Hans Christian Andersen
trong thế giới cổ tích
Hans
Christian Andersen là nhà văn viết truyện Cô Bé Bán Diêm và những truyện cổ
tích nổi tiếng. Ông mang thân hình hơi thô nhưng tâm hồn
đầy chất thơ và thiện hảo. Qua ngòi bút của Konstantin Paustovsky ta sẽ gặp
Andersen trên một chuyến xe ngựa đi trong đêm. Một mối tình thật đẹp cũng đã nảy
nở trong ánh sáng ban mai đang lên trong khu vườn.
NXT
Tôi
muốn viết hẳn một chương riêng về sức mạnh của trí tưởng tượng và ảnh hưởng của
nó tới đời sống của chúng ta. Nhưng sau khi suy nghĩ, tôi đã viết thay vào đó một
truyện ngắn về nhà thơ Anđecxen. Tôi nghĩ rằng truyện ngắn này có thể thay thế
chương sách định viết và làm cho ta hình dung trí tưởng tượng còn rõ hơn là những
câu chuyện chung chung về đề tài này.
Trong
cái khách sạn bẩn thỉu và cũ kỹ ở thành Vơnidơ không bói đâu ra mực, mà ở đây
có mực để làm gì cơ chứ? Để viết phiếu thanh toán quá giá cho khách trọ chăng? Thật
ra, khi Anđecxen mới đến khách sạn thì trong cái bình mực bằng thiếc vẫn còn một
ít. Chàng dùng mực ấy viết một câu chuyện cổ tích. Nhưng câu chuyện mỗi lúc một
nhợt nhạt trông thấy bởi Anđecxen đã mấy lần pha thêm nước lã vào mực. Thế là
chàng không viết hết được câu chuyện – cái đoạn kết vui vẻ của nó còn nằm lại ở
đáy lọ.
Anđecxen
tủm tỉm cười và quyết định sẽ đặt tên cho câu chuyện cổ tích sau là “Câu chuyện
còn nằm dưới đáy bình mực cạn”.
Chàng
yêu mến Vơnidơ và đặt tên cho nó là “Bông sen tàn”.
Mây
mùa thu thấp lè tè cuồn cuộn trên mặt biển. Nước hôi hám vỗ óc ách trên dòng
kênh. Gió lạnh thổi trên các ngã ba, ngã tư đường phố. Nhưng khi mặt trời ló ra
thì màu đá hồng nổi lên từ dưới đám rêu xanh và ngoài cửa sổ, cả thành phố hiện
ra như một bức tranh của Kanalettô, nhà danh họa già người Vơnidơ.
Quả
vậy, Vơnidơ tuy hơi buồn nhưng thật là đẹp. Song, đã đến lúc phải xa nó để đi tới
những thành phố khác.
Vì
thế mà Anđecxen đã chẳng luyến tiếc bao nhiêu khi bảo gã bồi phòng đi mua vé
cho chuyến xe đêm sang Vêrôn.
Gã
bồi phòng thật xứng với cái khách sạn - anh ta lười biếng, lúc nào cũng ngà ngà
say, hay ăn cắp vặt nhưng có bộ mặt hồn nhiên cởi mở. Gã chưa hề dọn phòng cho
Anđecxen lần nào, đến nỗi có việc quét cái sàn đá thôi gã cũng chẳng làm. Từ những
màn cửa bằng nhung đỏ mối bay ra trông giống những đàn ong vàng óng. Muốn rửa mặt
phải dùng cái chậu sứ rạn có hình những cô gái đang tắm. Cây đèn dầu đã gãy.
Thay vào đó người ta đặt trên bàn một chân nến nặng nề bằng bạc trên còn một mẩu
nến mỡ lợn cháy dở. Có lẽ từ thời Tiziano người ta chưa hề lau rửa cho nó. Từ tầng
một, nơi có quán rượu rẻ tiền, xông lên mùi thịt cừu rán và mùi tỏi. Những người
đàn bà trẻ bận áo lót nhưng xơ xác buộc lỏng lẻo bằng những dải băng đứt, suốt ngày
cười oang oang và gây lộn với nhau. Đôi khi họ đánh nhau, giằng kéo, túm lấy
tóc nhau. Những lúc ấy nếu Anđecxen đi qua đám đánh nhau thì chàng dừng lại và
thán phục nhìn những mái tóc rối tung, những bộ mặt đỏ gay vì tức giận và những
cặp mắt long lên khao khát trả thù. Nhưng đáng yêu hơn cả tất nhiên vẫn là những
giọt nước mắt tức giận trào ra và chảy trên gò má như những hạt kim cương.
