguyên Minh là một người
điều hành toàn tâm toàn ý cho các tờ báo văn chương. Từ Gió Mai- Ý Thức đến
Quán Văn. Anh luôn luôn bận rộn. Chủ báo, NM, chủ bút, NM, thợ in, thư ký tòa
soạn, người phát hành, NM... nhà văn. NM
như Tề thiên nhổ nhúm lông, hô biến, và phân thân. Có lẽ mất khá nhiều thời
gian cho việc làm báo nên anh viết không nhiều vì không có thời gian lo cho
mình. Chắc cũng có khi tiếc nuối, nhưng chỉ một thoáng. Anh lại trở về với việc
in ấn, làm báo. Theo tôi thì đó là một hy sinh lớn của anh. Chấp nhận thua thiệt
để tạo cho bằng hữu một mái nhà chung, dẹp bỏ mọi thành kiến cá nhân để cùng đi
tìm cái đẹp. Nhiều lần tôi nói anh phải giao bớt việc, để dành thời gian viết,
vì “những điều muốn viết” trong anh còn nhiều. Nội lực phong phú. Thế nhưng…
Không viết nhiều, có thể vì bận
nhưng cũng có thể vì muốn công bố những gì mà anh tin là đọc “được” chứ không ôm đồm, viết hay in những
truyện chưa ưng ý để làm thấp giá trị trang viết của mình.
Đó là tính cách của NM người luôn thao thức với
việc viết lách và in ấn, sách báo: “Cả một khoảng đời dài, một phần tư thế kỷ,
chúng tôi đã ngừng bút. Trong những buổi họp mặt đó, tôi chỉ ngồi lặng câm,
không nở nổi một nụ cười. Những mộng ước văn chương còn dang dở. Sao không ai
nhắc đến món nợ phải trả. Cuộc chơi cay nghiệt của thời tuổi trẻ đã từng làm
tôi đam mê đến nỗi đã đánh mất đoạn kết tốt của một mối tình” (Tưởng Chừng Đã
Quên, trg 15).
Ngưng bút, nhưng chỉ là tạm. Vì đam
mê trong anh thời đó tuy không bùng lên như ngọn lửa, nhưng nó cháy âm ỉ không
bao giờ tắt. Chẳng những thế anh còn thắp lửa cho bạn bè. Dòng máu chảy trong
người anh luôn đi theo những mạch máu có hình con chữ. Nó luôn viết…trong 30
năm lặng lẽ đó, về sau, khi bắt gặp những người tha thiết với văn chương, tờ
Quán Văn xuất hiện thì mới biến thành nét mực rồi in ấn, khâu chỉ, dán keo…
đóng bìa thành những trang sách.
Tình yêu văn/sách của anh chung thủy
trọn đời. Biết thế nên nhà văn Nguyễn Lệ Uyên đã viết về anh: “Cả cuộc đời Nguyên Minh không thể thiếu mùi
mực in, mùi giấy và kim chỉ. Vắng chúng chừng như anh không thể nào sống nổi
thêm giây phút nào nữa, như một Trần Hoài Thư ở New Jersey vừa khâu sách trên
bàn ăn tối vừa tiếp bạn xa! ”
Hãy nghe NM kể lại ngày anh tìm kim
chỉ để khâu sách: “Ba may cái gì vậy?/ Tôi trả lời nhát gừng/Sách/ Hồi giờ con
không thấy ba may. Bộ ba biết đóng sách hả?/Đừng hỏi, để ba yên/ Một vài lần
mũi kim châm vào đầu ngón tay tôi, đau nhói. Ba mươi năm tôi không sử dụng tới.
Công việc tôi làm đâm ra vụng về. Nước mắt cay cay. Ừ. Mình đã già. Tôi lục đục
tìm mãi hộp hồ mới đây thợ dùng còn bỏ dở. Vợ tôi moi nó ra từ một góc kệ. Nàng cũng ngạc
nhiên hỏi: Sao anh không đưa xuống bảo thợ dán gáy cho?/ Tôi cầm lấy hộp hồ, trả
lời vội rồi bỏ vào phòng/ Anh thích tự làm lấy…/ Ba đưa thợ làm vừa nhanh vừa đẹp
mà ba đỡ mệt/ Tôi bực dọc/ Mày biết gì, tao thích vậy!”. (Tưởng chừng đã quên,
trg 10-11). Khi đọc đoạn văn này tôi đã xúc động đến ứa nước mắt. Elena tưởng
có chuyện gì buồn, hỏi, tôi buông tập sách: Thương NM quá!
Tuy hiền lành, nhỏ nhẹ nhưng khi làm tờ báo
nào anh cũng có sức ảnh hưởng rất lớn đến bạn bè. Thời Ý Thức có những cộng tác
viên theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau… nhưng chẳng ai gây được sức
ép lên chủ trương mang tính nhân văn, mà anh đã vạch ra. Anh cũng kiên quyết
tránh tranh luận những vấn đề vớ vẩn như
viết cho ai, viết để làm gì... Có lúc bực mình anh nói: Viết để Chơi, thế thôi.
Nói “chơi” nhưng anh viết rất nghiêm túc dù bản chất là người gan góc, dám làm
dám chịu và luôn đứng mũi chịu sào, che chở cho anh em. Một lần họp mặt ở tòa
soạn “chuồng cu” của Quán Văn có người đưa ra nhận xét : Nguyên Minh chỉ cân nặng
45 ký, nhưng lá gan nặng ít nhất 10!
4
Nước mắt và những
trang văn.
Trong các bạn văn của Nguyên Minh tôi
có gặp hai người rất “lạ”. Một Kiệt Tấn vô cùng nhạy cảm mà bất cứ lúc nào cũng
khóc được. Còn người khác là Trần Hoài Thư, có lẽ là nhà (mê) văn và yêu sách
nhất hiện đang sống ở New Jersey. Tên anh là Trần Quý Sách và cái tên đó đã vận
vào người. Đã đã ấn hành trên 20 tác phẩm thơ, văn, một người trước đây chỉ biết
viết, chưa hề biết in ấn thế mà sau khi sinh sống ở New Jersey, Hoa Kỳ anh cùng
các bạn chủ trương tạp chí Thư Ấn Quán, thực hiện các chuyên đề sưu tầm, giới
thiệu văn chương miền Nam. Đặc biệt, tạp chí nầy chỉ dành để tặng theo yêu cầu,
không bán, không nhận quảng cáo. Tính đến tháng 08.2016, tạp chí Thư Ấn Quán đã
ấn hành được 71 số!
