Trương Văn
Dân
Đó là cảm giác đầu tiên ngay khi vừa đặt chân lên đất
Mỹ.Vẫn là những căn nhà xinh xắn, khang trang, sân trước vườn sau, nhưng khoảng
cách từ nhà này đến nhà kia trông giống như những dòng kênh mà vắng bóng chiếc
cầu, chia cắt.
Trước nhiều căn nhà ở Mỹ thường có
một lá cờ tung bay, không biết đó là dấu hiệu của tự hào, phô trương hay đơn
giản chỉ là ý nghĩ thuộc về một cộng đồng nào đó để thấy mình bớt lẻ loi?
Quy hoạch đô
thị ở Mỹ khá giống Úc, khu nhà ở, khu thương mại riêng biệt và cách xa nhau…
nhưng cách tổ chức xã hội năng động hơn, hiện đại hơn và dĩ nhiên là cũng xô
bồ, náo động hơn.
Người Việt ở Mỹ sống ở những căn nhà rộng, tiện nghi,
đời sống sung túc nhưng nếp sống và sinh hoạt của họ chẳng khác lúc còn ở VN là
bao. Khác với người Việt ở Âu Châu, thường xem mình là dân ngoại quốc sống trên
đất người, người Việt ở Mỹ sau vài mươi năm sinh sống đã tự cho mình là dân Mỹ.
Nghĩ, Tin như vậy ..nhưng trên thực tế, bị bứng gốc, thế hệ thứ nhất đâu dễ gì
hội nhập nơi quê người. Tôi tin là rất khó thể xóa mất nền văn hóa đã ăn sâu
vào máu thịt.
Nhà ở và phố thị cách xa nhau, không
phương tiện công cộng- hay hạn chế- nên hai giới là người già và trẻ em coi như bị bỏ rơi. Ở
Mỹ vì chỉ có thể đi lại bằng xe hơi và mục đích của quy hoạch này là tăng tiêu
thụ xăng, món hàng ruột của các tập đoàn tài phiệt. Vì lý do đó mà xe lửa gần
như vắng bóng trên đất Mỹ.
Sự cô đơn và lạc lõng ở Mỹ dễ khiến
những người già bị trầm cảm. Họ cô đơn, sống qua ngày trong những căn nhà đóng
kín. Con cháu đi làm từ sớm, chiều tối mới về, họ nằm nhà xem phim Hàn hay nghe
nhạc, thi thoảng mới có thể tổ chức gặp nhau để tha hồ kể chuyện ngày xưa.
Tiếng Anh
kém, khó hòa nhập.
Đường phố rộng mà những ai không
biết lái xe là xem như bị bỏ tù giữa bốn bức tường, cho đến khi con cháu rảnh
rỗi đưa đón.
Khoảng cách ở Mỹ không tính bằng km
mà bằng đơn vị thời gian. 30 phút. 60
phút. Đó là thời gian đi xe, nếu không bị tắc đường. Khoảng cách rộng, mỗi lần rời khỏi nhà mất rất nhiều thời
gian..
Bạn bè hẹn cà phê mất cả buổi. Những
người già từng nhóm chụm đầu nói chuyện, nhiều nhóm khác nhau. Vắng bóng những
người trẻ. Sinh ra ở đây, họ thực dụng, tính toán, thiếu tình cảm gia đình và
phần lớn không rành tiếng Việt nên ít quan tâm đến cộng đồng của cha mẹ, ông bà
mình.
Khi mới qua, ai cũng cố làm việc để mua nhà
lớn, nhiều phòng. Lớn lên, các con đi làm xa và cha mẹ sống đơn độc trong căn
nhà rộng.Các phòng trống, họ giữ lại nhiều kỷ vật của các con, những bức vẽ
nguệch ngoạc ngày còn bé. Còn khi ba mẹ mất đi, các con thường vất bỏ các đồ
vật vô ích mà ba mẹ đã mua và lưu giữ.
Trên đây chỉ là vài nét chấm phá về
cảm giác ngay khi vừa mới tới Mỹ. Có thể còn thiếu sót hay chủ quan…và tôi muốn
để dành một bài viết khác về giấc mơ Mỹ và về miền đất hứa này.
Ở nhà chị Thi Nga, em gái Nguyên Minh ở Santa Clara
chứng mươi ngày rồi chúng tôi đón xe đò
đi Santa Ana, phía nam
California. Nơi đây có nhiều cuộc găp gỡ
với các văn nghệ sĩ mới quen hay từng quen biết : Du Tử Lê, Trần Văn Nam, anh
chị Dạ Từ, Thu Vân cũng như Đặng Phú Phong, Thành Tôn, Trần Yên Hòa, Nguyễn
Lương Vỵ, Trần văn Sơn, Nguyễn Đình Thuần, Trịnh Cung, Nguyễn Thị Ngọc Lan,
Nguyễn Thị Khánh
Minh, Đặng Kim Côn, Lữ Quỳnh, Tôn Nữ Thu
Dung, Thân Tạ, Hứa Trinh, Hải,Trung HB... tất cả đều vui mừng gặp nhau trên đất
khách.