Khi
thấy chàng, họ dịu đi, ngượng ngùng trước cái ông khách gầy còm và lịch sự có
cái mũi thanh tú. Họ tưởng chàng là một nhà ảo thuật vãng lai, mặc dầu họ vẫn
kính nể gọi chàng là “xinho thi sĩ”5. Theo hiểu biết của họ, chàng là một nhà
thơ kỳ dị, thiếu nhiệt huyết. Chàng không hát theo dây đàn lục huyền những khúc
thuyền ca làm tan nát lòng người và không mê hết người đàn bà này đến người đàn
bà khác. Chỉ có một lần chàng rút ở khuyết áo ra một bông hồng đỏ thắm rồi tặng
cho cô bé rửa bát xấu xí nhất bọn. Hơn nữa cô ta lại thọt, đi lắc lư như vịt.
Khi gã bồi phòng đi rồi, Anđecxen chạy lại gần
cửa sổ, hé mở tấm màn nặng nền và trông thấy gã vừa đi vừa huýt sáo dọc bờ
kênh. Gã đứng lại hồi lâu trên chiếc cầu cong và chăm chú nhổ vào cái vỏ trứng
rỗng trôi lềnh bềnh dưới chân cầu. Cuối cùng gã nhổ trúng vào chiếc vỏ trứng
chìm nghỉm. Đoạn gã lại gần chú bé đội chiếc mũ dạ rách. Chú bé đang câu cá. Gã
bồi ngồi xuống một bên, ngây dại nhìn chằm chằm vào chiếc phao và chờ xem có
con cá lang thang nào cắn không.
-
Trời! - Anđecxen tuyệt vọng kêu lên - Chả lẽ hôm nay mình không đi được vì cái
thằng đần độn này ư?
Anđecxen
mở toang cửa sổ ra. Tiếng kính cửa rung mạnh đến nỗi gã bồi phòng nghe thấy và
ngẩng đầu lên. Anđecxen giơ hai tay lên trời phẫn nộ lắc lắc hai quả đấm. Gã bồi
phòng giật chiếc mũ của thằng bé, hoan hỉ giơ chiếc mũ vẫy Anđecxen rồi chụp
lên đầu thằng bé và nhảy lên, biến mất vào một góc phố nhỏ. Anđecxen phá lên cười.
Chàng không tức giận chút nào. Thậm chí những chuyện ngộ nghĩnh vặt vãnh như thế
càng làm cho thú say mê du lịch trong người chàng mỗi ngày một mạnh thêm. Du lịch
bao giờ cũng hứa hẹn những điều bất ngờ. Ai mà biết trước được lúc nào sẽ có
cái nhìn hóm hỉnh của người đàn bà ánh lên trong khóe mắt, lúc nào những ngọn
tháp của một thành phố không quen biết sẽ hiện ra ở đằng xa, và cột buồm của những
con tàu lớn sẽ nghiêng ngả ở chân trời, những vần thơ nào sẽ đến với ta trước cảnh
cơn giông gầm thét trên dãy núi Anpơ, và giọng ai sẽ hát cho ta nghe, như tiếng
nhạc ngựa đường xa, bài hát về một cuộc tình duyên dang dở.
Gã
bồi phòng mang tấm vé xe về nhưng không trả lại tiền thừa, Anđecxen túm lấy cổ
gã và lịch sự tống ra ngoài hành lang. Ở đó chàng bông đùa đập nhẹ lên gáy gã một
cái và gã bồi phòng liền phóng thẳng xuống cái cầu thang ọp ẹp, nhảy cách bậc
và hát ầm ĩ.
* * *
Xe
vừa đi khỏi Vơnidơ thì trời bắt đầu mưa lâm thâm. Đêm tối hạ xuống đầm lầy. Người
đánh xe nói rằng chính quỷ vương đã bày ra chuyện bắt xe từ Vơnidơ đến Vêrôn phải
đi đêm hôm thế này.
Hành khách không trả lời. Người đánh xe im lặng
rồi giận dữ nhổ nước bọt và báo trước để hành khách biết rằng ngoài mẩu nến tàn
trong cái đèn bằng sắt tây không còn một cây nến nào hết. Không ai chú ý đến
chuyện đó. Người đánh xe bèn tỏ vẻ hoài nghi về đầu óc minh mẫn của khách trên
xe và nói thêm rằng Vêrôn là một chốn hang cùng, người đứng đắn không ai đến đó
làm gì. Hành khách biết gã nói bậy nhưng chẳng ai buồn phản đối.