Vì công việc này nên nhà thơ Nguyễn
Lương Vỵ đã gọi anh là “Người ngồi khâu di sản văn chương” (1)
…sống chết như trò
đùa số mệnh
nhưng văn chương ngấm
hết ân tình
…
…người ngồi khâu bao
nhiêu kỷ niệm
không oán than chỉ biết
ân cần
sợi chỉ luồn kim khâu
chầm chậm
như thời gian rưng
rưng tháng năm..
Trong truyện ngắn “Chạnh lòng” NM đã
viết về người bạn thân thiết của mình: “… hiện tại hắn còn có một nhà in nhỏ, kể
cả máy xén, máy đóng sách. Hắn lục đục suốt thời gian rỗi rảnh để in một tạp
chí văn học, tụ hội lại những bạn văn còn sống ở hải ngoại cũng như còn lại ở
trong nước. Hắn say mê công việc in ấn mà từ trước tôi không bao giờ nghĩ tới hắn
có thể làm được. Ngày xưa, mỗi lần ghé thăm tòa soạn, nhìn anh em cặm cụi làm
việc trong nhà in, hắn chỉ đứng nhìn mà cười rồi nói: - “Mình chịu thua. Mình
chỉ viết văn, làm thơ. Còn cậu lại thêm đam mê nghề in này, để in ra những tác
phẩm của anh em ngày mỗi đẹp và trang trọng lên. Mình chịu.” Thế mà giờ đây
trên đất Mỹ hắn có được cái mà ở quê nhà tôi đã mất…”
5.
Đôi mắt màu xanh
dương
Nếu đôi mắt đẹp là đôi mắt chỉ nhìn thấy phần tốt trong đời sống thì đôi mắt màu xanh dương của
Nguyên Minh là một trong số đó. Bằng tâm hồn nghệ sĩ tràn đầy mộng mơ, cái nhìn
của anh trong trẻo hồn nhiên đến kỳ lạ. Anh nhìn cái gì cũng thấy tươi, thậm
chí nhìn cái cũ cũng vẫn thấy mới. Và cảm xúc của anh tuôn trào, tất nhiên qua
ngòi bút, nhưng nhiều khi cũng theo dòng nước từ đôi mắt xanh ứa xuống, khóc tự
nhiên như đó là một chuyện rất bình thường.
Trong đời tôi,
có lẽ đã gặp được hai người cầm bút sống bằng cảm xúc mạnh mẽ, mỗi khi
“cần”, tiếng ồ ồ của họ bất ngờ vang lên giữa yên lặng và hoảng hốt của bạn bè.
Người đó là Kiệt Tấn (2 ) . Bỗng dưng khóc. Tự nhiên cười. Lần gặp ở Paris, sau
tiếng khóc của bạn, Nguyên Minh đã rót một ly Bordeau đưa cho KT:
- Nè anh bạn, khóc được là sướng lắm. Uống
cạn ly rượu này là sẽ quên hết. Tôi biết mà!
KT
chẳng nói gì nhưng ngửa cổ uống một hơi rồi nín khóc. Đôi khi Nguyên Minh cũng
nói là mình… thèm khóc như vậy… nhưng có lúc không làm được.
Cái khác của KT là nhà văn độc lập, tự
do viết về cái “tôi” và can đảm chịu trách nhiệm bài viết của cá nhân mình, còn
NM phải đại diện cho một tờ báo văn chương. Và có lẽ chính ở sự khác biệt này mới
làm nổi bật tính cách của anh: biết lắng nghe và dung hợp mọi tiếng nói, khéo
léo tách riêng phần tử số đặc thù của mỗi cá nhân, chỉ chú tâm đến mẫu số chung
là tình yêu văn chương để xây dựng một mái nhà chung. Nhờ không cố chấp nên anh
kết hợp được những người cầm bút có cá tính khác nhau để cùng nhau đi trên một
chặng đường. Con đường ấy là con đường dùng chữ nghĩa để làm đẹp cuộc đời và những
tờ báo của anh điều hành càng ngày càng phát triển. Trong một lần hội ngộ ở Sài Gòn, Gs Trương Đăng
Dung (Viện Văn Học) tuy gặp lần đầu mà đã trao đổi với NM thật say sưa. Đúng là
những tâm hồn đồng điệu gặp nhau... Quyến luyến chia tay, anh nói với tôi và
Hoàng Kim Oanh: “anh ấy đúng là một trí thức có tâm hồn nghệ sĩ...”
Trong truyện ngắn “Ước mơ vẫn là ước
mơ” có viết một ý mà khi nào đọc lên cũng làm tôi bần thần suy nghĩ: “ Có một số nhà văn nhà thơ qua một giai đoạn
lịch sử nào đó lại chối bỏ những sáng tác cũ của mình. Họ phủ nhận hoặc ngượng
ngùng nếu ai nhắc lại.Tôi nghĩ những tác phẩm đó họ không viết từ con tim, từ
những suy nghĩ thật lòng, nên nó không tồn tại.” Bần thần vì tôi nghĩ đến những
nhà văn, sau nhiều năm thẹn thùng nhìn lại
những trang viết cũ rồi tìm cách che giấu chúng…
Còn
NM, anh viết bằng tấm lòng chân thật nên vững vàng và không có điều gì để hổ thẹn
với lương tâm : “Phải, viết như một ăn năn. Viết như một thú tội. Nhưng viết
cũng như đi tìm hạnh phúc. Sau 25 cầm bút trở lại tôi mới nhận ra điều này.
Ngoài ra với tôi,viết như trả nợ. Món nợ mà tôi đã mang trong lòng về những người
đã đi vào đời tôi.”
6.
Ký ức chìm sâu
Sau
25 năm vắng bóng trên văn đàn, anh buông bút, trú thân vào vai trò nông dân, cuốc
đất, trồng rau, làm thợ may, buôn bán thuốc tây…việc nào cũng ê chề thất bại,
vì anh không sinh ra để làm những công việc đời thường. Tôi không hiểu rõ đời sống
của anh lúc đó cơ cực như thế nào nhưng tin chắc là mỗi lần dừng tay lau giọt mồ
hôi… đôi mắt xanh lặng buồn của anh không ngớt kiếm tìm những người đồng cảm,
những người biết lắng nghe và nói chuyện văn chương. Mất gì anh cũng chịu được, vật chất
phù du nên anh rất dửng dưng, nhưng thiếu bạn
văn… thì khoảng trống trong lòng anh chắc là mênh mông lắm..
