Tham
luận của Ý Nhi
tại
Hội Thảo Thơ tháng 11. 2016 ở Tokyo
Nhà thơ Ý Nhi ở Tokyo
Ý Nhi tại cuộc Hội Thảo
Thưa tiến sĩ Noriko
Mizuta, Giám đốc Trung tâm thơ đương đại thuộc tập đoàn Đại học Jo Sai, Nhật
Bản
Thưa ngài Lars Vargo,
Chủ tịch giải thưởng Cikada
Thưa quý vị,
Chúng ta đang đứng trước một đề tài lớn
và hấp dẫn. Tôi nghĩ, TS Noriko Mizuta và ngài Lars Vargo còn phải tổ chức thêm
rất nhiều cuộc gặp gỡ khác về chủ đề này.
Tôi đã cho mình một lối đi cụ thể, đơn giản.
Đó là một vài câu hỏi và một vài câu trả lời, một vài trích dẫn và một vài lời giải
thích. Chúng như những đoạn nhỏ, ráp lại thành một con đường (cũng nhỏ).Có thể,
con đường này không đi thẳng vào trung tâm của cuộc thảo luận, nhưng đây là phương
cách khả dĩ mà tôi có thể làm để tiếp cận với một đề tài rộng lớn và dường như
đậm màu lý thuyết: The Dignity of Life.
Điều tôi muốn được nói ngay, đó là,
theo tôi, người ta có thể và cần thiết học rất nhiều thứ, trong đó có cả kỹ
thuật viết kịch, viết tiểu thuyết, viết truyện ngắn nhưng hình như người ta
không thể học cách làm thơ. Ở Việt Nam, có hai từ phân biệt rất rõ điều này, đó
là nghề và nghiệp. (nghiệp gần như
liên quan đến kiếp,theo đạo Phật- một
thứ duyên nợ). Thơ là nghiệp. Có hàng trăm, hàng nghìn thứ nghề nhưng không có nghề làm thơ. Thơ nằm
chính trong tâm hồn của nhà thơ. Thiếu hạt mầm Thơ, dù được tưới tắm bao nhiêu
tri thức, bao nhiêu kinh nghiệm người ta cũng sẽ không thể làm nên Thơ.
Chính vì mang chứa cái hạt mầm ấy, trong
con mắt người đời, nhà thơ có chút gì như kỳ dị, khác thường. Cách nào đó, có
thể coi như đó là một căn bệnh mà Heinrich Heine từng nhắc đến: “Liệu thi ca có phải là một căn bệnh của nhân loại như viên ngọc thực ra chỉ là tác
nhân khiến loài trai khốn khổ.”
Marcel Reich- Ranicki – nhà phê bình lớn của nền văn chương Đức đã có lời bình
tuyệt vời cho nhận xét của H. Heine: “Nếu
Heine có lý thì thơ ca hẳn là căn bệnh lạ lùng và có thể nói là căn bệnh đẹp nhất của nhân loại”.
Một căn bệnh như thế, chắc chắn các
nhà khoa học, các bác sĩ danh tiếng, tự cổ chí kim đành phải bó tay. Đó là nghiệp, là định mệnh của thi sĩ. Nhà thơ
cổ điển Nguyễn Du (của chúng tôi) từng viết: “Đã mang lấy nghiệp vào thân/ Cũng đừng nên trách trời gần trời xa”. Nhà thơ hiện đại Wislawa Szymborska
thì cho rằng, làm nhà thơ “có nghĩa là
chịu án khổ sai”. Anh phải nuôi lấy viên ngọc trong tâm hồn mình bằng tất
cả tình yêu cuộc sống mà anh có thể có được. Nói cách khác, trách nhiệm của thi
ca, phẩm hạnh của thi ca, chính là lời khẳng định giá trị lớn lao của cuộc
sống.
Đỗ Phủ, Lý Bạch, Nguyễn Du, Hồ
Xuân Hương, Issa, Basho, Octavio Paz, Pablo Neruda, Boris Pasternak, Saint John
Perse, Wislawa Szymborska, Joseph Brosky…mỗi người là một thế giới, mỗi người
là sự hiển thị không thể chối cãi về vẻ đẹp vĩnh hằng của cuộc sống, của con
người.