Thành Tôn, Nguyên Minh, Trần Văn
Sơn, Trần Văn Nam,
Đặng Phú Phong, TVD, Elena, Trần
Yên Hòa
2.Mùa thu ở Virginia.
Từ giã thung
lũng Silicon khô cằn và nắng hạn mấy anh em trong nhóm Quán Văn gồm chủ bút
Nguyên Minh, nhà thơ Đoàn văn Khánh và vợ chồng tôi cũng lên đường bay về miền
Đông nước Mỹ. Những người tuổi “chớm thu” bay về tiểu bang Virginia vào đầu mùa
thu.Những rừng thu lá hãy còn xanh,
Khoảng cách
mênh mông của đất nước rộng lớn này hình như đã bị tình yêu chữ nghĩa làm cho
ngắn lại.
Đích đến ban
đầu là viếng thăm họa sĩ Đinh Cường, nhà
thơ Phạm Cao Hoàng và nhà thơ Nguyễn Minh Nữu.
Phòng
tranh họa sĩ Đinh Cường là một thế giới riêng biệt. Khép lại mọi xáo trộn của
thế giới bên ngoài để sáng tác. Tất nhiên là có rất nhiều tranh.Tạp chí. Văn.
Bách Khoa. Hợp Lưu. Nhiều kỷ vật của bạn bè. TCS. Bùi giáng. Bửu Chỉ. Kiệt
Tấn. Khi đi, chúng tôi mang hơn 60kg
sách qua cho họa sĩ Đinh Cường. Nhìn thấy đống sách, anh vô cùng xúc động.
Trên chuyến bay, phần lớn sách là
các số Quán Văn được bỏ trong 3 vali..xách tay. Ngăn chứa hành lý trên máy bay American Airlines nội địa nhỏ
nên vất vả lắm tôi và Elena mới bỏ 3 chiếc xách vào được. Chỉ có điều là khi
đến sân bay Washington Dulles, không thể nào kéo ra. Thấy tôi loay hoay nên một
anh bạn Mỹ cao lớn đến phụ. Cả hai cũng vật vã lắm mới kéo, lắc rồi lấy được.
Đỡ xuống, năng trịch.Anh bạn Mỹ hỏi các bạn mang gì mà nặng thế? Tôi đáp sách.
Nhìn nét mặt ngẩn ngơ của bạn, Elena nói thêm “Văn hóa nặng lắm bạn ơi!”
Buổi sáng gặp nhau, họa sĩ Đinh
Cường khen chiếc foulard màu vàng cam quấn quanh cổ áo Elena rất phù hợp với
màu tóc. Bất ngờ là ngay tối hôm đó, anh phát họa chân dung Elena rồi copy và
post lên blog Pham Cao Hoàng cùng với một bài thơ mừng gặp lại những người bạn
từ xa đến thăm (*).
Thời gian gần đây, có lẽ do chứng
mất ngủ của tuổi già, khoảng 2, 3 giờ sáng anh thức giấc và ngồi dậy làm
việc.Vẽ. Làm Thơ. Suy Nghĩ. Thương nhớ
bạn bè, kẻ ở xa, người đã mất.
Những bài thơ của anh giống như một
nhật ký, ghi chép những cảm nhận trong ngày. Nó có thể là thơ, hay những câu
văn ngắn, ý tưởng lạ, sâu sắc nên có nhiều người thích.
Khác với những nhà văn, nhà thơ lớn
tuổi khác thường viết về quá khứ, về hoài niệm anh Đinh Cường, có lẽ do ảnh
hưởng thiền môn Phật Giáo, thích nói về hiện tại, sống hết mình với giây phút quan trọng nhất của
đời sống, với một sự nhạy cảm, nhân hậu và một
tâm hồn nghệ sĩ.
Trong một thời gian chỉ mươi ngày nhưng anh
Nguyễn Minh Nữu đã tranh thủ đưa chúng tôi đi thăm rất nhiều nơi: những 7 tiểu
bang ờ miền Đông. Một ngày chủ nhật, vợ chồng Nguyễn Minh Nữu - Kim Mai.. thay
phiên nhau lái xe đưa chúng tôi đi thăm New York. Đi từ sáng sớm đến nửa đêm.
Mệt. Thân tình. Vui. Trên đường đi chúng
tôi có ghé lại New Jersey để thăm nhà văn Trần Hoài Thư và ghé lại bệnh viện
thăm chị Yến, vợ anh, bị bệnh.