Rồi còn những trang văn? Một người
sống bằng xúc cảm và có một nội tâm như ngọn núi lửa như anh, có thể nào buông
bút? Và câu hỏi này cứ xoáy vào đầu tôi, từ lúc quen biết anh, tôi đã hỏi đi và
hỏi lại rất nhiều lần. Vì câu trả lời của
anh cũng sẽ là cho tôi, dù hoàn cảnh có khác vì tôi phải sống ở nước ngoài,
nhưng khoảng thời gian hơn 25 năm dăng dẳng của những người “nghiện” viết, thì
kéo dài như bất tận.
Và cát bụi thời gian bất ngờ bị thổi bay, những con chữ âm thầm giấu kín dưới đáy vực âm u bật dậy. Chúng
tung tăng chạy trên trang giấy sau một
cuộc gặp gỡ người xưa, cảm xúc dâng lên như thác lũ…và món nợ một đời giục anh
phải trả:
“Tôi tập sử dụng vi tính. Như ngày
nào gõ lọc cọc trên bàn máy chữ, giờ thì gõ mấy ngón tay lên bàn phím, tiếng lạch
cạch êm ái chỉ phát ra trong sự tĩnh lặng buổi sáng sớm. Từng ý nghĩ tuôn trào
trên trang chữ. Bao nhiêu năm tôi không
viết được dù một đôi lần tôi cố sức cầm bút viết lên trang giấy trắng, chỉ đôi
ba hàng thì tịt ngòi. Con suối văn chương của tôi như bị lấp cạn, chôn vùi
trong ghềnh đá lớn. Tôi đau khổ, sống như một kẻ vô hồn. Bỗng một hôm nằm nghe
con suối róc rách chảy trong hồn, luồn khắp cơ thể làm hồi sinh. Người đến khơi
cát bụi của thời gian, bật đi sự chai lỳ của cuộc sống, vực tôi dậy tiếp tục bước,
không ai khác ngoài T. Tôi như người trong mộng, gặp lại người yêu xưa, sau ba
mươi năm xa cách. Những ngày nàng trở về thăm quê hương, đi bên cạnh nàng, qua những
hàng cây me trên những con đường tỏa đầy bóng mát mà hồn mình thì lênh đênh, như lạc vào cõi thiên
thai. Con suối trong tôi bắt đầu reo vui tuôn chảy vượt qua bao nhiêu ghềnh đá,
trở thành những thác nước lớn.” (TN Chạnh lòng).
Vì cảm xúc yêu thương sống lại nên
không gian khi cầm bút cũng rất nên thơ và lãng mạn: … “Mặt trời lặn dần sau
chân đồi. Rừng thông trước mặt tôi cũng đã đổi màu. Xám lại. Một màu lãng đãng
không còn phân biệt, đâu là cành lá… thân cây, đâu là màu tia nắng vàng óng
ánh… Đâu đó còn một vài điểm chấm nhỏ li ti đỏ bầm của những mái nhà ngói đỏ
bên kia đồi… Màu khói lam chiều ai đốt lửa xa xa dưới thung lũng… Tất cả những
màu sắc đó đã hòa lẫn với nhau thành một màu duy nhất. Màu của bóng đêm. Cảnh vật
đã chìm mất. (TCĐQ, tr.28).
Một
cơn gió thoảng, giọng nói phụ nữ… ba mươi năm tôi mới nghe lại được…. Như một
nhắc nhở. ….Vâng, văn chương là cái nghiệp mà khoảng đời còn lại tôi phải trả.
Thời gian trôi đi. Tuổi già kề cận. Nhận dạng lại những người thân yêu đã đi
qua đời tôi. Tưởng chừng như đã quên. (TCĐQ, tr.28)
7.
Món nợ trọn đời.
Trong
ca khúc “Anh còn nợ em” nhạc sĩ Anh Bằng
đã dẫn dắt người nghe đi tìm lại cuộc tình đánh mất còn lẩn khuất nơi nào đó
trong trái tim mình…Tình yêu mất nhưng lòng người trong cuộc vẫn còn vương vấn,
suốt đời đau đáu ngóng trông về phương ấy với một câu hỏi chạnh lòng… “em có hạnh
phúc ?”…
Không dưới một lần, mỗi lần nghe
ai hát bài anh còn nợ em là mắt NM rơm rớm! Nhìn khuôn mặt anh lúc ấy
lòng tôi cũng cảm thấy bùi ngùi. Biết là anh có tâm sự riêng nên thường tự hỏi
là anh còn nợ ai? Nợ cái gì? Anh nợ tình hay nợ nghĩa? Trong cuộc sống rõ ràng
là chúng ta nợ nần quá nhiều người. Không chỉ nợ công ơn sinh và dưỡng của cha
mẹ mà ta còn nợ nần những người làm cho cuộc sống ta tốt đẹp hơn, có ý nghĩa
hơn. Đó là ý nghĩ thường thoáng qua đầu tôi, sau mỗi lần họp mặt với bè bạn và sau mỗi chuyến đi với
bằng hữu Quán Văn. Tuổi đời càng chồng chất, món nợ ân tình bè bạn, chia sẻ với
nhau từng cảm nhận, từng vẻ đẹp văn chương và tình người lại càng sâu đậm.
Còn Nguyên Minh, anh mắc nợ ai? Nợ
cô T. về mối tình đầu không thành? Về lần hẹn
đi
ăn trưa với nàng rồi thay vì chở nàng đến nhà hàng, anh như ma ám, tạt ngang
qua nhà in, sẵn tay sửa lại bản in, có
báo rồi anh quên hết trời đất, bỏ nàng chông chênh giữa vệ đường với chiếc xe
chết máy, trời đang mưa : “… tôi đã bỏ T. bên lề đường, núp dưới mái hiên gần cột
đèn, cùng chiếc xe gắn máy hết xăng, còn tôi thì ôm trong lòng mấy tập báo Ý Thức
đầu tiên, đón taxi đến nhà Ngân, nơi bạn bè văn nghệ đang chờ… ”(TCĐQ, tr.12),
Và khi người bạn hỏi nàng ở đâu để đón về, thì câu trả lời: – Khúc nào đó trên
đường Phan Thanh Giản/…- tóc thề hay tóc uốn, mặc áo màu gì?/ – hình như tóc thề,
áo dài màu vàng…
Hình như? Hai người yêu nhau đã hơn
5 năm… nhưng anh đang ngập trong mùi mực và tờ Ý Thức mới ra lò. Khi một người
bạn hỏi, –chữ Ý Thức của tờ báo số 1 màu gì?- Thì không đầy một giây anh đáp
ngay màu đỏ bầm! Bó tay thật! Hôm ấy nàng mặc áo tím mà anh không nhớ!
