"Có
lẽ một ngày nào đó Việt Nam sẽ tự do và tôi có thể trở về. Tôi đang hạnh phúc ở
đây nhưng nội tâm thì rất buồn bã. Buồn cho dân tộc tôi. Tôi không biết liệu
chúng tôi có còn một tương lai. Xa rời quê hương, thật khó mà duy trì truyền thống
của chúng tôi. Chúng tôi cảm thấy như bị đánh mất phần hồn." Đã 36 năm kể từ ngày Mai Thảo trả lời cuộc phỏng
vấn của Jane Katz 7.10.1980, hai năm sau ngày anh đặt chân tới Mỹ và cũng đã 18
năm kể từ ngày anh mất: Việt Nam vẫn chưa có tự do và thân xác anh thì nay đã vùi
nông trên một lục địa mới rất xa với một nơi được gọi là quê nhà.
NGÔ THẾ VINH
Hình 1:
Mai Thảo và ký họa của Tạ Tỵ
[nguồn:E.E
- Emprunct Empreinte]
BÀN VIẾT LỮ THỨ
MAI THẢO
Khó có thể tưởng tượng cảnh
sống đạm bạc của nhà văn Mai Thảo trên đất nước Mỹ. Chỉ là một căn phòng 209 rất
nhỏ trên lầu 2 của một chung cư dành cho người cao niên ngay phía sau hẻm nhà
hàng Song Long. Chỉ có một bàn viết, chiếc giường đơn với nơi đầu giường là một
chân đèn chụp rạn nứt và dưới gậm giường mấy chai rượu mạnh; trên vách là mấy tấm
hình Mai Thảo; đặc biệt là tấm ảnh phóng lớn có lẽ chụp trước 1975, Mai Thảo cao
gầy ngồi trên bậc thềm nhà cùng với nhà thơ Vũ Hoàng Chương mảnh mai trong áo
dài the, phía dưới là một kệ sách. Mai Thảo có nhiều bạn nhưng đây có lẽ là tấm
hình "đôi bạn" mà anh rất thích. Về tuổi tác, Vũ Hoàng Chương hơn Mai
Thảo một con giáp, cũng vì vậy mà Nguyễn Xuân Hoàng hết đỗi ngạc nhiên khi thấy
Mai Thảo gọi Vũ Hoàng Chương là "mày".
Hình 2: Mai Thảo và Vũ Hoàng Chương
[nguồn: báo Văn, số đặc biệt Tưởng Mộ
Mai Thảo tháng 2, 1998]
Qua lời thuật của Nguyễn
Hưng Quốc, hãy nghe Mai Thảo nói về Vũ Hoàng Chương
bạn mình ra sao: “Con người anh ấy lạ lắm.
Đúng là một thi sĩ. Mặt mũi lúc nào cũng ngơ ngơ ngác ngác như trẻ con. Mà nói
chuyện về thơ thì hay vô cùng. Ai cũng là thằng hết. Lý Bạch là thằng. Nguyễn
Du là thằng. Một người yêu thơ, thuộc thơ nhiều vô cùng tận.”
Nguyễn Đình
Toàn sinh năm 1936, nhỏ hơn Mai Thảo 9 tuổi, cũng vẫn cứ mày tao với Mai Thảo.
Để thấy trong sinh hoạt văn học, cùng một lứa bên trời lận đận, họ đã là những
bạn văn không biết đếm tuổi.
Căn phòng nhỏ hẹp ngày nóng
đêm lạnh ấy là không gian sống và cũng là toà soạn báo Văn của Mai Thảo. Mỗi lần
tới thăm anh, tôi vẫn để ý tới chiếc bàn viết lữ thứ của Mai Thảo kê sát khung
cửa sổ thấp nhìn thoáng ra bên ngoài. Rồi tới kệ sách, không có nhiều sách Mai
Thảo, chỉ có ít cuốn sách tiếng Pháp, mấy số báo Văn, đôi ba cuốn sách mới bạn
văn gửi tặng anh. Mai Thảo giỏi tiếng Pháp, đọc nhiều sách Pháp; anh cũng tiếp cận
với nền văn học Mỹ và rất thích các tác giả Mỹ như Henry Miller, Hemingway,
John Steinbeck nhưng là qua những bản dịch Pháp ngữ.
