Trương Vũ
Nhà hoang trong ngày thu:
chất liệu hỗn hợp trên ván ép, 24" x 36",
thực hiện năm 2010
Đinh Cường - Trương Vũ tại
Studio Trương Vũ
Virginia, 20.9.2015 (Ảnh PCH)
Lần đầu tiên tôi gặp Đinh Cường là vào một buổi xế trưa đầu
hè 1974. Tôi và Lê Thành Nhơn ra phi trường Nha Trang đón Cường về nhà, chuẩn
bị cho một cuộc triển lãm cá nhân do đại học Duyên Hải tổ chức. Chúng tôi trở
thành bạn thân từ đó. Cùng với Lê Thành Nhơn, Trịnh Công Sơn, Bửu Ý, Huy Tưởng
chúng tôi làm việc chung với nhau ở Duyên Hải trong một số chương trình nhân
văn, chia sẻ những ước mơ đẹp về một tương lai cần có cho những thế hệ tiếp nối
đào tạo từ ngôi trường này. Thời gian sinh hoạt chung với nhau khá ngắn nhưng
đã để lại nhiều kỷ niệm khó quên.
Sau 1975, đại học Duyên Hải không còn nữa. Lê Thành Nhơn đi
tỵ nạn ở Úc, sau đó tôi đi Mỹ. Hơn hai mươi năm sau tôi mới gặp lại Cường, chị
Tuyết Nhung, và các cháu, sang định cư ở Virginia. Tôi có phụ với Phạm Nhuận và
một số bạn khác tổ chức cuộc triển lãm đầu tiên của Cường ở Mỹ. Từ đó, chúng
tôi gặp gỡ nhau khá thường xuyên. Tôi ngờ rằng đời sống ở Mỹ có thể tốt cho các
cháu nhưng không chắc nó hợp với Đinh Cường, vốn sống nặng về nội tâm, quen gần
gũi những bạn bè thân tình từ thuở còn trẻ. Tuy vậy, tôi vẫn thấy được nơi
Cường một thái độ nhẫn nại, thâm trầm trong cố gắng giữ cân bằng giửa đời sống
một con người bằng xương, thịt phải đương đầu với những vấn đề rất thực tế của
xã hội Mỹ với đời sống của một nghệ sĩ có một thế giới rất riêng tư. Một thế
giới của nghệ thuật, của tình bạn, của những nơi chốn luôn gắn liền với cuộc
đời mình, như Huế, như Sài Gòn, như Dran, như Bình Dương,... và của hồi tưởng,
nói chung. Thỉnh thoảng, tôi vẫn cảm nhận được nơi Cường ít nhiều chao đão
trong nỗ lực cân bằng đó.
Đinh Cường là một tài danh lớn của hội họa Việt Nam, và là
một bạn hiền, bạn tốt của hầu hết họa sĩ, văn thi sĩ được biết đến, thuộc nhiều
thế hệ khác nhau. Lớp già, không còn trên trần gian nữa, như Bùi Giáng, Nguyễn
Tuân, Bùi Xuân Phái, Mai Thảo, Võ Phiến,
Võ Đình, Thái Tuấn, Thanh Tâm Tuyền, … Cùng trang lứa, như Trịnh Công Sơn, Bửu
Ý, Bửu Chỉ, Hải Phương, Nguyễn Đức Sơn, Trịnh Cung, Nguyễn Trung, ... Lớp trẻ
hơn, như Trần Vũ, Nguyễn Thị Thanh Bình, Hoàng Ngọc Tuấn, Phạm Cao Hoàng,
Nguyễn Trọng Khôi, Trần Hoài Thư, Nguyễn Ý Thuần,... Không giống như nhiều văn
nghệ sĩ nổi tiếng, Đinh Cường rất trân trọng công trình của người khác, một
cách đặc biệt. Hầu như tất cả được Cường vẽ chân dung hay phác họa chân dung,
hay làm thơ đề tặng, không phải chỉ một lần, mà có người, rất nhiều lần. Có lẽ
Đinh Cường là người họa sĩ nổi tiếng duy nhất của Việt Nam đã viết sách, rất
công bình, với nhận định sâu sắc và từ tốn, về những họa sĩ thuộc lớp đàn anh
đã có công lớn cho hội họa Việt Nam,
bằng tác phẩm của họ hay bằng công trình đào tạo tài năng cho các thế hệ
sau.
Có một điều tôi muốn thổ lộ ở đây, vì, có thể, nó cũng giống
với tâm trạng nhiều bạn bè khác hay của nhiều người xem tranh, đọc thơ Đinh
Cường. Dù luôn luôn là bạn tốt, trong suốt một thời gian khá dài, tôi với Cường
sống trong hai thế giới khác nhau, phần trùng hợp không lớn. Thế giới của tôi
khá bình dị, gần với thực tế, không có những lực đè nén để buộc tôi phải chìm
đắm vào những lớp sâu của tâm hồn. Tôi thích thơ của Đinh Cường, tôi ngưỡng mộ
tranh của Đinh Cường. Tôi cảm được có một giá trị cao nơi tác phẩm của bạn tôi.
