Thời mới lớn, hạnh phước lớn của chúng tôi là mỗi chiều tối
được cùng mấy người bạn văn nghệ kéo nhau ra bãi biển nằm nói chuyện trên trời
dưới đất. Có khi cùng những ngọn gió nam non ngủ thiếp luôn dưới trăng sao.
Đó
cũng là cách chúng tôi khoản đãi những anh em sáng tác ở xa về (đa phần thuộc
diện trốn quân dịch hoặc đào ngũ). Ở bờ biển không phải sợ bị xét giấy, và
chúng tôi đều chưa có ai làm ra tiền để có thể vào quán xá!
Thời
điểm này, cả tôi cũng như Lê Phiên Vươn (Lê Xuân Tiến) và Hồ Ngạc Ngữ, khi gửi
bài đăng báo đã không còn ghi sau bút danh dòng ngoặc đơn “Thi văn đoàn Hồn Quê
- Quy Nhơn” như trước nữa. Các tạp chí mới ra đời lúc này đều dành nhiều “đất”
cho văn nghệ. Người sáng tác tìm cách thể hiện theo nhiều khuynh hướng. Và lứa
chúng tôi đã bắt đầu làm thơ tình, có nhiều cảm xúc xã hội, hoặc nhiều chất suy
tư. Lên trung học đệ nhị cấp, những bạn nhiều tuổi, nếu muốn, đã có thể ứng tuyển
vào các khóa đào tạo cấp tốc để ra làm giáo viên tiểu học tại các trường mới mở
dành cho người “tản cư” về ven đô thị. Chiến tranh ác liệt ngày một lan rộng,
nên cách làm này giúp cho người có sức học yếu sớm có được tiền lương, lại khỏi
lo mai kia: “rớt tú tài anh đi trung sĩ!”.
Người bạn mới
Một
buổi sập tối mùa thu năm 1966, Hồ Ngạc Ngữ ra bãi biển một bạn mới là Nguyễn
Lương Vỵ. Anh này nhỏ con, mới từ Đà Nẵng vào nhập học cùng lớp với Ngữ tại trường
Trung học Kỹ thuật. Ở hệ trường này, học sinh ngoài ưu tiên học bổng, còn được
tăng tuổi năm học. Nếu lỡ không được lên lớp, thì được “học đúp” lại chứ không
phải đi quân dịch ngay như các trường phổ thông. Do vậy nên dù là trường kỹ thuật,
vẫn có nhiều học trò mê sáng tác văn chương!
Nguyễn
Lương Vỵ cùng năm sinh với tôi và Tiến, nên không thuộc dạng bị sức ép về tuổi
tác. Nhưng anh vào Quy Nhơn một mình, việc ăn ở phải nương nhờ một gia đình bà
con. Ai nhìn kỹ, có thể nhận ra nét mặt anh như đang giấu niềm u uẩn. Trong đời
riêng, chàng trai này chắc có nỗi niềm chi đó. Nhưng chúng tôi không quan tâm lắm
đến đời tư, bởi Hồ Ngạc Ngữ khi giới thiệu đã nói: "Tay này làm thơ dữ
(nhiều) lắm; dù không hay đăng báo nhiều như tụi mình, nhưng thơ khá vững, lại
sành sỏi về niêm luật!"
Những
năm tháng này, nhiều thanh niên chịu ảnh hưởng của trào lưu “hiện sinh”. Một số
người do chưa hiểu sâu ý nghĩa mấy chữ “duy
ngã độc tôn” của nhà Phật, nên dù mới làm được dăm ba bài thơ, đã tự vỗ ngực
xưng là “thiên tài”. Họ phát ngôn khinh bỉ mọi giá trị tinh thần trên thế gian.
Là những ngòi bút từng được “mài giũa” qua các “bút đoàn” tự lập (riêng tôi, Tiến
và Ngữ từ năm 1965 đã có bài được tuyển chọn vào sách tuyển tập sáng tác tuổi học
đường in ở Sài Gòn), thì được thêm một người bạn thơ mới như Vỵ, là đáng mừng
xiết bao.