Và sự kiện quan trọng nhất trong thời gian này
là buổi gặp mặt thân tình ở phòng tranh họa sĩ nhà văn Trương Vũ. Anh em văn
nghệ từ các tiểu bang xa kéo đến. Phòng tranh rộng như một bảo tàng nghệ thuật.
trên vách rất nhiều tranh, chân dung.. tạo nên một không gian thật ấm áp và
rất…văn nghệ. Chính vì buổi họp mặt đông đủ này nên Quán Văn số 34 mới có chủ
đề bên
dòng Potomac.
Sau lần gặp
đông đảo anh em văn nghệ này nhà thơ Nguyễn Minh Nữu đã ghi lại trong một bài
thơ “Tan mùa Lễ Hội” đầy cảm xúc (**).
…Nhớ hoài buổi
tụ hội lớn nhất ở nhà Trương Vũ
Hôm đó giữa căn phòng lớn là nơi
sáng tác tranh của Trương Vũ
Những tác phẩm hội họa tạo ra cảm
giác được bước vào cái không gian kỳ lạ
cái không gian của sắc màu trang
trọng và rất mực gần gũi thân tình
Đến từ Việt Nam thì có Nguyên Minh,
Đoàn văn Khánh,
Trương văn Dân, Elena Trương và Thân
Trọng Minh
từ Massachusetts có anh chị Trần Doãn Nho
đến từ California có anh chị Lữ Quỳnh
đến từ Maryland có Phùng Nguyễn
ngay tại Virginia thì anh chị Trương
Vũ, Đinh Cường
Đinh từ Bich Thúy, Phạm Cao Hoàng -
Cúc Hoa
Phạm Nhuận, Nguyễn Quang, Nguyễn Thị
Thanh Bình, Bạch Mai
Nguyễn Tường Giang, Nguyễn Đinh
Vinh, vợ chồng Nguyễn Minh Nữu
và cháu Thiên Kim, con gái lớn của
Pham Cao Hoàng một thiên tài về ẩm thực…
Ôi cái tình
văn chương của những người quen hay chưa quen mà mến nhau qua trang viết, đã bỏ
bao thời gian, trải bao dặm đường để đến tìm nhau. Trong xúc cảm đó tôi
nhớ một câu nói của chị Ngô thị Mỹ Lệ,
một độc giả thân thiết phát biểu trong
buổi ra mắt Quán Văn: “Em phải công nhận một điều là mình càng già càng
"nông nỗi".Cứ thấy chỗ nào có mặt các anh chị mình là em thấy chỗ đó
đẹp ghê luôn”. Một câu nói chân tình đến nỗi để lại một dư âm trong lòng những
ai cầm bút. Chị Hạnh vợ anh Đặng Châu Long sau đó còn “phán” thêm một câu, xanh
rờn : “Mấy ông ai chẳng vậy, gặp nhau là như mèo thấy…mỡ”
Mà văn chương và nghệ thuật không phải là lời
THÚ TỘI rằng thế giới này bất toàn, nhỏ bé và cuộc đời này còn thiếu quá nhiều
thứ để tâm hồn có thể bay bổng hay sao?
Được
gặp và quen biết các anh Trương Vũ, Nguyễn
Tường Giang, Nguyễn Đình Vinh.. tôi rất muốn có dịp nói chuyện và học hỏi nhiều
điều từ họ… rất tiếc là
không có nhiều thời gian.
3-Bên dòng Potomac: Sau chuyến đi, chủ bút Nguyên Minh bảo: Quán
Văn số tới (034) mình nên chọn chủ đề bên dòng Potomac. Khi biết chủ đề này,
anh Nguyễn Minh Nữu đã đưa Nguyên Minh
và vợ chồng tôi chạy cả buổi chiều, đến tận thượng nguồn, nơi giáp giới ba tiểu
bang để chụp mấy tấm hình in sách.
Con
sông này dài khoảng 665 km, có khúc tạo thành ranh giới giữa West Virginia,
Maryland và cũng chia Virginia ra khỏi Maryland và Đặc khu Columbia . Các tàu lớn
có thể đi trong sông Potomac đến Washington
D.C. và các địa điểm lịch sử khác nằm hai bên bờ.
Viết
về dòng Potomac, không thể không nhắc đến một nhân vật nổi tiếng thời còn chiến
tranh Việt Nam. Một con
người đáng để lịch sử và chúng ta ghi nhớ...
Anh tên là Norman Morrison, một người đàn ông Mỹ đã tự thiêu
trước Lầu Năm Góc ( Bộ Quốc Phòng Mỹ) để phản đối chiến tranh Việt Nam vào ngày
2-11-1965.