Qua suốt lịch sử thi ca nhân loại,
họ chứng minh cho nhận định sâu sắc này: “Khi
thẩm mỹ đạt đến mức cao, nó sẽ tạo ra
những giá trị đạo đức làm tăng lên gấp nhiều lần sức mạnh của con người và ham muốn đấu tranh cho một
thế giới tốt đẹp hơn” (Yannis Ritsos/ Hy Lạp).
Thưa quý vị,
Theo tôi biết, giải thưởng Cikada, được thành lập để tưởng nhớ nhà
thơ Thụy Điển Harry Martinson. Tinh thần của giải thưởng chính là tinh thần của
những vần thơ, những áng văn xuôi, những trường ca thấm đẫm tình yêu thiên
nhiên, niềm yêu thương dành cho những người lao động hồn hậu và nỗi lo âu cho
tương lai nhân loại của ông.
Hẳn những nhà sáng lập giải thưởng hy vọng rằng, văn học nói chung, thơ ca
nói riêng, bằng chính sáng tạo của mình, có thể góp phần bảo vệ phẩm giá của
cuộc sống, theo những gì Harry Martinson đã làm trong suốt cuộc đời ông.
Cách đặt vấn đề như vậy không những có ý nghĩa về phương diện lý luận mà
còn có giá trl thực tiễn sâu sắc. Không phải vô cớ mà một nhà nghiên cứu văn
chương danh tiếng đã khẳng định:‘‘Rõ ràng
là câu trả lời của văn chương mà chúng ta đang trông đợi giữa đe dọa và hiểm
nguy dường như chỉ có thể đến từ thể
loại triệt để nhất của nó-Thơ ca”. ( Marcel Reich-Ranicki)
Thơ ca, qua suốt lịch sử nhân loại “đã
liên tục là một sự phi chính thống,
bướng bỉnh, bất trị. Một sự nổi dậy ngoắt nghéo không ngừng chống lại những chủ thuyết và những giáo
hội” (Octavio Paz/ Mexico ). Và: “Con
người không có tương lai nào khác ngoài tương lai do nghệ thuật phác thảo ra” ( Joseph Brodsky/ nhà thơ Mỹ gốc
Nga).
Dù vậy, như mọi người đều biết, sự
can thiệp của thơ ca vào đời sống không
phải và không bao giờ là một sự can thiệp trực tiếp. Sẽ là ảo tưởng khi nghĩ
rằng thơ ca có thể có những tác động cụ thể vào tiến trình lịch sử. Dù sống
trong thời đại nào, dù sống bất cứ nơi đâu, dù theo bất cứ trường phái nào,
trào lưu nào, các nhà thơ, bằng cách riêng của mình, đã chỉ có thể làm một việc
duy nhất, đó là hiển thị thế giới này và
sáng tạo một thế giới khác- một thế giới đẹp hơn, yên bình hơn, hạnh phúc
hơn- một thế giới nơi quyền sống của con người là bất khả xâm phạm, nơi The Dignity of Life được tôn trọng, gìn
giữ, đề cao. Công việc của nhà thơ là
một hành động kép, diễn ra hầu như cùng một lúc, mở ra cánh cửa để soi nhìn đời
sống hiện tại, đồng thời mở ra cánh cửa khác cho mọi người nhìn thấy thế giới
do mình phác thảo ra.
Cách đây 70 năm, với trường ca Aniara, Harry Martinson đã báo trước cho
nhân loại về những thảm họa trên trái đất do sự tàn phá môi trường sống, do
những vũ khí tàn ác của chính con người gây nên. Lời cảnh báo còn nguyên giá
trị hiện thực, ngay khi chúng ta ngồi cùng nhau hôm nay. Giữa nỗi lo âu, tuyệt
vọng của 8.000 con người đang tìm cách vượt thoát khỏi tai ương, H. Martinson đã dựng nên hình ảnh cứu rỗi – hình ảnh người
ca sĩ mù:
Trong thế giới này
xuất hiện một nữ thi nhân
Với những bài ca nâng
chúng tôi hướng thượng
Vượt bản thân lên cõi
tinh thần
Đem lửa thiếp vàng
vách nhà tù tăm tối
Và đem trời cao vào
tận buồng tim
Lời tro nguội bỗng
biến thành lửa cháy…
Cũng như vậy, vào năm 1968, nhà
thơ Tô Thùy Yên của Việt Nam, đã có một tiên cảm kinh hoàng về những tai ương,
tang tóc mà nhân loại hôm nay đang hứng chịu:
Một
ngày, ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới
Ngoài biển khơi, trên lục địa
Sò hến, côn trùng cũng chẳng yên thân
Ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới
Quật ngã những bức
tượng, xô sập những đền đài
Tiếng hú chạy dài suốt lịch sử
Ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới
Xé rách một kỷ nguyên, phân tán các
dân tộc
Để mọi người câm lặng ăn năn…*
Trong khổ thơ cuối cùng, ông cất lời kêu
gọi các nhà thơ: Hãy thốt lên giùm chúng ta lời nói cuối.