Những
chuyện kiểu này với T. nghe đâu không phải một lần… thế thì ai mà chịu nổi một
người tình như vậy?Anh mất T. là phải,
là …“đáng đời” nên phải mang nợ, ăn năn như một cách tự trừng phạt suốt đời để
lương tâm nhẹ nhõm.
Ngày biết T. lấy chồng, anh buồn. Uống
thuốc ngủ để quên đi mỗi buồn, nhưng quá liều, ngủ li bì một ngày một đêm, suýt
chết. “ Giấc ngủ đầy mộng mị, vừa đẹp vừa buồn, vừa hạnh phúc(?) vừa đau khổ”.
Bạn bè đều tưởng anh tự tử ( tn Người viết kịch)
Mãi 30 năm sau họ mới gặp lại. Lúc
này chồng của T. chết nhiều năm, ¼ thế kỷ, nhưng nàng không đi bước nữa. (Loanh
quanh lòng phố cũ). Gặp nhau có lẽ vì muốn biết anh có còn mê viết văn làm báo
nữa không? Hay ngày bỏ rơi, quên hẹn với mình chỉ là một đam mê nhất thời…và
chính tác động này làm NM cầm bút trở lại.
Thời gian trôi đi…50 năm sau gặp lại
nhau trái tim NM thình thịch còn chân tay còn run như thanh niên 18. Đó là ý
nghĩ khi tôi ăn cơm ở nhà nhà văn Lữ Quỳnh, quan sát anh và T. ngồi quanh bàn
ăn, họ nhìn nhau, e thẹn. Trước bữa đó còn có cả những giận hờn vu vơ. Là người
nhạy cảm, trái tim mệt mỏi sau 50 năm vẫn còn rung động, tuy nhịp đập có chậm
đi, nhưng cảm xúc dường như chưa hề thay đổi. Vẫn là mối tình trinh nguyên như
thuở mới yêu. Vật đổi sao dời là chuyện của đời, còn tình cảm mà họ dành cho
nhau như bất biến với thời gian.
Ngoài T., nước mắt anh còn chảy xuống
cho ai? Mẹ, cha? Anh em bạn bè? Những con người kỳ lạ đã đi qua đời anh, từ anh
thủ môn đến hậu vệ trong đội bóng của ba mình? Đâu đó, trong tất cả chúng ta
còn bao nhiêu món nợ vì ước vọng không thành. Tuổi trẻ đi qua trong đau thương.
…Hay anh nợ chị Lan, người vợ cả đời chăm sóc anh như con trai. Lo lắng mọi
chuyện…cái nghĩa nặng…nhưng chỉ là ân nghĩa. Vì dù sao, cuộc hôn nhân bình an,
không hề xáo trộn ấy cũng có nhiều mất mát, vì cái “Tình” duy nhất đã bay theo
cái cô T. ngàn trùng xa cách…
Nhưng
nói chung nợ gì cũng chỉ là nợ tình, nợ
nghĩa nợ văn chương chứ không phải nợ áo cơm dù sau 75 anh mất mát nhà cửa, xưởng
in, tờ báo… vì vật chất với anh, tuy cần
thiết nhưng thực ra chỉ là thứ yếu trong đời. Tinh thần, cảm xúc với anh mới là
quan trọng.
Trong phần cuối truyện Tưởng chừng đã
quên, anh viết: “ Văn chương là một cái nghiệp mà khoảng đời còn lại tôi phải
trả. Thời gian trôi đi. Tuổi già kề cận. Nhận dạng lại những người thân yêu đã
đi qua đời tôi”
“Những nhân vật của tôi sau này đều là những
người thân yêu. Người yêu cũ. Người vợ hiền. Cô bạn láng giềng ngây thơ thời
thơ ấu. Người mẹ bao dung.Người cha khắc nghiệt. Những người bạn cùng say mê
văn chương… Tất cả những người thân yêu đó bấy lâu tưởng đã hóa đá trong tâm hồn
tôi. Sau bao nhiêu năm tháng, một hôm bỗng rủ nhau trở lại thành người, đánh thức
tôi, gợi lại những xúc cảm mới… họ đã cho tôi biết bao điều muốn nói.Tất cả những
người thân yêu đó đã quyện vào tôi như nhập thành một.Tại sao tôi phải im lặng” (TN Sợi tóc mong manh) .
Có
thể nói NM là một người can đảm. Dám sống.
Dám viết về những gì mà nhiều người chỉ muốn chôn sâu, cất kỹ. Tất cả được kể lại
bằng giọng kể chân thành. Chỉ cần đọc những gì anh viết là hình dung được cuộc
đời anh: “Tôi phải tìm lại dấu vết ngày xưa như nhà khảo cổ đào bới dưới mấy tầng
đất cát đã chôn vùi một thành phố cũ…” ( Ngôi nhà số 11)
Chính
vì anh nghĩ viết về người cũng là viết về mình. Khó thể tách rời. Dù có thêm phần
hư cấu, chất liệu không thể thiếu của một người cầm bút.
Nhưng theo thiển nghĩ của tôi thì anh
thích “tận dụng” tối đa nhân vật, chi tiết
có thật ngoài đời, các chuyện phần lớn được xây dựng từ những nguyên mẫu có thực
và đầy ắp những buồn vui, đau đớn của thời đại, của kiếp nhân sinh. Anh viết tự
nhiên, không quá câu nệ trau chuốt chữ nghĩa, và trong cốt truyện thường có dụng
ý cho người đọc thấy những cảnh ngộ của con người trong cuộc sống.
Tưởng chừng đã quên có thể chưa phải
là tập TN hay nhất của NM, nhưng
với tôi, nó là tập truyện tiêu biểu nhất khi anh cầm bút trở lại sau 25 vắng bóng do
năm biến động thời cuộc. Nó phảng phất tư tưởng, hoài niệm và chiêm nghiệm sau
những vật đổi sao dời.
Và cũng thật tình cờ “Trong buổi ra mắt tập truyện "Tưởng chừng đã quên" có T. từ Mỹ về,
vợ tôi ngồi bên cạnh, còn tôi sau cơn đau bao tử hành hạ, mà cảm thấy chưa bao
giờ mình hạnh phúc như thế.”
8.