Sự kiện này,
nhân chuyến đi hội thảo về Alan Edgar Poe ở Mỹ (2009) đã được một bạn văn của QV, Ts Hòang Kim Oanh cảm xúc
trong bài thơ (***):
Một người Mỹ đem cái chết bất tử của
mình
Tặng người dân Việt Nam chúng tôi
niềm hy vọng về những ngày thôi tan tác, bom đạn bão bùng
Tặng đồng bào tôi sự sống giữa mịt
mùng cái chết
Chân lý ngập ngụa mùi bùn lợi danh
bất chấp
Trong
chuyến đi này, tôi và Elena có đên thăm bức tượng của mục sư Martin Luther King
Jr. Ông là một nhà đấu tranh công lý chính trị người Mỹ da đen nổi tiếng nhất.
Bài diễn văn của ông “Tôi có một giấc mơ” (I Have a Dream),
tuyên bố sự công bằng không chỉ riêng cho người Mỹ da đen mà cho cả nhân loại.
Ông nhận giải Nobel hòa bình(1964) nhưng sau bị ám sát tại Memphis (1968).
Chỉ xin nhắc lại ở đây vài câu nói nổi tiếng
của ông: “ Tôi đã chọn tình yêu. Hận thù
là một gánh nặng quá lớn.” Hay “ Đừng
quên rằng những gì Hitler đã làm ở Đức Quốc đều hợp pháp.”
Và
“Tự do không bao giờ được ban phát từ những
kẻ cai trị, nó phải được đòi hỏi bởi những người bị cai trị”; “ Sẽ có một ngày nào đó một cá nhân phải đứng
về một phía, không nhất thiết là an toàn, cũng không phải là chính trị, hoặc phổ
biến, mà anh ta phải đứng về phía đó vì lương tâm anh ta cho rằng đó là điều
đúng.”
Sau khi thăm khu tưởng niệm Luther King, chúng tôi cũng
có ghé đến thăm tượng đài cựu chiến binh Việt Nam và nghĩa trang Arlington nổi
tiếng.
Tượng đài
này được khánh thành vào năm 1982 là một bức tường đá cẩm thạch đen cắm sâu vào
lòng đất, tạo thành một chữ V (có lẽ ngụ ý từ chữ Vietnam.Một cánh của chữ V
chỉ về phía tượng đài Washington, cánh kia hướng về tượng đài Lincohn. Tổng
chiều dài bức tường đá này là 76 mét.
Bức
tường này đã trở thành một trong những nơi được thăm viếng nhiều nhất ở thủ đô
Washington, như một minh chứng về nỗi đau và sai lầm của nước Mỹ. Hầu như bất kỳ
lúc nào ta cũng thấy nhiều người đứng cạnh bức tường đá khổng lồ này. Họ trầm
tư nhìn lên bức tường, tìm dòng chữ ghi tên người thân hoặc bạn bè mình đã tử
trận trong cuộc chiến.
Nghĩa trang Arlington
Nghĩa trang
Quốc gia Arlington nằm trên khu đồi có nhiều cây xanh và cỏ bao phủ rất rộng
lớn, nằm gần bờ dòng sông Potomac phân chia Washington và tiểu bang Virginia và
chỉ cách trung tâm thủ đô chừng hơn mười lăm phút xe hơi.
Chúng tôi
tới nghĩa trang vào giữa mùa thu, hầu hết lá trên cành đang khoe sắc, từ màu
vàng đến đỏ, tím. Nhìn quanh đâu cũng thấy bạt ngàn những bia đá cẩm thạch màu
trắng giản dị, cắm thành hàng rất đều trên mặt đất bằng phẳng. Tất cả các ngôi
mộ đều giống nhau về kích thước, kiểu dáng và cách trang trí. Arlington còn là
nơi chôn cất các nhân vật nổi tiếng của nước Mỹ, như các nhà chính trị, các bộ
trưởng, các thành viên tòa án tối cao liên bang, các vận động viên thể thao
xuất sắc và một số minh tinh màn bạc.
Khác với nghĩa
trang Père-Lachaise (Cimetière
du Père-Lachaise) nổi tiếng nhất thế giới và lớn nhất ở của thành phố Paris
có rất nhiều các ngôi mộ quý tộc và danh nhân. Nếu khi sống người ta ăn mặc nhiều
kiểu cọ thì lúc chết cũng có những ngôi mộ không giống nhau. Đủ hình. Đủ kiểu.
Những pho tượng tiếc thương. Cầu nguyện. Người quỳ gối, kẻ ngửa mặt nhìn trời.