Trên
xe cả thảy có ba người: Anđecxen, một linh mục đã có tuổi, vẻ mặt cau có, và một
thiếu phụ mặc áo choàng màu sẫm. Anđecxen có cảm giác như thiếu phụ lúc thì trẻ,
lúc thì già, lúc đẹp, lúc xấu. Tất cả cái đó là do ánh lửa lập lòe của ngọn nến
tạo nên.
-
Hay là ta tắt nó đi? - Anđecxen hỏi. - Giờ cũng chẳng cần đến nó. Rồi đến lúc lại
chẳng có gì mà thắp.
-
Đây là một ý nghĩ không bao giờ có thể có trong đầu một người Ý! - linh mục kêu
lên.
- Tại
sao vậy?
-
Người Ý không biết phòng trước cái gì hết! Họ sực nhớ ra và kêu la ầm ĩ khi đã
chẳng còn cách nào cứu vãn.
- Thưa cha, - Anđecxen hỏi, - vậy thì chắc cha
không phải là người của dân tộc nhẹ dạ ấy?
- Tôi
là người Áo! - linh mục trả lời giận dữ.
Câu
chuyện ngừng bặt, Anđecxen thổi tắt ngọn nến. Một lát sau thiếu phụ lên tiếng:
- Ở cái vùng này của nước Ý, đi đêm không
đèn lại hay cơ đấy.
-
Dù thế nào thì tiếng bánh xe cũng làm chúng ta bị lộ - linh mục phản đối và nói
thêm. - Đàn bà đi đường xa lẽ ra phải có người nhà đi hộ tống.
-
Người hộ tống của tôi - thiếu phụ trẻ trả lời và cười hóm hỉnh - ngồi bên tôi
đó.
Thiếu
phụ muốn nói Anđecxen. Chàng liền ngả mũ cảm ơn người bạn đồng hành. Ngọn nến vừa
tắt thì tiếng động và mùi vị xông lên càng mạnh, như thể chúng mừng rỡ vì đối
thủ của mình đã biến mất. Tiếng vó ngựa,
tiếng bánh xe lạo xạo lăn trên sỏi, tiếng nhịp xe cọt kẹt và tiếng mưa vỗ lộp bộp
vào mui xe nghe càng to. Mùi cỏ ẩm ướt và mùi bãi lầy lọt vào cửa xe cũng đậm
thêm.
-
Lạ thật! - Anđecxen nói - Ở Ý, tôi đinh ninh sẽ được thấy mùi rừng cam chanh,
hóa ra lại gặp cái khí trời đầy nước phương bắc của tôi.
- Sắp
khác rồi, ông ạ, - thiếu phụ nói. - Xe đang lên đồi. Trên kia khí trời ấm hơn.
Ngựa
đi bước một. Quả thực xe đang lên một quả đồi thoai thoải. Nhưng đêm không vì
thế mà sáng hơn. Trái lại, hai bên đường kéo dài những hang du cổ thụ, dưới
cành lá lòa xòa bóng tối càng dày đặc hơn và âm thầm hơn, thoáng nghe thấy tiếng
mưa rì rào trên lá.
Anđecxen
hạ cửa xuống. Một cành du thò vào xe. Anđecxen bứt vài chiếc lá làm kỷ niệm.
Giống
như nhiều người giàu trí tưởng tượng, chàng say mê thu lượm đủ mọi thứ lặt vặt
trong những chuyến đi. Nhưng những cái lặt vặt ấy có một đặc tính: chúng làm sống
lại dĩ vãng, tái tạo cái trạng thái mà Anđecxen đã trải qua đúng lúc chàng nhặt
một mảnh vỡ của bức khảm, một chiếc lá du hay
móng sắt nhỏ của một con lừa nào đó.
-
Đêm rồi! - Anđecxen tự nhủ.
Lúc
này chàng thích màn đêm hơn là ánh sáng mặt trời. Bóng tối cho phép ta yên tĩnh
suy nghĩ về mọi thứ trên đời. Và khi chàng nghĩ chán rồi thì nó giúp chàng tưởng
tượng ra mọi thứ chuyện trong đó nhân vật chính là bản thân chàng. Trong những
câu chuyện đó Anđecxen bao giờ cũng hình dung là mình đẹp trai, trẻ trung, hoạt
bát. Chàng hào hiệp tung ra quanh mình những lời nói làm say sưa lòng người, những
lời mà các nhà phê bình đa cảm gọi là “hoa thơ”.