Chúng
tôi thường trao đổi văn thơ qua lại trong nhiều đêm ở bờ biển. Nhưng suốt hai
năm trời, Nguyễn Lương Vỵ vẫn không gửi bài vào Sài Gòn để được đăng ồ ạt như
chúng tôi. Mãi đến năm 1969, khi sắp lấy bằng tú tài, anh ta mới “xuất chiêu”.
Và ngay lần gửi đầu tiên, bài thơ tứ tuyệt “Nửa
Đêm Thức Dậy Nhìn Mây Trắng” của Vỵ đã được Bán nguyệt san Văn đăng rất
trang trọng. Lớp cầm bút ở Quy Nhơn đều khá trầm trồ. Chơi thân cùng chúng tôi,
nên Vỵ cũng không ưa các màn thời thượng, như tham dự các màn trình diễn để tự
“lăng-xê” mình qua các buổi đọc thơ ở quảng trường, quán xá… Khi vào Sài Gòn học
đại học, tôi với Lê Xuân Tiến và Nguyễn Lương Vỵ cùng thuê chung một gác trọ.
Thân nhau cật ruột đến vậy, nhưng riêng về đường sáng tác, thì mỗi người lại tự
đi theo hướng mình chọn. Không ai thèm chen vào để tâng bốc hay dè bỉu bản thảo
của bạn mình, trước khi nó được đưa ra công chúng (đăng báo)!
Như khoảng trời riêng
Thoắt
đó mà đã hơn 50 năm kể từ đêm chúng tôi quen và kết bạn với nhau. Đầu tháng 12.2016,
nhận được tập thơ thứ 11 của Nguyễn Lương Vỵ mang tựa đề T(i)ếu Ngạo Giang Hồ. Sách mới vừa in xong bên Mỹ, được người quen
cầm về. Tôi vui lắm, dù trước đó đã được đọc bản thảo qua đường truyền để viết
đôi lời cảm nhận in trên sách. Vui, vì dù biết sách xuất bản ngày nay tại hải
ngoại chỉ in ra với số lượng qua đặt hàng với nhà phát hành toàn cầu (như với
Công ty bán hàng trực tuyến Amazon), nhưng giấy mực vẫn có mùi hương quyến rủ
riêng, nhất là khi biết nó mang những bài thơ hay. Những gì tinh túy nhất tôi
đã viết trong lời cảm nhận rất cô đọng in trong sách (cùng một số bằng hữu quý
thơ Vỵ). Có phải do vậy mà ở bài đọc sách này, tôi lại cố tình nói lan man?
Xin
thưa, không hẳn vậy đâu! Là người hoàn toàn không theo lập luận “một với một là
hai” -nhưng dù chỉ nói trời trăng mây nước đi nữa, thì trong thơ ca vẫn thấp
thoáng bối cảnh hiện tiền mà người viết đã và đang sống, phải gánh chịu hoặc được
thụ hưởng. Về năm tháng, chúng tôi đều đang ở ngay khúc giữa của điểm nhấn “60
năm cuộc đời” và cột mốc tuổi “xưa nay hiếm”! Ngay ở bài Lời Thưa mở đầu tập, tác giả cũng đã nói như vậy:
quá sáu mươi lăm gần
bảy chục
cổ lai hy lục đục xếp
hàng
kẻ trước người sau
lau nếp gấp
thời gian chớp tắt đủ
dư vang
Những
người có tin ở vòng xoay tương tác “Thiên-Địa-Nhân” cũng cho rằng khi đã vào tuổi
60, thì số mệnh ít còn ảnh hưởng tới nhân thân nữa. Nhà thơ cũng không nằm
ngoài sự chi phối đó. Tôi nghĩ rằng đó là một nhận định xác đáng. Vị thầy được
nhiều người phương đông tôn là “Vạn thế sư biểu” cũng đã khuyên rằng: “Lục thập nhi nhĩ thuận” - Tuổi 60 thì
nên nghe những lời đáng lọt vào tai!