Mộ đơn độc. Mộ gia đình. Những nhà nguyện. Pere-Lachaise là một bảo tàng về nghệ
thuật và một trong những địa điểm thu
hút khá nhiều khách du lịch tại Paris. Hằng
năm hàng trăm ngàn lượt người đã đến đây để thăm viếng những ngôi mộ có từ 200
năm qua và mộ các danh nhân.
Arlington
thì cũng nổi tiếng nhưng vì một lý do trái ngược. Ở đây, khi chết mọi người đều
bình đẳng trước Chúa, phương châm đó bắt nguồn từ Kinh Thánh. Nơi đây, mộ của
đại tướng John Pershing lừng danh thời đệ nhất thế chiến hoặc của nguyên soái
George Marshall thời thế chiến lần thứ hai cũng y hệt như mộ của hàng vạn binh
nhất, binh nhì dưới quyền chỉ huy của họ. Vẫn chừng ấy diện tích đất, cùng một
dãy với nhau, và vẫn chiếc bia mộ đá màu trắng giản dị. Khác chăng chỉ dòng chữ
khắc trên bia. Nơi đây yên nghỉ trong danh dự và vinh quang người lính Mỹ và
chỉ một mình Chúa biết là ai.
Kể
lại vài sự kiện nhỏ trong chuyến thăm viếng nhưng trong bài này người viết muốn
tìm hiểu do đâu mà (trước đây) nước Mỹ được xem là thiên đường và hiện nay đó
là một thiên đường có súng và két sắt giữ tiền.
Câu trả lời có thể nằm trong những con người
vĩ đại và lý tưởng lớn giành lấy tự do và dân chủ từ thời lập quốc. Phần lớn đều
có tầm nhìn xa và tấm lòng nhân ái. Chính họ mới là những người đã làm nên một
Nước Mỹ Vĩ đại… …
Sự kiện gần đây nhất là McCain,
phi công ném bom miền Bắc, bị dân Hà nội bắn rớt, ngồi tù hỏa lò 6 năm; 1973
được thả về, phấn đấu trở thành nghị sĩ Mỹ và tranh cử tổng thống với
Obama. Ông là người có tầm nhìn rộng,
biết biến hận thù thành tình bạn, và đã không mệt mỏi giúp hàn gắn mối quan hệ
Việt-Mỹ.
Nhưng hai nhân vật gắn liền với chiến
tranh trong thế kỷ 19 và 20 mới là những con người kiệt xuất.
Thắng
vinh quang mà bại cũng anh hùng
*Từ Vị tướng thắng vinh quang…
Douglas MacArthur là vị tướng tài ba của nước Mỹ vào thời Thế chiến Thứ hai. Nhưng thành
công sáng chói nhất của ông là chỉ trong vài năm mà đã tạo ra nền tảng tự do và
dân chủ cho một nước Nhật bại trận hồi sinh từ những hoang tàn đổ nát. Ngày ông
rời Nhật Bản, hàng trăm ngàn người xếp hàng dài hàng chục cây số để tiễn đưa. Họ
kêu to "Sayonara, Sayonara," hay giơ cao biểu ngữ ghi "Chúng tôi
thương mến và cảm ơn ông."
Sau hai quả bom nguyên tử
thả xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki, Nhật hoàng Hirohito kêu gọi nhân dân Nhật hãy can đảm chấp nhận đầu hàng
vô điều kiện.
Khi
ông đến Tokyo để tiếp quản, bộ tham mưu thúc ông triệu Nhật Hoàng đến tổng hành
dinh để biểu lộ quyền uy nhưng ông bỏ qua những lời đề nghị của họ. "Làm như thế là xúc phạm đến tình cảm của
nhân dân Nhật và biến Nhật Hoàng thành người tuẫn đạo”và ông bình tĩnh và
kiên nhẫn chờ Nhật Hoàng sẽ tự đến gặp mình.
Quả
nhiên chẳng bao lâu Nhật Hoàng yêu cầu cuộc hội kiến. Ông dành cho Nhật hoàng tất
cả những danh dự thích hợp với bậc quân vương và tiếp đón chân tình. Khi ông
châm thuốc lá cho Nhật hoàng, ông nhận thấy hai tay ông này run nên tin rằng Nhật
hoàng sẽ kể ra những lý do để khẩn cầu đừng truy tố ông như một tội phạm chiến
tranh.
Trước
đấy nhiều đồng minh, đặc biệt Nga và Anh, đã đòi đặt tên của Nhật Hoàng đứng đầu
danh sách tội phạm ấy. Thế nhưng MacArthur cực lực chống đối. Khi Washington sắp
nghiêng về quan điểm của người Anh, ông đề nghị là sẽ cần thêm ít nhất một triệu
quân tiếp viện nữa. Lý do: Dân Nhật vẫn còn sùng bái Hoàng Đế của họ. Nếu Nhật
Hoàng bị buộc tội và bị treo cổ như tội phạm chiến tranh, chính quyền quân sự
phải được thiết lập trên toàn cõi Nhật Bản, và chiến tranh du kích chắc chắn lẽ
sẽ bùng phát. Nhờ vậy tên của Nhật
Hoàng bị gạch ra khỏi danh sách tội phạm
chiến tranh.