Thực
ra chàng rất xấu trai và hiểu rõ điều đó. Chàng cao ngổng và nhút nhát. Tay
chân chàng lòng thòng như tay chân con rối treo trên sợi dây. Những con rối mà ở
tổ quốc chàng trẻ con gọi là “hampenman”.
Với
những đặc tính như thế chẳng có hy vọng gì được phụ nữ chú ý. Nhưng mỗi lần những
thiếu phụ đi qua mặt chàng như qua cái cột đèn thì lòng chàng lại nhói lên vì hờn
tủi.
Anđecxen
thiu thiu ngủ.
Khi
tỉnh lại thì trước tiên chàng nhìn thấy một ngôi sao lớn màu lá mạ. Nó sáng rực
ngay sát mặt đất. Đêm chừng đã khuya.
Xe
đã dừng lại. Ở bên ngoài có tiếng nói lao xao. Anđecxen lắng tai nghe. Người
đánh xe đang mặc cả với mấy cô gái vừa gọi xe đỗ lại giữa đường. Những giọng
nói của các cô gái cứ ngọt lịm và giòn vang đến nỗi cái cuộc mặc cả du dương ấy
giống như khúc ngâm của một vở ca kịch cổ.
Người
đánh xe không bằng lòng chở họ tới một thị trấn chắc là rất nhỏ bé nào đó với
giá tiền họ trả. Các cô gái nhao nhao nói rằng ba người đã góp cả lại và họ
không còn tiền nữa.
-
Thôi được! Ađecxen bảo người đánh xe – Tôi sẽ trả nốt số tiền thiếu mà anh đã
càn rỡ đòi họ. Tôi sẽ thêm nữa nếu như anh thôi không ăn nói thô lỗ với khách
và tán dóc.
-
Thôi được, mời các quý nương lên, - người đánh xe nói với các cô gái.
–
Hãy cảm ơn Đức mẹ đã dun dủi cho các cô gặp cái ông hoàng ngoại quốc coi tiền
như rác này. Ông ấy chẳng qua không muốn xe phải đậu lại vì các cô, thế thôi.
Chứ ông ấy báu các cô lắm đấy!
-
Giê su, lạy chúa tôi! – Nhà tu hành rên rỉ.
- Các cô lại đây ngồi gần tôi cho ấm, -
thiếu phụ nói.
Mấy
cô gái chuyền cho nhau đồ đạc, rì rầm bàn tán và lên xe, chào mọi người, bẽn lẽn
cám ơn Anđecxen rồi ngồi xuống và im lặng.
Họ
mang theo lên xe mùi pho mát sữa cừu và mùi bạc hà. Anđecxen lờ mờ trông thấy
các hạt thủy tinh lấp lánh trong những đôi hoa tai rẻ tiền của các cô gái. Xe
đi, sỏi lạo xạo dưới bánh. Các cô gái bắt đầu thì thầm nói chuyện.
-
Họ muốn biết ông là ai, - thiếu phụ lên tiếng và Anđecxen đoán rằng nàng đang
cười diễu trong bóng tối. – Có thật là một ông hoàng ngoại quốc không? Hay chỉ
là một du khách kiểm lâm bình thường?
-
Tôi là nhà tiên tri, - không đắn đo, Anđecxen đáp. – Tôi biết tiên đoán tương
lai và nhìn rõ trong bóng tối. Nhưng tôi không phải là một tên bịp bợm. Và, có
lẽ tôi là một thứ ông hoàng nghèo ở cái xứ sở của Hamlet đã sống ngày xưa.
-
Thế cái gì ông có thể nhìn thấy trong đêm tối thế này? - một cô gái ngạc nhiên
hỏi.
-
Như cô chẳng hạn, - Anđecxen trả lời. – Tôi thấy cô rõ đến nỗi lòng tôi đã mê
say trước vẻ kiều diễm của cô.
Chàng
nói điều đó và cảm thấy mặt mình lạnh toát. Cái trạng thái mà chàng thường trải
qua mỗi lần sáng tác thơ hoặc truyện cổ tích đã đến gần.
Trong
trạng thái ấy hòa hợp lại nỗi ưu tư nhẹ nhàng, những suối từ không hiểu từ đâu
đến và cảm giác bất ngờ về sức mạnh của của thơ ca, về quyền lực của mình đối với
trái tim người đời.
Giống
như trong một câu chuyện chàng viết, nắp chiếc rương thần cũ kỹ bỗng bật mở ầm
một cái. Trong chiếc rương đó giấu kín những ý nghĩ chưa thốt thành lời, những
tình cảm còn ngủ yên và tất cả sự mê hoặc của trái đất - mọi màu sắc và âm
thanh, những làn gió ngát hương và biển cả bao la, tiếng ồn ào của rừng, những
dằn vặt của tình yêu và tiếng líu lo của con trẻ.