“Nghe”
thì như vậy, nhưng còn lời mà ta nói (hoặc viết) phải làm sao cho người khác lọt
vào tai?
Các
tiến bộ khoa học kỹ thuật, loại thịnh hành và đang phổ biến nhất thời đại là
công nghệ thông tin, đã làm thay đổi nhiều mặt sinh hoạt và có khi làm biến đổi
cả trí tuệ của con người. Cái thế giới ảo có khi lại là sự đánh lừa. Nhưng hiểm
họa nhất lại là sự lẫn lộn giữa cái thực và cái ảo. Sự “lẫn lộn” ấy ngày xưa có
khi tạo nên bản sắc mỗi người làm thơ, nhưng hiện tại có khi nó được sử dụng
cho cái ác, như nhằm vinh danh cho cõi “đại đồng”! Tuồng ảo hóa đã bày ra đấy! Từ Facebook, nhiều người có thể mỗi
ngày công bố ra khoảng 4-5 bài thơ. Thơ đã thành một dạng thông tin. Người Việt
lại đang có xu hướng đối đáp hay vịnh sự vật bằng những câu vần vè và cho đó là
thơ. Người ta bình nhiên lấy ca dao tục ngữ và những câu thơ nổi tiếng đưa vào
phát ngôn hoặc sáng tác của mình. Nên thơ chẳng còn là cái đáng trân trọng. Thế
giới “đại đồng” mà, không cần phân biệt ai là “tác giả”, là nhà sáng tạo nghệ
thuật gì nữa hết?!
Khi
đã vào tuổi 60, đáng mừng là Nguyễn Lương Vỵ đã chọn được cách thể hiện để người
đọc thấy thơ mình “nhĩ thuận”. Tuổi sắp vào đời, đêm ở bãi biển Quy Nhơn anh “nhớ trăng khô hết máu”. Màu ánh trăng
dâng lên thành “Huyết Âm”(tên một tập
thơ Vỵ in cách nay khoảng 15 năm khi
mới qua Mỹ sống) ám ảnh anh suốt từ thời ấy. Trải qua nhiều khổ lụy và cô đơn
(nhà thơ nào chẳng cô đơn!), hình như từ mốc 60 tuổi trở đi, anh đã tìm ra và hạnh
phúc lớn, với “Khoảng Trời Riêng” của
mình: lâu lâu hội ngộ với 2 cô con gái đã lớn của mình. Anh đã nói với con về
thơ trong 2 khổ 7 và 8 của bài thơ mang tựa đề trên:
7.
con hỏi cha làm thơ
nhiều không?
thiệt tình hồn vía
mãi ruỗi rong
thơ bám trong xương
trong máu gọi
khỏe thì ngồi gõ phím
thong dong
8.
con hỏi cha nhưng cha
chẳng hiểu
thơ ghiền cha hay cha
ghiền thơ
hiểu chết liền niêm
hoa vi tiếu
cha lắc đầu rồi cười
vu vơ
Cái
bàn phím mà anh “gõ thong dong”, trong
thực tế là những “phím đen”, lắm khi
nó được tác giả gõ khá âm thầm, để biến cái ảo thành cái thật!
Từ
cái mốc 60 tuổi, khi ở nước ngoài cũng như trong nước, nhiều người làm thơ Việt
vẫn chao đảo đi tìm “cái mới” cho thơ. Bằng cách lẫn lộn âm điệu, chữ nghĩa; hoặc
phỉ báng thế giới cảm xúc, cho rằng thơ phải đưa lên sự kiện tựa những bản tin.