Nhưng
Nhật hoàng chẳng hề biết gì về tất cả điều này.
Nhưng
những lo nghĩ của ông không có căn cứ. Nhật Hoàng đã không van xin mà còn nói:
"Thưa Tướng Quân MacArthur, là người chịu trách nhiệm duy nhất cho mọi quyết
định chính trị và quân sự và mọi hành động của nhân dân tôi khi tiến hành chiến
tranh, tôi đến đây gặp ông để chịu sự phán xét của các cường quốc mà ông đại diện."
Lòng MacArthur chợt dâng trào cảm xúc phi thường. Sự can đảm gánh vác trách nhiệm
này đồng nghĩa với cái chết, khiến ông xúc động đến tận cõi lòng. Ông biết là
trong khoảnh khắc lịch sử ấy mình đang đối diện với một Đệ Nhất Quân Tử Nhật Bản.
Và
thế là MacArthur nhẹ nhàng nói “Tôi mời Ngài hôm nay đến đây để giúp tôi và
cùng hợp tác với tôi tái kiến thiết lại một nước Nhật đang hoang tàn.”
Cách hành xử này minh chứng rằng
MacArthur, ngoài bộ áo quân nhân, còn là một chính trị gia cực kỳ khôn ngoan và
có tầm nhìn.
Sau đó MacArthur còn nghiêm cấm quân Mỹ không
được phép ăn thực phẩm của Nhật vì dân Nhật đang đói. Ngược lại, chương trình
cứu trợ Nhật với thực phẩm Mỹ đã giúp Nhật tránh được nạn đói mùa đông 1945 vì
đất đai khắp nơi vẫn còn bị tàn phá. Sau 3 năm, tất cả quân Mỹ đều rút về căn
cứ ở Okinawa. Ngoài việc dùng quyền lực Mỹ như một lá chắn bảo vệ nước Nhật
khỏi những đe doạ nguyên tử từ Liên Xô, Trung Quốc và Bắc Hàn, McArthur còn
“lobby” quốc hội Mỹ viện trợ tái thiết Nhật liên tục qua nhiều chương trình
kinh tế và xã hội. Sau 40 năm, nước Nhật phát triển ngoạn mục và vào thập niên
80’ được coi như con rồng Châu Á.
Nước Mỹ rộng mênh mông. Từ thảo nguyên rộng lớn đến
những
vùng sa mạc hoang vu. Có lẽ đó là lý do mà Người Mỹ có tầm nhìn xa, cởi mở và rộng lượng khi họ
thắng trận chăng? Đọc lịch sử Mỹ, chúng ta thấy từ Washington, Lincoln đến
MacArthur, Eisenhower, các lãnh tụ luôn luôn muốn làm “quân tử” và giúp kẻ bại
trận phục hồi. Không hề có chuyện trả thù, nợ máu hoặc bị tru di tam tộc!
Những chính khách Mỹ đã nghĩ nghĩ sâu xa với
tầm nhìn rộng lớn như miền đất sinh ra họ? và Grand Cayon với những
dãy núi đa sắc mầu hùng vĩ đã giúp con người nơi đây có tầm nhìn vượt qua thời
gian và không gian?
*
… Đến vị tướng bại cũng anh hùng
Ở nghĩa trang Arlington, ngay cả mộ của vợ
chồng tổng thống Kennedy cũng thế, có điều chúng được bố trí ở một chỗ riêng,
trên đỉnh đồi, dưới chân Nhà tưởng niệm danh tướng Robert Lee.
Nói đến
tướng Robert Lee không thể không nhắc qua về cuộc nội chiến Nam Bắc, bắt đầu năm
1861. Khi Abraham Lincoln đắc cử tổng
thống và muốn xóa bỏ thể chế nô lệ. Trước ngày ông nhậm chức, bảy
tiểu bang miền Nam, sống về canh nông, phản đối và tuyên bố ly khai chính phủ
liên bang, thành lập chính phủ riêng do Jefferson Davis làm tổng thống. Chính
quyền Abraham Lincoln không công nhận. Khi quân miền Nam tấn công đồn Sumter, nội
chiến Hoa Kỳ bùng nổ và thêm 4 tiểu bang khác gia nhập phe miền Nam.
Cuộc
phân tranh kéo dài 4 năm, tổn thất gần 1 triệu nhân mạng và chấm dứt khi quân
miền Nam đầu hàng năm 1865. Trận chiến lớn nhất xẩy ra ở Gettysburg, sau ba
ngày chiến đấu, quân hai bên đã thiệt mạng lên tới gần 50.000 chiến binh.