Tôi chú ý tới một cuốn sách
tiếng Anh khá nổi bật với bìa đỏ trên kệ sách:
Artists in Exile, American
Odyssey của Jane Katz. Trong cuốn sách ấy, nữ ký giả Jane Katz, đã phỏng vấn các văn nghệ sĩ thế
giới tới tỵ nạn trên đất Mỹ. Họ đến từ nhiều quốc gia như Nga, Trung Quốc,
Afghanistan, Nam Phi, Á Căn Đình, Việt Nam… Nhà văn Mai Thảo được Jane Katz phỏng
vấn và giới thiệu như một “thuyền nhân”, tác giả của 42 cuốn sách tiếng Việt, tất
cả đều lưu trữ trong thư viện Đại học Cornell. Cuộc phỏng vấn Mai Thảo, được thực
hiện ngày 10 tháng 07, 1980, hai năm sau ngày anh đặt chân tới Mỹ qua thông dịch
của anh Nguyễn Thanh Trang, tới từ San Diego, bạn nhà văn Mai Thảo. Tuy là một
bài phỏng vấn nhưng không có xen kẽ vào những câu hỏi, nên nội dung như một “tự
sự”của Mai Thảo. Jane Katz đã ghi lại cảm tưởng sau cuộc phỏng vấn nhà văn Mai
Thảo: “ Ông phát biểu với một nhân cách trầm tĩnh, và với cả sự kiềm chế sau
những năm sống cách biệt - He speaks with quiet dignity, and with the restraint
which years of privation have taught him.” (6)
Hình 3: Jacket design by Ted Berstein; Artists
in Exile, Jane Katz;
Chân dung Mai Thảo, photo by Kathryn Oneita,
với dòng chữ: " Khi biển đã lặng thì mọi người
bắt đầu cất tiếng ca hát.
The sea was calm, and the people began to sing."
Hình 4: Thủ bút của Jane Katz trên ấn bản
đặc biệt
tặng nhà văn Mai Thảo
Tôi đã lấy xuống từ
kệ sách và mượn anh Mai Thảo cuốn sách với thủ bút của Jane Katz. Tôi lược dịch
bài phỏng vấn Mai Thảo và cho phổ biến trên các tạp chí Văn học, và sau này kể
cả trên Văn số đặc biệt Tưởng Mộ Mai Thảo (1) với tên người dịch Tâm Bình. Sau
đó, tôi đã đem cuốn sách trả lại trên kệ sách của anh.
Bài phỏng vấn của
Jane Katz cũng sẽ đi cùng với bài viết này để tưởng niệm ngày Giỗ thứ 18 của
Mai Thảo.
Khi giao tờ Văn cho Nguyễn
Xuân Hoàng năm 1996, cũng là năm đánh dấu sức khoẻ của Mai Thảo bắt đầu suy yếu,
anh đi lại khó khăn; tới mức, theo Khánh Trường kể lại, thì một buổi tối khuya
về, anh không còn đủ sức leo lên một tầng thang lầu để trở về căn gác trọ thân
thuộc trong bấy nhiêu năm. Sau đó Mai Thảo phải dọn xuống một căn phòng khác dưới
tầng trệt. Ngay phía lầu trên là căn phòng của hoạ sĩ Khánh Trường. Sức khoẻ Khánh
Trường thì cũng không khá gì nhưng đủ sức để chăm sóc anh Mai Thảo khi cần đến.
Tín hiệu Mai Thảo gọi Khánh Trường không phải là điện thoại mà thường là một
cây gậy gõ gõ lên trần nhà.
là biệt danh Mai Thảo gọi Khánh Trường
[nguồn: tư liệu Khánh Trường]
Một Khánh Trường giang hồ với
Hợp Lưu, một Mai Thảo chính phái với Văn, rất khác nhau cả về tuổi tác và nếp sống
nhưng họ lại là một đôi bạn chân tình. Hoạ
sĩ Vỉa Hè New York là biệt danh Mai Thảo gọi Khánh Trường. Cũng như một Cao
Xuân Huy lính tráng ban đầu rất "kình" với Mai Thảo nhưng sau đó gần
anh, trở nên rất thân quý và thương anh Mai Thảo vô cùng. Trong cuốn sách Chân Dung 15 Nhà Văn Nhà Thơ Việt Nam, do
nhà sách Văn Khoa xuất bản ở hải ngoại [1985], Mai Thảo đã có những nét cực tả
về các bạn văn của mình: một Nhật Tiến vẫn
đứng ở ngoài nắng, một nhân cách Bình Nguyên Lộc, một Mặc Đỗ quy ẩn, con đường
Dương Nghiễm Mậu, đường gươm Lê Tất Điều, Nhã Ca giữa cơn hồng thuỷ... (5)
TẠP CHÍ VĂN
TRÊN ĐẤT MỸ
Tên tuổi Mai Thảo gắn liền với
Tạp chí Sáng Tạo, cho dù Sáng Tạo có một đời sống tương đối ngắn ngủi.