Anđecxen
không biết gọi trạng thái ấy là gì. Một số gọi đó là cảm hứng, số khác gọi là sự
phấn chấn, số khác nữa gọi là tài ứng tác.
-
Tôi tỉnh giấc và nghe thấy giọng các cô nói trong đêm, - im lặng một lát, chàng
điềm đạm nói. – Các cô gái xinh đẹp ơi, như thế cũng đủ để cho tôi quen biết
các cô và còn hơn thế nữa, để yêu các cô như những cô em gái thỉnh thoảng mới gặp
mặt. Tôi nhìn thấy các cô rõ lắm. Chẳng hạn như cô, cô
con gái có mái tóc vàng nhẹ bổng. Cô là cô
gái hay cười khanh khách và cô yêu hết thảy mọi vật đến nỗi những con sâu trong
rừng cũng sà xuống đậu trên vai cô khi cô vun xới trong vườn.
-
Ôi, Nicôlina, ông ấy nói đằng ấy đấy! - Một cô gái lớn tiếng thì thào.
-
Cô có một trái tim sôi nổi, cô Nicôlina ạ, - Anđecxen vẫn điềm đạm nói tiếp. -
Nếu như chẳng may có chuyện không lành xảy ra với người yêu của cô, cô sẽ chẳng
đắn đo suy nghĩ vượt qua ngàn dặm núi tuyết và sa mạc để gặp mặt và cứu chàng.
Tôi nói đúng không nào?
-
Vâng, em sẽ đi thật… - Nicôlina bối rối, ấp úng. - Nếu ông đã nghĩ như thế.
-
Các cô tên là gì? – Anđecxen hỏi.
- Chúng em là Nicôlina, Maria và Anna, - một
cô trong bọn sốt sắng trả lời thay các bạn.
-
Cô Maria ạ, đáng ra tôi không muốn nói về sắc đẹp của cô. Tôi nói tiếng Ý không
thạo. Nhưng từ lúc thiếu thời tôi đã nguyện với Nàng Thơ sẽ ca tụng sắc đẹp ở bất
cứ nơi nào tôi được gặp.
-
Lạy Chúa tôi! - vị linh mục nói khẽ. – Ông ta bị nhện độc cắn rồi. Ông ta đã
hóa rồ.
-
Có những người đàn bà quả là đẹp mê hồn. Phần nhiều họ là những người bản tính
kín đáo. Họ sống với niềm đam mê cháy bỏng trong lòng, không thổ lộ với ai. Niềm
mê say đó dường như từ bên trong tỏa ra làm cho mặt họ nóng bừng. Cô như thế đấy,
cô Maria ạ! Số mệnh của những người đàn bà như thế thường là kỳ lạ. Hoặc là rất
buồn thảm, hoặc là rất hạnh phúc.
-
Ông đã gặp những người đàn bà như thế bao giờ chưa? - thiếu phụ hỏi.
-
Vừa gặp đây thôi, - Anđecxen trả lời. – Tôi không phải chỉ nói về cô Maria mà cả
về bà nữa, thưa bà.
-
Tôi mong rằng ông nói thế cốt không phải cho đêm dài chóng qua, -người đàn bà
nói, giọng run run. - Điều ông vừa nói thật là tàn ác đối với cô gái kiều diễm
này. Và cả tôi nữa, - nàng nhẹ nhàng nói tiếp.
-
Thưa bà, chưa lúc nào tôi lại nghiêm chỉnh như lúc này.
-
Vậy thì sao? - Maria hỏi. - Liệu em có hạnh phúc hay không?
-
Cô muốn hưởng nhiều ở đời, mặc dầu cô chỉ là một cô gái nông thôn bình dị. Vì
thế cô không dễ dàng được hạnh phúc. Nhưng trong đời mình cô sẽ gặp một người xứng
đáng với trái tim hay hờn dỗi của cô. Người cô chọn tất nhiên là một người xuất
sắc. Có thể đó là nhà hội họa, là nhà thơ, là chiến sĩ đấu tranh cho tự do của
nước Ý… Mà cũng có thể đó chỉ là một chàng mục đồng hay một thủy thủ, nhưng là
người có một tâm hồn lớn. Nói cho cùng, thì cũng thế cả thôi.