Chỉ
huy quân Miền Nam là Tướng Robert Lee ra đầu
hàng tại Richmond, thủ phủ tiểu bang Virginia, và được quân sử Hoa Kỳ ca ngợi như một nhân vật Anh Hùng. Ngày nay,
ở bất cứ thành phố nào của Hoa Kỳ, cũng có ít nhất một con đường chính mang tên
vị tướng này.
Ông
Robert Lee nguyên là tướng lãnh của quân đội liên bang Hoa Kỳ nhưng gốc người
miền Nam. Ông đã từng là chỉ huy trưởng trường West Point. Khi chiến tranh Nam
Bắc xảy ra, Tướng Lee được đề nghị chỉ huy quân miền Bắc nhưng ông xin từ nhiệm
để về đầu quân miền Nam tại Richmond, tiểu bang Virginia. Ông nói là không thể
quay lưng với nơi ông đã sinh ra và trưởng thành.
Trong
chiến tranh, ông lập được nhiều chiến công và là vị tư lệnh sau cùng của miền
Nam nhưng sau khi thủ đô Richmond của miền Nam bị thất thủ, ông đã quyết định đầu
hàng.
Cuộc
chiến tranh tương tàn đẫm máu làm tổn hại hàng triệu sinh linh Hoa Kỳ, tan nát
các đô thị miền Ðông và vùng Virginia. Tất
cả đã thể hiện trong tác phẩm và cuốn phim bất hủ Cuốn Theo Chiều Gió mà phần lớn chúng ta đều đã đọc cũng như
coi nhiều lần suốt thời niên thiếu.
Bài học từ câu chuyện đầu hàng. Chấm dứt chiến tranh.
Câu
chuyện về vị tướng phe bại trận miền Nam Robert Lee được viết ra và hình ảnh của ông lại được chiêm ngưỡng nhiều
hơn cả phe thắng trận.
Khi
thủ đô miền Nam là Richmond thất thủ, kỵ binh của miền Bắc cùng với 3 quân đoàn
bộ binh vây hãm quân miền Nam hết đường tháo lui. Bộ tham mưu của Tướng Lee đề
nghị phân tán để giữ lực lượng đánh du kích, nhưng Tướng Lee quyết định đầu
hàng. Ông viết thư riêng cho Tướng Grant của miền Bắc yêu cầu thu xếp buổi họp
mặt.
Ông
Grant, vị tư lệnh miền Bắc ra lệnh nghiêm cấm các sĩ quan và binh sĩ trực thuộc
không được tỏ ra bất cứ hành động nào vô lễ với ông tướng tư lệnh miền Nam.Trưa
ngày 9 tháng 4-1865, Tướng Lee và một đại tá tùy tùng cưỡi ngựa vượt qua phòng
tuyến đến nơi hẹn. Hình ảnh ghi lại hai người đi qua đoàn quân nhạc của lính miền
Bắc thổi kèn chào đón.
Cả
hai vị tư lệnh đã từng biết nhau trong cuộc chiến tranh với Mễ Tây Cơ.
Theo
quy luật chiến tranh thời đó thì quân miền Nam phải giải giới, tước bỏ khí giới
và quân dụng và được tự do trở về quê cũ. Tướng Lee đồng ý, nhưng đòi hỏi một
điều là cho binh sĩ của ông được giữ lại lừa ngựa, vì lính miền Nam đem ngựa từ
các nông trại của họ đi chiến đấu chứ không phải ngựa của chính phủ cấp như
lính miền Bắc.
Tướng
Grant thỏa hiệp là sẽ không sửa chữa chính thức trên văn bản nhưng thực tế sẽ
cho lệnh để lính miền Nam đem lừa ngựa về nhà.
Sau
này khi viết về văn bản đầu hàng, lịch sử ghi rằng đây là thỏa hiệp của những
người quân tử (The Gentlemen’s Agreement).
Là
bại tướng nhưng trên các bảo tàng viện, đặc biệt ở Appomattox Virginia có tranh
sơn dầu hình Tướng Lee hiên ngang trong bộ quân phục xanh dương, tóc và râu bạc,
thể hiện hình ảnh người Mỹ anh hùng dù thua vẫn không bị khuất phục. Toàn thể nước Mỹ hiểu rằng khi một người Mỹ
bị nhục, thì dù là Mỹ miền Nam hay miền Bắc cũng vẫn là một người Mỹ bị sỉ nhục.
Và tôi cho rằng đây chính là điều đáng yêu nhất của nước Mỹ. Lịch sử không ghi
lại các hình ảnh xấu xa của bất cứ phe nào. Dù trên thực tế dư vị cay đắng giữa
Nam Bắc vẫn còn nhiều.