Nhưng báo Văn thì đeo đuổi
Mai Thảo lâu dài hơn, từ trong nước trước 1975, ra tới hải ngoại tới 1996.
Báo Văn khởi đầu từ 1964 với
thư ký toà soạn Trần Phong Giao kéo dài được 8 năm. Năm 1972, Văn chuyển qua Nguyễn Xuân Hoàng
thay Trần Phong Giao. Năm 1973, Mai Thảo về Văn cùng với Nguyễn Xuân Hoàng
trông coi Văn. Năm 1974, Nguyễn Xuân Hoàng rời báo Văn, còn lại Mai Thảo làm tiếp
đến 30.4.1975.
Sau hai năm đặt chân tới Mỹ,
năm 1982 Mai Thảo cho tục bản tạp chí Văn và kéo dài được 14 năm. Khó có
thể tưởng tượng được rằng một mình Mai Thảo trông tờ Văn, anh không lái xe, anh
vẫn thuộc trường phái "viết tay" chỉ dùng cây viết chứ không hề đụng
tới chiếc máy chữ hay máy điện toán. Kể cả trên mỗi chiếc phong bì gửi báo cho
hàng trăm độc giả dài hạn, anh cũng vẫn cặm cụi viết tay. Có người bạn trẻ muốn
giúp anh dùng computer in nhãn để không phí thời gian nhưng anh chối từ. Mai Thảo
rất tình cảm, anh muốn có mối tương quan gần gũi với từng độc giả qua nét chữ của
chính anh trên từng số báo. Mười bốn năm sống với và sống bằng tờ Văn, anh hào
hứng mỗi khi khám phá ra một cây viết tài năng mới. Văn cũng là nơi quy tụ lại
những cây viết cựu của miền Nam lưu vong ra hải ngoại. Như một Thảo Trường từng
viết cho Sáng Tạo, sau 17 năm tù cộng sản rồi qua Mỹ, các sáng tác đầu tay của
Thảo Trường viết ở Mỹ, đều gửi cho Mai Thảo đăng trên tạp chí Văn.
Khi nói tới tờ Văn, Mai Thảo
tâm sự: "từ mấy năm nay làm lại tờ
Văn ở Hoa Kỳ, đời sống lữ thứ hàng ngày thấy đỡ thất lạc, bởi lại được thả trôi
trở lại với một không khí toà soạn không khí trị sự, tuy đã khác biệt nhưng vẫn
còn phảng phất đâu đó, trên một góc bàn viết, dưới một ánh đèn sáng, cái không
khí đã bao năm tôi sống ở quê nhà, tâm trí tôi thường có nhiều hơn những hồi tưởng
về báo quán cũ, là 38 Phạm Ngũ Lão Sài Gòn, ngày trước." (5)
Đến năm 1996, sau số báo số
158 &159, do sức khoẻ sa sút, Mai Thảo ban đầu trao tạp chí Văn lại
cho Du Tử Lê, sau một số báo 160, tờ Văn được Mai Thảo chính thức trao lại cho
nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng. Nguyễn Xuân Hoàng tiếp tục ra tờ Văn từ số
161 cho đến số 163.
Hình 6: Người khách lữ thứ Mai Thảo
Tháng Giêng 1996,
bức hình chụp 2 năm trước ngày anh mất
[photo by Nguyễn Bá Khanh]
Đầu năm 1997, Nguyễn Xuân
Hoàng ra tờ báo Văn số 1, bộ mới. Kéo dài được 12 năm. Tới năm 2008, tờ Văn
số cuối cùng 125-129 cho ba tháng Giêng, Hai và Ba là số đặc biệt về hoạ sĩ
Thái Tuấn với bài vở đã layout xong chuẩn bị đưa nhà in, nhưng rồi vì lý do tài
chánh Nguyễn Xuân Hoàng đành cho đình bản tờ Văn, cho dù báo Văn vẫn bán
được, tuy không đem lại lợi nhuận nhưng không thể để một món nợ lớn đến như vậy
với nhà in Kim Select Graphics & Printing trên đường Euclid, mà sau này vợ
chồng Nguyễn Xuân Hoàng phải gồng mình gánh trả.