Lời nói cuối dành cho thi sĩ, cái
gánh nặng mà thi sĩ phải gánh chịu, chính là lời cảnh tỉnh nhân loại trước cái
ác, trước tai họa, trước sự tàn phá, là lời tụng ca vẻ đẹp của con người, của
tự nhiên, để hướng tới hạnh phúc, bằng an.
Các nhà thơ cổ điển, các nhà thơ
lãng mạn, các nhà thơ hiện thực, các nhà thơ tượng trưng, các nhà thơ siêu
thực, các nhà thơ vị lai, các nhà thơ hiện đại, các nhà thơ tân hình thức, các
nhà thơ hậu hiện đại…Tất cả đều hướng tới mục đích duy nhất của Thơ, đó là Dignity of Life. .
Ở một nơi khác, Nhà thơ Ko Un (Korea), người
nhận giải thưởng Cikada vào năm 2006,
đã cặm cụi vẽ nên tấm bản đồ cho một thế giới mới:
Rồi tôi lại xé bản đồ
tôi đã vẽ
Cái này không phải
Cái này cũng không
phải
Tôi cố kìm cơn đau
thắt ruột
Bắt đầu vẽ lại tấm
bản đồ
Tấm bản đồ khác không
còn là bản cũ
cho đến tận hôm nay
Tấm bản đồ của ngày
mai
Ở đó không có nước Mỹ
cũng không có châu Á …**
Ko Un phác thảo nên một thế giới đại
đồng, nơi lan tỏa ánh sáng của các nền văn hóa và vẻ đẹp từ mọi con người, mọi
dân tộc. (Ông khiến tôi nhớ đến nhà văn Nhật Bản Oe Ken Zaburo, người nhận giải
Nobel văn học năm 1994 và tác phẩm Trò
chơi giữa những người cùng thời- dựng nên khuôn mẫu ngôi làng Quốc gia vũ
trụ).
Đương nhiên, đó chỉ là việc mở ra trước nhân
loại một cánh cửa. Con đường đến ngày đó còn xa lắm. Xa đến độ, Ko Un từng nghĩ
đến việc đất nước mình phải chìm xuống biển 300 năm để một ngày kia trở lại với
một vẻ đẹp khác:
Chúng ta tuyên bố từ
nay về sau
Mỗi con người là một
vị thần…
Tuyển tập thơ của Ko Un có tựa đề là Songs of Tomorrow.***đã mang chứa một thông điệp rõ ràng về niềm mơ ước của
ông.
Có thể chăng, tựa đề chung cho thơ
của tất cả các nhà thơ sẽ là: Songs for
Tomorrow. Bất luận cung bậc của các
bài ca như thế nào, dù đó là tiếng khóc, là bóng tối, là nỗi đau hay niềm hân
hoan, niềm hy vọng, bài ca ấy hướng con người đến một ngày mai, cho ngày mai.
Thưa
quý vị và các bạn,
Trong buổi đọc thơ của W. Szymborska chỉ có 12
người, trong đó 6 người là họ hàng, 6 người khác vào để trú mưa. Lướt qua đám
thính giá nghèo nàn, nhà thơ nhìn thấy: “Trên
hàng ghế đầu/ Một ông già đang chìm trong giấc mơ ngọt lịm/ Bà vợ quá cố của ông vừa từ nấm mồ đứng dậy/ Nướng cho
ông chiếc bánh mận thơm lừng”. Nhà
thơ chỉ khẽ nhắc: “Với ngọn lửa nhỏ thôi/ bởi nếu không, bánh sẽ cháy bùng”.