Dễ
gì mà trút bỏ hận thù ngay sau khi hai bên chết cả gần một triệu người mà một số
lớn đã giết nhau khi giáp mặt bằng gươm dao? Hai phe cùng đốt nhà của nhau và
cùng tàn phá đô thị, nông trại, đôi khi có cả những hành động dã man như hãm hiếp
phụ nữ và tàn sát trẻ em. Cuộc chiến nào mà không có những lần quá khích? Nhưng thời gian rồi cũng xoa mờ những vết
thương đau đớn ấy. Và Bảo tàng viện “Ðầu hàng” và nghĩa trang phe thua trận
Arlington thường dạy chúng ta bài học
làm người văn minh.
Rồi
vết thương nào cũng phải được hàn gắn. Nước Mỹ đã có những bước ngoạn mục đầy
màu sắc văn minh ngay từ khi chiến tranh chấm dứt để chấp nhận và tôn trọng người
bại trận như những anh hùng.
Ngay
sau khi chiến tranh chấm dứt, hoàn toàn không có tù binh, ai về nhà đó, cùng
xây dựng lại quê hương.
Bây giờ hình tượng của
tướng Lee tràn ngập ở miền Nam Virginia. Câu lạc bộ Lee, bảo tàng viện Lee, Lee
High Way, Fort Lee và các đồn trại của quân đội liên bang mang tên vị tướng
thua trận như là một biểu tượng anh hùng. Bởi vì người Mỹ đã
thấm nhuần bài học về người lính dũng cảm cả hai phe trong chiến tranh và người
quân tử của thời hậu chiến.
Khi chúng tôi trao đổi với nhau về
sự kiện lịch sử đáng trân trọng này, anh
Nguyễn Minh Nữu ngậm ngùi ngâm hai câu thơ
trong bài hát về nghĩa trang Arlington của ( Nguyển Đức Quang)
Đã bảo vết thương không nhắc nữa
Mà
sao thấy sẹo cứ bâng khuâng!
Nước mắt tôi và Nguyên Minh ươn ướt. Nhìn
người lại ngẫm đến ta, không những bâng khuâng mà còn xót xa, trăn trở.
Mong lịch sử quay lại
là một điều không tưởng. Nhưng bọn viết lách là những người mơ mộng.
Biết yêu cái đẹp và thích điều thiện.
Tôn trọng tính nhân văn. Đọc lịch sử,
trông người rồi ngẫm nghĩ… cảm xúc trong lòng trào dâng khó tả. Một nỗi nghẹn ngào, cay đắng.
Ôi, hãy khóc lên hỡi quê hương yêu dấu!
4- Những chiếc lá..hốt
hoảng tìm nhau
Khi chúng tôi rời Virginia để về lại
San Jose, miền Tây nắng ấm nên nhiều chiếc lá rụng đã khô. Có những trận gió lốc
làm lá bay lơ lửng trong không khí. Rồi những chiếc lá rơi. Gió thổi xào xạc
bên đường làm tôi chợt nghĩ là chúng đang hốt hoảng chạy đi tìm nhau, cùng trở
về cành, những người con yêu văn chương, nghệ thuật. Để, dù xa quê, mà lòng còn
ấm áp bên nhau.
…chúng ta chỉ còn
nhau thôi
còn nhau trong nghĩa tình yêu chữ này (****)
còn nhau trong nghĩa tình yêu chữ này (****)
đó
là chất liệu gắn kết chúng tôi. Dù ở cách xa nhau nửa vòng trái đất.
Cả
đoàn chúng tôi không thích đời sống buồn buồn ở Mỹ thế nhưng lúc ra sân bay San
Francisco để về lại Sài Gòn mắt người nào cũng ươn ướt. Có lẽ không phải vì rời
xa đất nước này, mà là bạn tình bạn sâu sắc, chia sẻ cảm xúc và tâm hồn.
Thương
lắm những người bạn chưa gặp mà quen, mới quen mà nhớ! Mấy ngày trước, anh Đinh
Cường đã buồn lắm khi nghĩ đến ngày chia tay. Đây là hai câu thơ của anh viết
giữa khuya hôm đó:
…mai kia mốt nọ đi
thôi
bạn về xứ bạn tôi còn bóng tôi… (****)
bạn về xứ bạn tôi còn bóng tôi… (****)
Vâng,
anh Đinh Cường ơi, những kẻ mơ mộng thường rất sợ bơ vơ và lạc lõng giữa cõi đời!
T.V.D
Sài Gòn, 21-11-2015
Nguồn : Tập san vhnt Quán Văn số 34,
bên dòng Potomac,11- 2015
No comments:
Post a Comment