Lý do sâu xa mà không ai muốn
nói ra, khi tờ Văn của Nguyễn Xuân Hoàng đình bản, cũng như nhà xuất bản Văn
Nghệ của anh Từ Mẫn Võ Thắng Tiết phải ngưng hoạt động vì sách báo thì vẫn bán
được nhưng lại không được các nhà sách sốt sắng thánh toán tiền bạc.
Hình 7: từ trái, Mai Thảo, Kiều Loan
(con gái Hoàng Cầm), Nguyễn Xuân Hoàng;
1996 cũng là năm Mai Thảo trao tờ Văn cho Nguyễn Xuân Hoàng
1996 cũng là năm Mai Thảo trao tờ Văn cho Nguyễn Xuân Hoàng
[nguồn: tư liệu Nguyễn Xuân Hoàng]
TẤM LÒNG TỪ BI
MAI THẢO
Mai Thảo được mọi người biết
tới như một nhà văn, một cây viết tuỳ bút nổi tiếng và sau này là một nhà thơ.
Quen biết anh, người ta càng thấy mến con người Mai Thảo hơn. Tấm lòng của Mai
Thảo với tha nhân thật đẹp. Anh tốt với mọi người và rất trực tính, nói thẳng
trước mặt với người trái ý anh, kể cả lớn tiếng và giận dữ nhưng sau đó thì
quên đi, anh không bao giờ để tâm. Trong suốt cuộc đời viết văn, chưa bao giờ
Mai Thảo dùng ngòi bút để nói xấu hay chửi bới ai, cho dù không thiếu những bài
viết chỉ trích anh nặng nề, có lẽ anh không đọc và cũng không bao giờ trả lời.
Nguyễn Đăng Khánh, người em
ruột Mai Thảo viết về anh mình: "nhiều
lần đọc báo thấy người ta mạt sát anh thậm tệ, tôi
nóng ruột tới hỏi anh: Tại sao người ta chỉ
trích anh nặng nề như thế mà anh không lên tiếng? Anh nói: Sống với người, với đời, phải có lòng.
Tấm lòng ở đây là la bonté. Con người không có la bonté là vứt đi. Phải sống
thành thật với người, với đời. Vì thế nên tôi không bao giờ dùng ngòi bút của
tôi để phê phán, chỉ trích hay nói một điều xấu về ai hoặc để trả lời lại những
kẻ mạt sát tôi. Người ta muốn chỉ trích, muốn nói xấu tôi, cứ nói. Khánh thấy
người ta chỉ trích tôi trên báo chí vì họ muốn độc giả thấy tên họ đứng trên
cùng một trang báo với Mai Thảo. Họ thích như vậy, cứ để cho họ làm, tôi sẽ
không bao giờ viết lại.” (3)
Trước đó khá lâu, năm 1989 Mai
Thảo cũng có một phát biểu tương tự khi gặp Nguyễn Hưng Quốc ở Paris: “Đời tôi có một nguyên tắc: không bao giờ
dùng văn chương để làm bất cứ điều gì xấu xa. Đâu phải tôi không biết người nào
tốt người nào xấu với mình, nhưng tốt hay xấu mặc họ. Người nào tốt, đến gần, uống
rượu chơi. Người nào xấu, lánh ra thật xa, đừng thèm đụng tới. Nhưng đừng bao
giờ mang những điều đó lên trang giấy để bôi bẩn nhau. Văn chương là cái đẹp,
là thế giới của cái đẹp, ở thế giới ấy có thứ tiền tệ riêng của nó: anh phải
dùng thứ tiền ấy, anh phải đàng hoàng, phải lương thiện. Thứ tiền tệ ấy chính
là cái đẹp.” (4)
Trong bài báo đăng trên Saigon Times "Một Vài Kỷ Niệm với Nhà Văn
Mai Thảo" viết vào khoảng cuối năm 1997, khi nhà thơ Thái Tú Hạp vào thăm
Mai Thảo tại bệnh viện Fountain Valley. Thái Tú Hạp đã xúc động nhớ lại một câu
nói tâm tình của Mai Thảo khi anh còn khoẻ và thường tới quán Doanh Doanh ở cuối
con đường Sunset, một quán ăn gia đình rất văn nghệ của vợ chồng Thái Tú Hạp-Ái
Cầm có nhạc cổ điển có treo cả một bức tranh sơn dầu lớn của Nguyên Khai:
"Tôi bảo với Hạp một điều, trong đời sống có thể chúng ta không yêu người này, không thích người kia, xỉ vả nhau thẳng thừng trực
diện một trận rồi thôi. Bỏ! Đừng lôi nhau lên báo, kỳ lắm. Cõi văn chương
hãy để cho nó trong sáng. Hãy xử dụng ngòi bút mình một cách ngay thẳng, tử
tế đối với mọi người..."