Một vài trang viết
Nguyên Minh nói viết cho vui. Nhưng những
câu chuyện của anh viết đều buồn. nhưng tuy buồn mà không hề thất vọng. Có lẽ
cũng như tôi, anh “ vẫn” còn tin ở cuộc đời, mặc dù…
Tôi
không phải, và cũng không muốn làm nhà phê bình, nhưng trong bài viết này về
anh nên cũng muốn đọc lại vài truyện ngắn tiêu biểu và đưa ra vài nhận xét. Có
thể đây chỉ là những nhận định chủ quan, nhưng dù sao cũng đem lại chút ánh
sáng cho những trang viết ấy.
NM viết văn với bút pháp đơn giản
nhưng khi kể chuyện anh sắp xếp bố cục giầu kịch tính từ mở đầu dẫn đến kết thúc bất ngờ nên tạo cảm xúc
và buộc người đọc phải suy nghĩ. Có thể nói trong những câu văn hiền
hòa nhưng đậm chất cuộc đời nên chuyện anh kể khá sinh động. Đọc anh ta không
chỉ thấy những mặt phải, mà ta còn thấy được cả mặt trái của xã
hội của một thời đã qua trên từng trang viết. Cái tính hiện thực đó
làm cho văn của anh giá trị và chân thật .
Trong Ngôi Nhà Số 11 anh kể về người
anh ruột tên Thương, sau khi đi tập kết trở về, do bị tẩy não, nên đã phủ nhận
những kỷ niệm thời xa xưa mà mẹ đã chắt chiu gìn giữ. “Mà mẹ giữ nó lại làm gì?
Sao không hủy đi những thứ nhạc vớ vẩn này?...
Anh Thương vất tập vở chép nhạc đó xuống đất. Tôi, hình như nghe tiếng
kêu, từ một cõi xa xôi nào đó, vọng vào tim mình. Thảng thốt. Rên rỉ. Đau đớn.
Khuôn mặt buồn phiền, thất vọng. Đôi mắt ngẩn ngơ. Rớm lệ. Từng giọt nước mắt
rơi xuống. Của mẹ tôi. Theo từng trang giấy lật tung lên” (Ngôi Nhà Số 11, trg
111). Tập nhạc ấy chính là của anh thời trẻ đã cẩn thận ghi chép các bản nhạc
yêu thích mà giờ không nhớ. Nhưng, qua thời gian và trên giường bệnh, cuối đời
anh Thương cũng nhận ra những sai lầm của mình ngày trước về những kỷ niệm: “Một
giọt nước nóng hổi của anh rơi xuống vai tôi. Rồi tiếng nấc nghẹn ngào từng hồi
tuông ra/ Cuối cùng anh mới mấp máy: tập vở chép nhạc…” (Ngôi Nhà Số 11, trg
116).//
Nhưng
truyện ngắn có một thời (3) của
anh theo tôi là truyện để lại nhiều ấn tượng nhất.
Câu
chuyện viết về những năm tháng khốn khó, người ta phải nuôi lợn làm kế mưu
sinh… nhưng bằng giọng văn điềm tĩnh NM kể lại làm người đọc vẫn thấy cảm giác
rờn rợn, vì chi tiết cộc cằn khiến người đọc thấy buồn nôn vì cảnh con người đã
biến chất, mất hết nhân tính. Đọc xong người đọc không khỏi đặt ra một cật vấn
đau đáu về cái chất người, và nỗi lo âu con người sẽ đi về đâu, khi cái “chất lợn”
ấy lây lan ô nhiễm xã hội.
“Thím khoe với tôi cái chuồng heo
thím mới sửa. Nhìn mặt nền lát bằng những phiến đá xanh, khít khao với nhau bằng
đường kẽ rất nhỏ. Tôi ngạc nhiên và thắc mắc không biết những tảng đá xanh này
thím mua từ đâu, thì thím đã nói: Chú thấy chưa, công trình xây dựng của tôi
đó. Cái nền này chắc chắn vô cùng… Mấy nhà bên cạnh, trong cư xá này đều bắt
chước tôi đó.”
Người đọc sau đó sẽ hiểu những tảng đá xanh vững chắc kia là những bia mộ
người chết sau khi nghĩa trang bị giải tỏa. Trước ánh mắt kinh hoàng của tôi
thì: “Thím tôi nhìn vẻ mặt đỏ ngầu của tôi, trả lời tỉnh bơ: “Có gì lạ đâu cậu,
những tấm bia của người chết toàn là ngụy quân ngụy quyền, lại còn cả những ông
Tây bà đầm thời Pháp thuộc, lật úp nó xuống, những tên những tuổi nằm xuống mặt
đất, đưa lưng đá xanh còn tốt, mình nuôi heo, bán ra có tiền nuôi sống biết bao
nhiêu con người, như gia đình chú ruột của cậu đây. Cậu bỏ tư tưởng tiểu tư sản
ấy đi.”
Nhưng dã man hơn cả, tán tận lương
tâm hơn cả là chuyện mang những thai nhau về làm thức ăn cho heo hay ngâm làm
rượu bổ!
Tôi không muốn nghe những lời của
thím nữa. “Thời đó tất cả mọi người đều phải ăn độn, lúa mì hoặc bo bo. Huống
chi là súc vật chăn nuôi, nhất là giống heo ngoại quốc này, muốn mau lên cân,
giảm ngày nuôi, thím tôi thúc chúng bằng một thức ăn thật là kỳ lạ. Ban đầu,
cũng như những tấm bia kia, tôi mù tịt, cứ ngỡ những nắm thịt bầy nhầy được bầm
nát bằng con dao phay to tướng và nặng trịch, nổi lên lềnh bềnh trong nồi nước
sôi sùng sục, là những mớ thịt dư thừa thím xén bớt từ nhà bếp tập thể của cơ
quan. Thím trộn những mớ thịt đó chung với cám tổng hợp làm lũ heo thích thú
dành nhau ăn”…
“Tôi
mang máng nhận ra có gì rất lạ đến kỳ quái từ những mớ thịt làu nhàu đó cho đến
một hôm thím vội vàng đi đâu đó liệng vội vào chuồng heo một miếng thịt sống,
lũ heo như bầy quỉ dữ nhào vào cắn xé giành giật, mỗi con mang một miếng nhỏ
vào riêng từng góc mà nhai ngấu nghiến. Hình ảnh đó làm tôi rợn người tưởng chừng
trước mặt mình là bầy cọp đói đang xâu xé một con người.”
Những
miếng thịt đó là những thai nhi. Nạo thai.