Bố cục, màu sắc, hình họa, và tính trừu tượng rất đặc thù. Tôi cũng cảm được
rằng ở đây dường như có một chút phối hợp hài hòa giửa Modighiani với Picasso,
và trên hết là của chính tài năng và tâm hồn của Đinh Cường, rất riêng. Tuy
nhiên, dù ngưỡng mộ, tôi vẫn cảm thấy một chút xa cách. Chẳng hạn, tôi biết
được, thấy được những thiếu nữ trong tranh Đinh Cường đẹp, rất đẹp, nhưng tôi không
thấy gần với họ, không có cảm giác mình đụng được những con người như thế. Cho
đến khi, tôi bắt đầu vẽ, bắt đầu xa rời dần cái thực tại bình thường của đời
sống hằng ngày để đi vào cái thực tại của nội tâm. Lúc đó, những thiếu nữ của
Đinh Cường cũng bắt đầu rời khỏi những con đường nhỏ của cố đô Huế năm xưa, hay
rời khỏi những nấm mồ hoang sau nhà Bồ Tùng Linh, để đi vào thế giới riêng của
tôi, như những con người rất thật. Cả cái nhà thờ con gà ở Đà Lạt, những phố
xá, núi đồi trong mù sương ở Dran, hay anh da đen thổi kèn đồng ở Mỹ, v.v., đều
như thế. Tất cả khiến cho cái thế giới nội tâm của tôi nhộn nhịp lên, làm cho
đời sống giàu hơn.
Người vẽ tranh, người làm thơ Đinh Cường chắc chắn có được
một niềm hạnh phúc lớn khi bằng nổi đam mê, tài năng, trí thông minh, và sức
làm việc kiên trì để tạo nên những tác phẩm để đời, ưng ý. Niềm hạnh phúc đó
không mấy ai khác có được. Tuy nhiên, khi tập tểnh bước vào cái thế giới của
nghệ thuật, tôi cũng bắt đầu hiểu ra rằng mọi thứ không hẵn đơn giản như thế.
Không hẵn chỉ có cái hạnh phúc đó. Nó còn có đau đớn, dằn vặt. Nó phải như thế
nào để có chuyện Van Gogh tự cắt lỗ tai ông. Đam mê càng lớn, ước vọng càng
cao, càng dễ thấy cái giới hạn của sức lực mình. Ráng tạo một tác phẩm như ý
rất thường khi không khác như lao đầu vào một cuộc chiến của nội tâm. Dù xung
quanh có bao người thân yêu, có bao bạn bè tốt, cuối cùng cũng chi có một mình
mình thôi phải đương đầu với nó. Nỗi cô đơn rất khó tả.
Thường tình là như vậy, huống chi, khi biết mình mắc thêm
một chứng bệnh trầm kha. Lúc đầu, bạn tôi vẫn giữ nguyên cái an nhiên, tự tại
thường tình, và tin tưởng nhiều vào khả năng của y học. Vẫn vẽ nhiều, vẫn viết
nhiều, vẫn gặp gỡ bạn bè thường xuyên, như không có gì xảy ra. Chấp nhận những
đau đớn của chemo như điều không thể tránh.
Cho đến khi, cơ thể yếu hẵn dần. Lúc đó, theo dõi những bài thơ trên
blog Phạm Cao Hoàng, những bài thơ được viết ra như viết nhật ký, tôi có cảm
tưởng nửa khuya nào bạn tôi cũng thức dậy. Ngó qua khung cửa sổ, nhìn bóng đêm,
nhìn vầng trăng. Rồi, nhìn lên kệ sách. Rồi đi tìm những cuốn sách, những bài
thơ của bạn bè. Rồi viết cho người này, người nọ, cho những người còn sống, cho
những người đã chết. Thi thoảng còn từ ký ức phác họa vài chân dung của bạn bè.
Tôi cảm phục sức làm việc phi thường, ý chi cống hiến thanh thoát, nhưng đồng
thời, tôi cũng cảm nhận được nổi cô đơn cùng cực của bạn. Nói như Đinh Trường
Chinh, "cô đơn đi vào bóng tối".
Chỉ trong ba năm sau cùng, Đinh Cường đã đăng 875 bài thơ
cùng với một số lượng tranh tương tự, theo ghi nhận trên blog của Phạm Cao
Hoàng. Chúng ta không cần phải trở về
thi ca đời Sơ Đường, đọc Lý Thương Ẩn để cảm thán với câu "xuân tàm đáo tữ
ti phương tận" mà Nguyễn Du dịch là "con tầm đến thác vẫn còn vương
tơ". Chỉ cần đọc hết một phần những bài thơ đó, xem hết một phần những bức
tranh đó, cũng đủ kinh hoàng với sức nhả tơ của một con tầm như chúng ta biết.
Họa sĩ Đinh Cường đã cống hiến cho hội họa Việt Nam một tài
sản lớn. Nhà thơ Đinh Cường đã làm thơ rât nhiều, như một cách thể hiện cái vi
tế và phong phú của đời sống, rất đặc thù, Tôi nhớ, có một câu nói ở dâu đó,
"nhân tài như lá mùa thu".
Một chiếc lá mùa thu rất đẹp vừa rơi xuống!
Trương
Vũ
Maryland,
ngày 12 tháng 1 năm 2016
No comments:
Post a Comment