Trong cuộc phỏng vấn ngày 5 tháng 6 năm 2008,
mười năm sau khi Mai Thảo mất, câu hỏi cuối cùng của Thuỵ Khuê với Trần Vũ, "Anh muốn nói điều gì nữa về Mai Thảo?
Trần Vũ nhớ lại: lúc sinh tiền, Mai Thảo thường nhắc: «Em không dụng chữ
cho mục đích phi văn chương. Không chửi ai cả. Văn chương không phải là chỗ cho
em bựa. Em không được quyền.» Những khi cáu, ông gắt um. Không phải một lần, mà
nhiều lần, lời khuyên, mệnh lệnh. Bây giờ Mai Thảo mất rồi, tôi cũng không còn
trẻ nữa, nhưng những khi nghĩ đến ông, tôi lại nhớ đến lời dặn này. Hôm qua,
bây giờ, tôi vẫn giữ tròn lời hứa với trưởng thượng của mình."
Cả một đời sống
với chữ nghĩa, vẫn cứ mãi là một Mai Thảo nhất quán, luôn
luôn là người bảo vệ sự trong sáng và thanh thoát của cõi văn chương. Không tu
hành nhưng Mai Thảo sẵn có một tâm Phật.
Rồi chợt nhớ tới
hai câu trong bài thơ Em Đã Hoang Đường Từ
Cổ Đại trong tập thơ Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền của Mai Thảo:
Tâm em là Bụt tâm anh Phật
trên mỗi tâm ngồi một nhánh hương
NHỮNG NGÀY THÁNG
NẰM VIỆN
Trao lại tờ Văn cho Nguyễn
Xuân Hoàng rồi, chẳng bao lâu sau đó, sức khỏe Mai Thảo mau chóng suy kiệt, có
lúc anh đã không còn đủ sức ra khỏi căn buồng trong khu chung cư cho dù anh đã
dọn xuống tầng trệt. Nỗi cô đơn và dấu hiệu bệnh tật thật sự đã có từ mấy năm
trước khiến Mai Thảo đã làm bài thơ "Dỗ bệnh":
Mỗi lần cơ thể gây thành chuyện
Ta lại cùng cơ thể chuyện trò
Dỗ nó chớ gây thành chuyện lớn
Nó nghĩ sao rồi nó lại cho
Bệnh ở trong người thành bệnh bạn
Bệnh ở lâu dài thành bệnh thân
Gối tay lên bệnh nằm thanh thản
Thành một đôi ta rất đá vàng
Khi không còn "dỗ bệnh"
được nữa, là tới lúc Mai Thảo phải rời chiếc bàn viết lữ thứ, rời căn phòng
phía sau nhà hàng Song Long để luân phiên vào các bệnh viện Fountain Valley
Orange County, Good Samaritan Los Angeles và rồi Barlow Hospital và anh đã chẳng
có dịp trở lại chốn cũ.
căn phòng 209, địa chỉ báo Văn và bàn viết
lữ thứ của Mai Thảo.
[photo by Ngô Thế Vinh]
Good Samaritan là bệnh viện
tôi tới thăm anh. Nơi đây tôi gặp Nguyễn Phúc Vĩnh Khiêm, người bác sĩ trẻ
chuyên khoa tim mạch đang trực tiếp chăm sóc anh. Khiêm từ bé học trường Pháp rồi
lớn lên học y khoa ở Mỹ nên không biết gì về văn chương Mai Thảo, nhưng qua
thân phụ, Khiêm được biết mình đang được chăm sóc một người bệnh tên Nguyễn
Đăng Quý, là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng với bút danh Mai Thảo.