“Đêm
đó tôi ngủ ngoài hiên. Tôi cứ trằn trọc mãi đến nửa khuya mới thiếp đi. Và một
cơn ác mộng làm tôi nghẹt thở. Lũ trẻ con đông như kiến, những mái tóc đen óng ả
uốn quăn, miệng nở nụ cười rạng rỡ,… Nhưng, bỗng dưng có tiếng gầm thét như của
loài hổ dữ, rồi hiện ra những khuôn mặt đàn bà, miệng méo mó, đưa ra những hàm
răng nanh nhọn hoắc, nhào tới chụp lấy một vài đứa trẻ, xé nát nó ra từng mảnh
nhỏ như người ta thường xé thịt gà luộc làm gỏi. Lũ trẻ hoảng hốt bỏ chạy, té
lên té xuống, u đầu, trật chân. Chúng kêu la thảm thiết. “Ông ơi cứu chúng con
với”. Tôi hỏi tên chúng. Chúng lắc đầu bảo: “Tụi con chưa có tên.” “Vì
sao?” “Chúng con là những bào thai chết.”
“Tôi kể lại giấc mơ đó cho thím... Thím nói tỉnh bơ: “Chỉ là giấc mơ. Vớ
vẩn.” Tôi tò mò hỏi tiếp: “Hình như gần đây thím đã vài lần nạo thai.” Khuôn mặt
thím tôi biến sắc nhưng sau đó trở lại bình thường, thím gật đầu. “Chuyện thường
tình mà cậu!”. Còn tôi, tôi cảm thấy lạnh, lạnh từ xương sống lạnh ra.”
“Từ giấc mơ này tôi mới nhớ chuyện
xưa...ngày ấy tôi chỉ là một đứa bé con, bị trật chân suýt té xuống bậc thang,
mẹ tôi đưa tay níu kéo cứu tôi…bị trợt chân té lăn cuộn xuống cầu thang, bất tỉnh
trên thềm xi măng. Máu từ ống quần chảy
ra lênh láng.. Mẹ tôi bị sẩy thai. Cái bào thai 5 tháng đổi mạng thằng bé 5 tuổi.
Mẹ tôi bỏ bào thai đó vào một cái lu
sành nhỏ và đem chôn…”
Những liên tưởng làm người đọc rợn người. Cảm
giác như thân xác mình đang bị băm vằm
như những bào thai bị xé phanh thây để lũ
heo ăn cho chóng lớn!
Chưa hết. Trên chuyến xe đò vào lai
Sài Gòn anh còn nghe bác tài kể lại “Chuyện tượng người lính cầm súng bằng đồng,
dựng trước cổng nghĩa trang chảy nước mắt. Những thiếu phụ ra thắp nhang cho chồng
thấy lạ, lấy chiếc khăn tay lau những dòng nước đang tuôn lệ từ khoé mắt bằng đồng.
Khăn ướt dầm mà nước mắt vẫn tuôn trào.”
“Người lơ xe kể tiếp… một buổi sáng mùa đông… người phu quét đường bỗng
phát hiện ra những tấm bia từ các nghĩa địa bị bốc dở không cánh mà bay đến, dựng
đứng từng hàng, trước mặt những tiệm buôn ngày xưa tấp nập giờ đã vắng tanh. Những
người đi bán hàng rong buổi sáng sớm ở khu phố đó, dừng lại đứng xem. Những tiếng
khóc than phát ra từ tảng đá xanh đó, buồn thảm, ai oán. Tiếng Tây có. Tiếng Mỹ có. Tiếng Việt có. Cùng
tiếng bom rơi, đạn nổ. Tất cả trộn lẫn với nhau, làm những người trông thấy đều
rùng mình…”
“Tôi giật mình. ..linh cảm những tấm bia kia
phát xuất từ khu cư xá của thím tôi là có thật. ….Trước khi mở cửa vào nhà thím
tôi ngạc nhiên thấy ở một góc sân hẹp dựng lên một trang thờ nhỏ có một lư
hương cắm đầy nhang đã cháy tận gốc. Xuống nhà bếp, đúng là những tấm bia lót nền
chuồng heo đã bốc lên, còn lởm chởm những tảng ximăng lở lói. Cái máng ăn cũng
đã đập vỡ. Thành chuồng cũng trống trơn. Thím bảo: “Không bao giờ tôi nuôi heo
nữa cậu ạ. Tất cả vốn liếng tôi đều mất sạch.” Thím cho biết bầy heo chóng lớn
kinh khủng, tưởng rằng bán mấy tạ heo này sắm được vài cây vàng, ngờ đâu trước
ngày xuất chuồng chúng bỗng dưng ngã đùng ra dãy chết. Bệnh gì mà kỳ lạ chưa
bao giờ thấy cả. Những hạt như hạt gạo, màu đỏ như máu, nổi lên khắp thân thể
chúng, và toát ra một mùi hôi thối như mùi xác người chết đã thối rữa. Bán không
ai dám mua, cho không ai dám nhận. Không biết đâu mà chôn. Nửa đêm, vợ chồng
con cái bịt mũi, xúm nhau khiệng liệng xuống con kênh nước đen. Cả xóm, những
gia đình mà thím tôi đã bày vẻ kiểu nuôi heo quái đản đó đều gặp phải cảnh tượng
như vậy. Không chỉ mấy chục con heo ngã
đùng ra chết mà những người nuôi chúng đều gặp những tai nạn bất ngờ. …Người bị xe đụng gãy chân mặc dù họ đi bộ
trên vỉa hè. Kẻ bể đầu khi choáng váng mặt mày tông vào cột điện… Họ kể cho nhau nghe những giấc mơ kinh hồn về
những oan hồn của những bào thai đó, chúng như những nhân sâm cao ly, chân tay
ngắn ngủn, rũ nhau đè lên thân xác họ mà cắn xé, như lũ heo đã từng ăn xác
chúng. Sợ quá, thím tôi và những người láng giềng, mỗi nhà lập một cái am nhỏ,
hằng đêm thắp nhang cầu xin những oan hồn bé nhỏ vất vưởng và khôn thiêng đó
tránh xa họ. Lại nữa, những bóng ma của những người đã chết từ những tấm bia
kia hiện ra trong đêm tối mịt mù rên khóc thảm thiết than đói, rên lạnh.”
Sau đó anh còn nhắc đến cái thẩu thủy tinh chứa rượu màu vàng sánh của
ông chú mà bà thím bảo là rượu bổ, do
thím đặc chế. Quí hiếm lắm, không phải ai cũng có. Chú tôi gọi là thuốc trường
sinh. Bầy giờ “Chú tôi kéo tôi ra trước
nhà nói nhỏ: “Thím mày đập bể rồi. Thôi đừng nhắc đến nó nữa làm thím mày hoảng
sợ.” … “Cậu biết thím cậu ngâm thứ gì trong rượu không?” Không đợi tôi trả lời,
chú nói tiếp: “ Cái nhau.”…Thím nói với tôi “Thím không muốn chú ngã đùng ra chết
như lũ heo kia với một căn bệnh quái đản, bỏ cả vợ con.”