-
Thưa ông, em không nhìn thấy ông, vì thế em cứ hỏi mà chẳng thẹn thùng, - Maria
rụt rè nói. – Nên làm gì đây, nếu người ấy đã làm chủ trái tim em rồi? Em mới gặp
chàng có vài bận, thậm chí cũng chẳng biết chàng bây giờ ở đâu.
-
Cứ tìm chàng đi! – Anđecxen thốt lên. – Hãy tìm bằng được, và chàng sẽ yêu cô.
-
Maria! – Anna vui vẻ nói. – Thì ra đó là cái anh chàng họa sĩ ở Vêrôn đấy chứ
ai…
-
Im đi! – Maria mắng át.
-
Vêrôn chẳng phải là một thành phố to lớn gì để đến nỗi không tìm nổi một người,
- thiếu phụ nói. – Cô nhớ lấy tên tôi. Tôi là Elêna Guytsiôli. Tôi hiện ở
Vêrôn. Người Vêrôn nào cũng biết nhà tôi. Cô Maria này, cô đến Vêrôn đi. Và sẽ ở
cùng tôi đến tận cái ngày hạnh phúc mà ông bạn đường thân mến của chúng ta đã
tiên đoán cho cô.
Trong
bóng tối, Maria tìm bàn tay Elêna và áp vào bên má nóng hổi của mình.
Mọi
người im lặng. Anđecxen nhận thấy một ngôi sao xanh đã tắt. Nó đã lặn dưới chân
trời. Nghĩa là đã quá nửa đêm.
-
Kìa, sao ông không đoán gì cho em? Anna, cô gái nhanh mồm nhanh miệng nhất bọn
hỏi.
-
Cô sẽ có nhiều con, - Anđecxen nói một cách quả quyết. – Chúng nó sẽ xếp thành
hàng, nối đuôi nhau nhận phần sữa. Cô sẽ mất nhiều thì giờ để tắm rửa và chải đầu
cho cả lũ. Nhưng chồng sắp cưới sẽ giúp cô một tay.
-
Có phải là Pêtơrô không? – Anna hỏi. – Em cần cái anh chàng béo ục ịch ấy lắm đấy!
-
Rồi cô còn mất nhiều thì giờ nữa để hôn vài lần trong một ngày những con mắt
long lanh hiếu kỳ của hết thảy những thằng cu, con bé của cô.
-
Trong lãnh địa của giáo hoàng mà nói những lời lẽ điên rồ ấy thì thật là quá quẩn!
- vị linh mục bực bội nói, nhưng không ai chú ý đến lời nói của ông ta.
Mấy
cô gái lại thì thầm chuyện gì với nhau. Tiếng cười luôn luôn cắt đứt tiếng xì
xào. Cuối cùng Maria nói:
-
Thưa ông, bây giờ chúng em muốn biết ông là người thế nào. Chúng em thì lại
không nhìn được trong bóng tối.
-
Tôi là nhà thơ phiêu lãng, - Anđecxen trả lời. – Tôi còn trẻ. Tóc tôi rậm, uốn
sóng và mặt tôi rám nắng. Đôi mắt xanh của tôi hầu như lúc nào cũng cười, bởi
tôi vô tư và chưa yêu ai. Công việc duy nhất của tôi là đem những món quà nhỏ tặng
người khác và làm những việc lăng nhăng cốt sao cho người thân được vui lòng.
-
Thí dụ những việc gì thưa ông? – Elêna hỏi.
-
Biết kể gì cho bà nghe đây? Mùa hè năm ngoái tôi ở nhà một người quen làm nghề
kiểm lâm ở xứ Giuytlan. Một hôm tôi dạo chơi trong rừng và tới một quãng rừng
thưa, nơi có rất nhiều nấm. Ngay ngày hôm đó tôi trở lại cánh rừng ấy và giấu
dưới mỗi cây nấm hoặc một cái kẹo bọc giấy bạc, một quả chà là, một bó hoa tí
xíu bằng sáp, hoặc một cái đê khâu và một mẩu băng lụa. Sáng hôm sau tôi đi
cùng với cháu gái con ông kiểm lâm vào cánh rừng đó. Cháu bé lên bảy. Thế là dưới
mỗi gốc nấm cháu tìm thấy những vật nhỏ bé kỳ lạ kia. Chỉ thiếu có quả chà là.
Hẳn là một chú quạ nào đã tha đi mất. Ồ, nếu bà được trông thấy đôi mắt em bé
sáng rực lên vì sung sướng!
Tôi
quả quyết với cháu rằng những vật đó là của những chú quỷ lùn đã giấu ở đấy.