Cũng tại bệnh viện Good
Samaritan này, Khiêm đã thông tim cho Thượng toạ Thích Mãn Giác tức thi sĩ Huyền
Không, Khiêm cũng là thành viên trong toán mổ tim lần thứ hai cho nhà văn Võ
Phiến. Vì cùng trong lãnh vực chuyên môn, tôi có nhiều dịp trao đổi với Khiêm về
tình trạng sức khoẻ anh Mai Thảo. Về hô hấp anh cần dưỡng khí qua ống thở, về
dinh dưỡng do không ăn được anh được nuôi bằng chất thực phẩm lỏng bơm qua một
G-tube vào dạ dày. Thời gian này sự sống của anh phụ thuộc vào máy móc và toán
chăm sóc đặc biệt. Sau một thời gian nằm qua các bệnh viện, sức khỏe Mai Thảo ổn
định nhưng hồi phục thì rất chậm do tổng trạng quá yếu, hậu quả của nhiều năm uống
rượu mà không ăn và hút thuốc nên bị suy dinh dưỡng trầm trọng và cả suy hô hấp.
hình bìa Trần Cao Lĩnh, Nxb Văn Khoa 1989;
và thủ bút Mai Thảo
[tư liệu Ngô Thế Vinh]
Nguyễn Mộng Giác khi cùng với
hai chị Bùi Bích Hà và Trần thị Lai Hồng khi vào thăm Mai Thảo tại bệnh viện
Barlow Los Angeles, bằng trực giác của một nhà văn anh đã có ý nghĩ: "dù không có kiến thức y khoa, chúng
tôi đều cảm thấy anh Mai Thảo đang đi trên con đường một chiều, không có cơ may
nào quay trở lại đời sống bình thường như trước." (1)
Sau khi ra khỏi được ống thở,
không còn cần thiết phải nằm trong một bệnh viện "acute care" Mai Thảo được chuyển về một khu chăm sóc Phục
Hồi Quận Cam. Anh không mắc một căn bệnh nan y nào, dù uống rượu bấy nhiêu năm
anh vẫn có một lá gan bằng sắt nhưng Mai Thảo thì cứ như một thân cây khô héo dần
cho tới ngày 10 tháng Giêng năm 1998 thì anh mất.
Nhớ lại khi Mai Thảo vừa mất,
Đỗ Ngọc Yến có ý tưởng lập ngay một giải văn chương Mai Thảo. Tôi nói với Yến,
trước khi nói tới một giải văn chương mang tên Mai Thảo, việc nên làm ngay là
giữ lại chiếc bàn viết lữ thứ của anh ấy, như một nét văn hoá của Little Saigon.
Sau khi anh mất, cả không
gian sống của Mai Thảo, cuối cùng được người em trai là anh Nguyễn Đăng Khánh đến
thu dọn, tất cả chỉ đủ xếp vào mấy chiếc thùng giấy. Và đã không còn đâu dấu vết
chiếc bàn viết lữ thứ của một nhà văn "thuyền nhân" lưu vong có tên
Mai Thảo.
Người Việt phiêu bạt từ khắp
năm châu, khi hành hương tới thủ đô tỵ nạn không lẽ chỉ để thấy một khu Phước Lộc
Thọ, chỉ có một tiệm sách Văn Khoa thì nay cũng không còn nữa. Một người bạn
cùng gia đình và đàn con thế hệ thứ hai đến từ xứ tuyết Toronto, nhận định là tới
Little Saigon không lẽ chỉ để dẫn chúng nó vào những tiệm phở, ngắm bảng hiệu mấy
văn phòng bác sĩ hay luật sư. Anh ấy muốn nói tới một Công Viên Văn Hoá Việt Nam.
JANE
KATZ PHỎNG VẤN MAI THẢO
Và sau đây là bản lược dịch của người viết từ
nguyên bản tiếng Anh, “Những Nghệ sĩ Lưu vong, Hành trình tới Mỹ Quốc” trích từ
cuốn sách Artists in Exile, American Odyssey của Jane Katz do Stein & Day
Publishers, New York xuất bản 1983. (6)
Tôi sinh năm 1930* tại tỉnh Nam Định, Bắc Việt
Nam. Cha tôi là một điền chủ thành đạt, ông được dân làng kính trọng. Ông là chủ
gia đình, mẹ tôi thì ở nhà với những người giúp việc. Tôi và các anh em tôi đều
rất tuân phục cha tôi.