“Tưởng rằng mọi chuyện đã chấm dứt. Tôi đâu ngờ,
sau thất bại ê chề về nuôi heo với thực phẩm mà Thím tôi đã chế biến kia, Thím
tôi quay qua làm thuốc giả và tôi vô tình là kẻ tiếp tay. Tình cờ, có một hôm
trời nóng quá, nửa đêm tôi thức giấc, ngang qua phòng Thím còn thắp ngọn đèn ngủ,
nhìn vào, tôi thấy Thím lom khom mở những viên thuốc thật, trộn vào một thứ gì
đó. Sáng dậy tôi hỏi Thím sự việc, Thím trả lời tôi một cách thản nhiên: “Có chết
chóc đâu mà sợ, chỉ thêm một nửa bột mì.” Từ đó, tôi không dám đi buôn thuốc
tây nữa. Tôi không vào Sài Gòn. Ở quê cùng vợ cuốc đất, trồng rau.”
“Mãi đến mấy năm sau, tôi ghé thăm chú thím. Đúng ngay ngày liệm xác
thím. Đêm đó, không biết từ đâu lũ mèo hoang kéo nhau về, tụ tập trên mái nhà,
chúng ruợt đuổi nhau, cắn xé nhau, và cất lên những tiếng kêu như tiếng khóc của
những đứa trẻ sơ sinh.
Tôi không hiểu những ngày nằm trên giường bệnh,
với nỗi đau đớn về thể xác của căn bệnh ung thư tử cung trong giai đoạn cuối,
thím có còn bị dằn vặt, ám ảnh về những bào thai mà ngày đó thím không công nhận
đó là những con người. Chú tôi kể lại, trước khi trút hơi thở cuối cùng, thím
khóc. Tiếng khóc như tiếng mèo gào.”
Đó chỉ là một trong những câu chuyện “bình thường”
trong một giai đoạn lịch sử, của một thời đã qua. Nhưng, theo tôi, câu chuyện
“Có một thời” này của NM viết nhân bản mà kinh khủng hơn truyện ngắn tương tự của
Nguyễn Huy Thiệp về hoàn cảnh một ông “tướng về hưu”. Hai mẫu người, do ảnh hưởng
hai nền giáo dục khác nhau nên tính cách làm người cũng khác nhau. Đã đành cuộc
sống ai cũng phải mưu sinh để tồn tại, nhưng bà thím đã mang những tấm mộ bia về
lót nền nuôi heo là sự báng bổ và chà đạp lên những vong linhcủa người thua cuộc
và việc mang thai nhi về băm nhỏ, trộn với cám cho heo ăn thì đó là hành động cực
kỳ dã man .
Truyện ngắn có một thời nhân bản hơn
vì không chỉ kể lại cái ác, cái phi nhân mà còn mang tính triết lý giáo dục, gợi
đến thuyết nhân quả và chiều sâu tâm linh. Một truyện ngắn hay không thể chỉ là
một câu chuyện kể, mà phải được nâng cấp nhờ màu sắc tâm linh, chứa đựng nội
dung nhân bản và có tính phê phán, răn đe… để làm đẹp cuộc đời.
9.
Tình, Nghĩa rạch ròi.
Về
tình yêu và gia đình thì Tình và Nghĩa của NM là hai khái niệm rạch ròi. “…
tình yêu tôi chỉ dành cho một người”. Trong tiểu thuyết Bàn tay nhỏ dưới
mưa tôi viết về nhân vật Gấm và anh nhà
báo: “Sự hòa hợp về thể xác và tinh thần là điều kỳ diệu nhất của cuộc đời. Nó
thõa mãn bản năng lớn nhất và thiêng
liêng nhất của con người. Đó là đỉnh điểm của những gì mà con người có thể hy vọng
nhận được trong sự tồn sinh” nhưng có lẽ NM không nghĩ thế. Trong anh không có
cảm xúc mãnh liệt hay dòng máu nóng để
đam mê cháy bỏng vì tình yêu. Tình yêu duy nhất ấy không thành. Anh cũng… thôi
yêu. Có lẽ là do duyên nghiệp, tình yêu sách đã quá choáng ngợp và thay thế mọi
thứ cảm xúc. Mực in, chính là nhiên liệu để anh
thắp sáng niềm đam mê, nghe mùi mực hóa thân thành những con chữ trên
trang giấy.Tình yêu anh dành cho “người ấy” là tuyệt đối và cả đời anh không hề
yêu ai nữa. Còn vợ anh, gặp nhau tình cờ, nhưng anh đã sống hết mình với gia đình, trọn vẹn ân
nghĩa.
“Tình” của NM rất riêng biệt và rất
khác với tình yêu thường gặp… nhất là trong giới văn nghệ sĩ. Đa tình. Đa cảm.
Quan hệ nhập nhèm. Còn anh, suốt đời chỉ yêu có một người, yêu một lần là yêu
mãi và dù chẳng bao giờ còn gặp người
xưa, nhưng trong đáy lòng anh, tiếng vọng của vô thức luôn luôn hiện diện. Hình
như không có trang viết hoài niệm nào mà
không xuất hiện nhân vật T. như một phần không thể thiếu. Nó là máu thịt. Có thể
nói sự si tình của anh không bao giờ hết.
Chuyện vợ con, trong truyện ngắn Chạnh
lòng, anh kể : “Cậu tôi cũng hối thúc: “Sao cháu chưa lấy vợ?” Tôi chỉ cười trừ.