Thì Nguyễn Lương Vỵ lại trở mình
chuyên tâm vào tìm lại nét đẹp của ngôn ngữ Việt. Anh có sự gần gũi với cái đẹp
của thơ thời thơ Chữ Nôm sơ khai, với Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiêm…Cổ điển và hiện đại hòa tan nhau trong một âm điệu rất…tan. Như trong
khúc thứ 3 của bài thơ “Tan Sương Đầu Ngõ”:
Tan tan tan là tan
tan tan
Còn chút hơi vẫn réo
hồn đàn
Ấm lạnh đời hư thương
cốt nhục
Độc cô đất khách lụy
trần gian
Thế thái hãi hùng
khôn xiết kể
Nhân tình kinh khiếp
chẳng nên bàn
Thèm mộng về thăm năm
tháng cũ
Tan tan tan là tan
tan tan...
Gọi
là khúc, đoạn hay tách ra thành một bài riêng cũng được. Có thể nói đây là một
tuyệt tác trong dòng thơ hôm nay.
Vài ghi nhận
Như
tựa đề phụ của thi tập (Bảy Chữ Ngàn Câu),
Ở tập thơ thứ 11 này, Nguyễn Lương Vỵ dùng thể thơ cổ điển cách tân. Nhiều bài
riêng lẻ theo bố cục nghiêm chỉnh của thể thơ 7 chữ 8 câu như thơ Đường. Các cặp
“thực” và “luận” có câu chữ đối nhau nghiêm chỉnh. Ở chương “Cổ Điển Và Hiện Đại”, tác giả lại dùng
thể thất ngôn cổ phong, có lúc giống như những lời tự vịnh, có khi lại là một
bài hành. Các nhà thơ trong giai đoạn 1965-1975 ở Miền Nam trước
đây vẫn thường dùng cách thể hiện đó.
Phần
cuối tập là chương “Niệm Khúc Nắng Không
Màu”, gồm những bài liên khúc sáu-tám, cứ một bài 8 câu, hoặc có khi chỉ 6
câu. Thơ lục bát của Nguyễn Lương Vỵ trong tập như một biến thể của thơ bảy chữ.
Bài “Cuối Tuyết” mở bài bằng câu “dẫn”,
được ghi chú của Bùi Giáng, như
nguồn cảm hứng: “Ngờ đâu cuối tuyết còn
xa vô cùng”. Ba khổ trong bài thơ có
hai câu đầu là điệp khúc: Tuyết còn xa
tuyết còn xa… Bài thơ cho thấy Nguyễn Lương Vỵ đã cố tránh, và tránh được,
kiểu lục bát “tự nhiên nhi nhiên” của Bùi Giáng. Bài thơ “Cuối Tuyết” khá hay, lại dễ nhớ. Nhưng một số bài lục bát khác được
cố tình lẫn vào lối “hành” của thơ bảy chữ, nên tác giả chưa tạo được dấu ấn lục
bát riêng, như đã làm được với thể 7 chữ trong tập này.
Nhắc
đến Bùi Trung niên Thi sĩ, nhân tiện, tôi muốn đưa ra nhận xét riêng của mình về
cái “rốt ráo” của nhà thi sĩ này: Bùi Giáng đã xem cuộc đời, và cả việc làm
thơ, như là một sự “giỡn chơi”. Vì mọi thứ trên đời dưới mắt nhà thi sĩ, phải
chăng đều phù phiếm và hư ảo. Nhưng ở đó, cái đẹp vẫn là ước mơ rốt ráo đến cuối đời, như nghiệp chướng
số mệnh của người thi sĩ! Qua Bảy Chữ
Ngàn Câu, Nguyễn Lương Vỵ cũng đang có những hạnh phúc viên mãn với cuộc
chơi - T(i)ếu Ngạo Giang Hồ. Chữ T(i)ếu ở đây có dấu ngoặc đơn ( ) hai
bên chữ i, hay không có cũng được, bởi
cái lẽ vô thường của cuộc đời.
Như
thế, thì những người yêu thơ như chúng ta, hôm nay đọc được tập thơ “Bảy Chữ Ngàn Câu” này, thấy thật vui
sao.
Sài Gòn, 08.12.2016
Võ Chân Cửu
No comments:
Post a Comment