Và rồi, bà bắt đầu buổi đọc thơ của mình.
Đó là tình cảnh của Thơ hôm nay.
Nhưng W. Szymborska đã không rời bỏ
căn phóng ấy, không rời bỏ Thơ. Những
vần thơ giản dị, trong sáng mà giàu suy tưởng của bà đã đem lại niềm tin cho chúng ta,trước những đổ vỡ,
những đau đớn, những hoài nghi của cuộc sống.
Phải chăng, thơ đang lặng lẽ làm
lành vết thương trong tâm hồn con người giữa xã hội tiêu thụ tàn khốc và đầy
xáo trộn hôm nay?. Nếu không, hẳn Octavio Paz đã không thể xác lập cái định
nghĩa mới này: “Thơ là thuốc giải độc cho
kỹ thuật và thị trường”.
Thơ sẽ tồn tại.
Hơn thế, Thơ cần phải tồn tại.
Hẳn không ai trong chúng ta, những
người đang ngồi trong gian phòng ấm cúng của một viện Đại học danh tiếng, giữa
thủ đô Tokyo hôm nay, không nghe thấy tiếng kêu từ những cuộc chiến tranh,
những cuộc khủng bố, những cuộc di dân, những tai nạn, những trận động đất, những
cơn bão lũ…ngoài kia, khắp nơi trên thế giới. Tiếng kêu ấy chính là nơi bắt đầu
của Thơ****
Thưa quý vị,
Cái cấu trúc mong manh được tạo nên
bởi một thứ nguyên liệu dễ mai một là lời nói đã tồn tại lâu bền hơn mọi đền đài, lăng tẩm,
mọi thể chế, mọi chính thể, đó là Thơ- tiếng gọi thẳm sâu của Dignity of Life.
Thưa
quý vị,
Tôi muốn được gửi lời cám ơn đến những
nhà tổ chức đã tạo điều kiện cho tôi được đến Nhật Bản -đến đất nước của Tanka,
của Haiku, của Kobayashi Issa, của Matsuo Basho, của Ysunari Kawabata, của Rynosuke
Akutagawa, của Yukio Mishima, của Kobo Abe, của Kenzaburo Oe, của Jiro Osaragi,
của Dzyunichi Watanabe, của Haruki Murakami, Banana Yoshimoto… Văn hóa Nhật Bản
nói chung, trong đó có văn học, đã trở nên gần gũi và có nhiều ảnh hưởng đến
đời sống của người Việt Nam. Và, không chỉ ở Việt Nam.
Tôi tin vào lời tuyên bố của Y. Kawabata trong
diễn từ nhận giải Nobel, năm 1968: “Tôi
sinh ra từ cái Đẹp của Nhật Bản”, tôi tin vào nhận xét của Tetsujo Tanikawa
:” Mỹ cảm là cốt lõi của tính cách dân
tộc Nhật. Đó chính là đặc điểm căn
bản nhất mà tất cả các đặc điểm còn lại đều tập họp xung quanh”.
Một dân tộc coi cái Đẹp là chuẩn mực,
là một nguyên tắc sống, dân tộc đó đã thấu hiểu phẩm giá của cuộc sống và chắc
chắn sẽ đứng vững trước mọi thử thách.
Các bạn Nhật Bản thân mến,
Các bạn hãy tự hào về đất nước của
mình.
Thưa
quý vị,
Tôi xin kết thúc bài viết này bằng
một câu hỏi, đúng ra, là một câu trả lời. Sinh
ra bằng trí tưởng tượng của con người, thơ có thể chết nếu trí tưởng tượng chết hoặc đồi trụy (Octavio Paz).
Liệu trí tưởng tượng của con người có thể chết không. Hẳn câu trả lời của chúng
ta sẽ là: Không.
Xin cám ơn.
Ý
NHI
9/ 2016.
*Ngọn gió lạ thường
sẽ thổi tới- Tô Thùy Yên-Việt Nam
** Vẽ bản đồ-Ko Un-
Korean
***Ko Un, A
collection of Poems, 1960-2012: Songs for Tomorrow
****
Paul Valery: “ Mỗi bài thơ là sự phát
triển của một tiếng kêu”
No comments:
Post a Comment