Tiếng ai hát, vọng từ nhà hàng xóm, bên kia đường. Giọng thanh cao, tự nhiên…
Tôi hướng mắt về phía đó, một dáng người con gái, trong bộ đồ bà ba trắng, vừa
đi vừa hát, băng qua đường…Tôi hỏi cậu: “Cô bé nào vậy cậu?” – “Cháu ruột của mợ
đó.” Rồi tôi nói như một người trong cơn mộng du: “Không hiểu sao lần về quê
ngoại này con có cảm tưởng có một cái gì đó lôi cuốn con, cuốn chặt con, hay mẹ
con dẫn đường cho con đây.” – “Để làm gì?” – “Lấy vợ?” – “Ai vậy?” Tôi chỉ về
cô gái đang vui cười với bạn bè kia: - “Cô bé đó!” Cậu tôi reo lên: - “Thật
không con?” …. Cô gái có khuôn mặt phúc hậu … Đôi mắt to và sáng. Khuôn mặt
trái xoan. Môi mỏng và đỏ tươi. Lòng tôi gợn lên một chút xao xuyến, như những
ngày đầu gặp T. …
…Vào
Sài Gòn tôi báo tin với chị Mai là tôi muốn cưới vợ. Chị vui mừng hỏi tới: -
“Ai thế? Tên gì. Gốc gác ra sao?” Giựt mình khi nhận ra tôi vẫn chưa hỏi cậu
tôi về cô gái, ngay cả tên họ tôi cũng chưa biết. Tôi thú thật: - “Em mới thấy
lần đầu, cô ta còn trẻ lắm. Cháu của vợ cậu.” Chị cười như không tin quyết định
vội vàng của tôi: - “Thôi đi cậu ơi, đã nhiều lần tôi chuẩn bị nhẫn cưới cho cậu,
thế mà cậu lại quên đi, sau một tuần xa cách!” Nhưng rồi chị xuống nước nhỏ: -
“Biết đâu duyên số của em như thế. Em về thưa chuyện với dì để dì ra ngoài đó
cùng cậu lo toan việc dạm hỏi?” Tôi cũng nghĩ là tôi nói đùa. Cô gái mang dáng
dấp của một người tôi yêu tha thiết. T. đã vụt khỏi tầm tay. Có phải tôi bắt cô
gái kia thế chân vào không?”
10
Bao năm mải miết đi
tìm..
Gần năm mươi năm trôi qua, từ những
thanh niên mang trong mình một hoài bão văn chương giờ đây Nguyên Minh và các bạn
cùng thời đã bắt đầu trở thành những ông già chậm rãi, mỏi mệt, cuộc vui hàng
ngày không phải là những trận cười thâu đêm suốt sáng mà là những lúc ngồi lặng
bên đống sách cũ, bùi ngùi nhớ lại thời trai trẻ, bồi hồi đọc lại những ước vọng
thưở nào. Họ không còn nhiều niềm tin ở tương lai, không sống bằng hiện tại mà
phần lớn sống bằng hoài niệm! Khoảng trống và nỗi đau trong lòng họ là một cái
thú đau thương của những người đang lật từng trang đời thời trẻ để vui buồn một
mình.
Nhưng, khác các bạn đồng niên, NM là
một lão tướng chịu chơi. Anh không ngồi lần giở những trang sách cũ mà muốn làm
sống lại những hoài niệm trên những trang báo mới. Ở tuổi 70, nhiều người buông bỏ để vui thú điền viên. Còn anh, thì
cơ duyên gặp những người đồng điệu, từ tháng 10-2011 anh can đảm đứng ra làm tờ
Quán Văn, một tờ nguyệt san thuần văn chương nghệ thuật. Tính từ ngày ấy đến
nay ( 11/2016) đã hơn 5 năm, ra mắt 42 số
báo.
Năm năm là thời gian có thể ngắn
trên con đường tôn vinh vẻ đẹp văn chương nhưng đó là một bước đi dài với nhiều
nỗ lực của chủ bút NM cùng tất cả những người chung tay góp sức xây dựng để
hình thành một tờ báo trong điều kiện không có nhiều người đọc và trên thị trường
tràn ngập sách báo vớ vẩn. Tuy không thuận lợi, người đọc sách ngày nay không
nhiều… nhưng QV đã trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu cho những người
yêu thích văn chương .
Hằng
tháng, trong những buổi ra mắt sách trong các quán cà phê đã trở thành một nơi
hò hẹn đậm tình bè bạn cho những người quan tâm đến QV. Để đáp lại tâm tình đó,
chủ bút NM và nhiều người cộng tác trong thầm lặng đã không ngừng trau chuốt
hình ảnh, biên tập để tờ báo đến với bạn đọc với hình thức đẹp và nội dung
phong phú.
11
Niềm vui… còn một
chút này.
Buổi sinh hoạt kỷ niệm tsvhnt Quán Văn tròn 5 tuổi ( 10/2016)
Giờ
đây, ở tuổi 75 NM đã cùng những người đồng cảm, những bạn đọc bạn viết đang
cùng đứng dưới bóng mát của Quán Văn để khỏa lấp nỗi bơ vơ. Ngô Thị Mỹ Lệ cho rằng
“Mỗi số báo là một lần lần được tắm lại trên cùng một giòng sông” còn Phan Nguyễn Châu Uyên thì mới đây viết trên
FB “Tôi nghĩ Quán Văn ra đời cũng tái
sinh tôi. Tôi được đọc những tác giả mình yêu kính, trong niềm hân hoan, cảm thụ
và chia sẻ. Đến Quán văn số 20 đã lung linh những “sắc màu”, những phụ bản, những
trang văn, thơ đã kèm theo dung nhan tác giả”. Còn Vũ Thế Thành thì nói trong
điều kiện thế này, mà NM vẫn nhẫn nại làm QV được tới mấy chục số, thì phải hiểu
NM lên cơn vã làm báo đến cỡ nào. Và anh tin là QV cũng sẽ ghi lại dấu ấn vào văn học VN.
Trong bài viết này tôi cố gắng khắc
họa chân dung văn học NM, có lẽ dưới đôi mắt chủ quan của mình, và xem đó là một
cách thể hiện lòng yêu mến và cũng để cảm ơn anh đã tạo dựng cho những người cầm
bút chúng tôi một mái nhà QV ấm cúng và chân tình. Để thay lời kết tôi xin nhắc
lại câu chuyện cà kê mà trong một lúc
cao hứng Vũ Thế Thành đã kể về anh: “
Diêm Vương nửa đêm đến gặp Nguyên Minh; “ Nhà người tới số rồi. Đi theo
ta…”. NM lắp bắp: “ Dạ, tới số thì con không dám cãi, xin ngài chờ con một chút
để con làm cho xong QV số 1.000 cho… chẵn, rồi chạy theo liền, khỏi phiền ngài
dẫn độ…”
Con đường văn chương trước mắt vẫn
còn hun hút xa không ai biết khi nào chạm tới đích nhưng xin chúc NM nhiều sức
khỏe để đi hết con đường mà anh đã chọn suốt một đời.
TRƯƠNG
VĂN DÂN
Sài Gòn 12-2016
Nguồn tsvhnt Quán Văn
số 43
1
https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2016/09/30/nguoi-ngoi-khau-di-san-van-chuong/
2
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/van-hoc-dan-gian/5496-kiet-tan-oi-khi-them-cht-nhng-vn-me-i.html
3
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=13124
No comments:
Post a Comment