-
Ông đã đánh lừa một đứa bé ngây thơ! - Vị linh mục phẫn nộ nói. – Đó là một tội
lớn.
-
Không, đó chẳng phải là chuyện đánh lừa. Em bé sẽ nhớ chuyện ấy suốt đời. Và
tôi xin quả quyết với cha rằng trái tim cháu sẽ không dễ dàng cằn cỗi như ở những
người không được biết chuyện cổ tích ấy. Hơn nữa, thưa cha, tôi cũng muốn nói để
cha biết rằng tôi vốn không ưa những lời răn ép buộc.
Xe
dừng lại. Các cô gái ngồi yên không nhúc nhích như bị bỏ bùa. Elêna cúi đầu im
lặng.
- Này, các mỹ nương! - Người đánh xe kêu lên.
- Tỉnh dậy thôi! Đến nơi rồi.
Các cô gái lại thì thào chuyện gì và đứng dậy.
Trong bóng tối Anđecxen bỗng thấy hai cánh
tay khỏe mạnh ôm lấy cổ chàng và một đôi môi nóng hổi áp vào môi chàng.
- Cảm ơn ông! – đôi môi nóng hổi ấy thì thầm,
và Anđecxen nhận ra giọng nói của Maria.
Nicôlina
cảm ơn chàng và hôn chàng thận trọng và âu yếm, tóc cô mơn man trên mặt chàng.
Cái hôn của Anna thì kêu và khỏe. Các cô nhảy xuống đất. Xe lại chuyển bánh
trên con đường lát đá. Anđecxen nhìn ra ngoài cửa sổ. Chẳng thấy gì ngoài những
ngọn cây đen thẫm trên nền trời hơi ngả màu xanh lục. Bình minh hửng sáng.
Thành Vêrôn làm chàng ngạc nhiên vì những tòa nhà tráng lệ. Những mặt tiền
trang nghiêm đua tài khoe sắc với nhau. Nền kiến trúc hài hòa lẽ ra phải làm
cho tâm hồn thanh thản. Nhưng lòng Anđecxen lại xáo động.
Tối
hôm đó Anđecxen đến giật chuông căn nhà cổ kính của Elêna trong một phố hẹp dẫn
lên pháo đài.
Chính Elêna ra mở cửa cho chàng. Cái áo nhung
xanh bó sát lấy thân nàng. Ánh nhung hắt lên mắt nàng làm cho đôi mắt ngả màu
xanh nước biển đẹp vô ngần. Nàng giơ cả hai tay đón chàng, những ngón tay lạnh
nắm chặt lấy bàn tay to lớn của chàng, rồi nàng lùi lại dẫn chàng vào một phòng
nhỏ.
-
Tôi nhớ quá chừng! – nàng nói một cách bình dị và mỉm cười như có lỗi. – Tôi đã
cảm thấy thiếu anh rồi.
Anđecxen
tái mặt. Suốt ngày chàng chỉ nghĩ đến Elêna, lòng xáo động âm thầm. Chàng biết
rằng mình có thể yêu đến chết mệt mỗi lời nói của người đàn bà ấy, từng chiếc
lông mi rơi của nàng, từng hạt bụi vướng trên tà áo nàng. Chàng hiểu điều đó.
Chàng nghĩ rằng một mối tình như thế nếu cứ để cho nó bùng lên thì trái tim
chàng sẽ không chứa nổi. Nó sẽ mang lại biết bao dằn vặt và niềm vui, nước mắt
và tiếng cười khiến chàng không đủ sức chịu đựng tất cả những đổi thay và bất
ngờ của tình yêu đó.
Và biết đâu, chỉ vì mối tình kia mà những
chuyện cổ tích của chàng như một đàn ong sặc sỡ, sẽ chẳng nhạt phai, sẽ chẳng bỏ
chàng bay đi để không bao giờ trở lại. Lúc đó chàng sẽ còn giá trị gì?
Dù sao thì rồi tình yêu của chàng cuối cùng
cũng chẳng được đáp lại. Biết bao lần đã xảy ra như thế. Những người đàn bà như
Elêna thường hay đồng bóng. Một ngày đáng buồn kia nàng sẽ nhận thấy chàng xấu
xí. Chính chàng cũng gớm ghét bản thân mình. Luôn luôn chàng cảm thấy những cái
nhìn chế giễu sau lưng mình. Những lúc ấy
dáng đi của chàng trở nên cứng quèo, chàng vấp lên vấp xuống và chỉ muốn độn thổ.
Chàng
tự nhủ: “Chỉ trong trí tưởng tượng mới có thể vĩnh cửu, có thể vĩnh viễn là thơ
là mộng. Hình như ta có thể tưởng tượng ra tình yêu giỏi hơn là được hưởng tình
yêu trong thực tại”.
Vì
thế chàng đã đến nhà Elêna với ý định dứt khoát là gặp nàng xong rồi đi ngay để
không bao giờ gặp lại. Chàng không dám nói thẳng điều đó ra với nàng. Giữa hai
người đã có gì đâu. Họ mới gặp nhau hôm qua trên một chuyến xe và chưa hề nói với
nhau điều gì.
Anđecxen
dừng lại trước cửa phòng và đưa mắt nhìn quanh. Trong một góc, bức tượng đầu nữ
thần Đian* bằng đá trắng toát dưới ánh sáng của những cây đèn, hình như tái nhợt
đi vì xúc động trước sắc đẹp của chính mình.
-
Ai đã làm cho gương mặt bà trở thành bất tử trong pho tượng Đian kia vậy? –
Anđecxen hỏi.
-
Cavôna đấy, - Elêna trả lời và cúi mặt xuống. Hình như nàng đoán biết tất cả những
gì đang xốn xang trong lòng chàng.
-
Tôi đến đây để từ biệt bà, - Anđecxen lẩm bẩm bằng một giọng trầm ngâm, - Tôi
chạy khỏi Vêrôn đây.
-
Tôi biết anh là ai rồi, - nhìn thẳng vào mặt chàng, Elêna nói, - Anh là Krixtian
Anđécxen, nhà thơ và người viết truyện cổ tích nổi tiếng. Nhưng hóa ra trong cuộc
đời anh lại sợ chuyện cổ tích đến nỗi anh cũng chẳng có đủ nghị lực và can đảm
cho một cuộc tình ngắn ngủi.
Anđecxen
thú nhận:
-
Đó là cây thập tự quá sức của tôi.
- Vậy thì nhà thơ phiêu lãng thân yêu của em,
- Elêna chua chát nói và đặt tay lên vai Anđecxen, - Anh hãy chạy đi! Chạy cho
thoát! Cầu cho đôi mắt anh mãi mãi tươi cười. Đừng nghĩ đến em. Nhưng nếu một
ngày kia, tuổi già, nghèo nàn và bệnh tật có làm anh đau khổ thì anh chỉ cần nhắn
cho em một lời, em sẽ đi bộ như cô Nicôlina nọ, vượt qua ngàn dặm, qua bao núi tuyết
và sa mạc khô cằn để tới an ủi anh.
Nàng
gieo mình xuống chiếc ghế bành và lấy tay che kín mặt. Những ngọn nến trên giá
nổ lách tách.
Anđecxen nhìn thấy một giọt nước mắt long
lanh rỉ qua những ngón tay nhỏ nhắn của Elêna rơi xuống vạt áo nhung và lăn đi.
Chàng xô tới, quỳ xuống trước mặt nàng, áp mặt vào đôi bàn chân ấm áp, rắn rỏi
và dịu dàng của nàng. Elêna vẫn nhắm mắt, đưa tay ra ôm lấy đầu chàng, nàng cúi
xuống và hôn vào môi chàng.
Giọt
nước mắt nóng hổi thứ hai rơi xuống mặt chàng. Chàng cảm thấy vị mặn của nó.
-
Anh đi đi! – Nàng nói khẽ. - Cầu cho Nàng Thơ tha thứ mọi điều cho anh.
Chàng
đứng dậy, cầm lấy mũ và bước vội ra ngoài.
Chuông
chầu đổ hồi trên toàn thành Vêrôn. Hai người không bao giờ gặp nhau nữa, nhưng
luôn luôn nghĩ đến nhau.
Có
lẽ vì thế ít lâu trước khi nhắm mắt Anđecxen đã nói với một nhà văn trẻ:
-
Tôi đã trả bằng một giá đắt, có thể nói vô cùng đắt cho những chuyện cổ tích của
tôi. Vì chúng, tôi đã từ bỏ hạnh phúc của mình và bỏ qua thời gian khi mà trí
tưởng tượng, dù cho có mạnh và hào nhoáng đến mấy, cũng phải nhường chỗ cho thực
tế.
Bạn
hỡi, hãy biết vận dụng trí tưởng tượng không phải để gây ra đau buồn, mà để
mang lại hạnh phúc cho mọi người và cho bản thân mình.
KIM ÂN dịch.
*Nữ thần
săn bắn Diana và 2 con chó săn