Sau khi có người Tây phương xâm nhập, đã có
tình trạng bất hòa giữa thế hệ trẻ và già. Nhưng những người ngoại quốc ấy đã
không thể phá vỡ nền tảng gia đình của đất nước chúng tôi. Đó là một trật tự
lâu đời không ai có thể hủy hoại.
Cha tôi quản lý các trang trại. Ông giàu có
nên không để chúng tôi làm công việc đồng áng. Tôi phải tới trường đi học,
nhưng sau lớp học thì tôi lại rong chơi ngoài đồng ruộng. Với những con trâu
kéo cày trên những thửa ruộng nơi châu thổ sông Hồng. Đồng cỏ thì phì nhiêu và
xanh tươi. Một số người trong làng thì làm công cho cha tôi, một số khác có ruộng
đất riêng của họ.
Dân tộc tôi yêu đất đai, họ tin rằng có hương
hồn tổ tiên trong đó. Mọi gia đình đều làm việc ngoài đồng áng, không có ai phải
đói kém.
Khi tôi được 10 tuổi thì cha tôi bị mất hết
ruộng vườn. Gia đình tôi phải rời về Hà Nội. Thật là khó khăn cho cha tôi phải
rời bỏ đất đai của tổ tiên và làng mạc. Trong làng ông quen biết mọi người. Ông
đã có một căn cước ở đó mà ông không thể tìm thấy lại nơi thành phố.
Ở Hà Nội, tôi được thấy thành quách và những
ngôi chùa cổ qua các triều đại từ những thế kỷ thứ 8 và thứ 10. Một ngôi chùa
có tên Ngọc Sơn, một ngôi đền khác có tên là Quan Thánh. Trung tâm thành phố là
một hồ lớn, nơi mọi người gặp nhau sau một ngày dài làm việc. Vào mùa hè thì
chúng tôi đi biển.
Cho dù sống ở đô thị, chúng tôi vẫn giữ các tập
tục cổ truyền như kính trọng người già, tưởng niệm các ngày lễ theo truyền thống.
Tinh thần quốc gia là một phần của truyền thống
Việt Nam. Trong một ngàn năm, người Việt bị người Tàu đô hộ, với ảnh hưởng trên
nền giáo dục và tư tưởng nhưng người Việt chưa bao giờ bị hoàn toàn khuất phục.
Rồi tới thế kỷ 19, khi người Pháp đánh chiếm nhiều tỉnh của Việt Nam, thiết lập
nền hành chính đô hộ, mở trường học và các cơ sở dân sự điạ phương.
Năm 16 tuổi, tôi gia nhập phong trào kháng
chiến chống Pháp. Chúng tôi tổ chức những chương trình ca nhạc kịch trong các
làng xóm để khích động lòng yêu nước. Chúng tôi viết những câu chuyện về lịch sử
và khát vọng tự do. Tôi đã từ bỏ kháng chiến 4 năm sau đó khi biết được Cộng sản
đã xử dụng phong trào kháng chiến để phá vỡ trật tự xã hội cổ truyền và cổ võ
cho đấu tranh giai cấp.
Chiến tranh Việt Pháp chấm dứt năm 1954 và đất
nước bị phân đôi. Gia đình chúng tôi di cư vào Sài Gòn. Đó là một hình thức phản
kháng những người Cộng sản. Cha tôi không tin họ và họ cũng không tin cha tôi.
Dưới thống trị của Cộng sản, dân chúng hết quan tâm về nghệ thuật. Làm sao có
thể vẽ tranh khi mà thường ngày phải lo từng miếng ăn? Trí thức thì bị khống chế
và thường bị cưỡng bức vào quân đội.
Từ năm 1958, khởi sự có đối đầu công khai giữa
hai miền Việt Nam: miền Bắc là chế độ Cộng sản hậu thuẫn bởi Trung Cộng và Liên
Xô và miền Nam không Cộng sản hậu thuẫn bởi Hoa Kỳ và các nước đồng minh.
Thường xuyên có chiến dịch tuyên truyền của cả
đôi bên. Miền Bắc thì rêu rao là đang giải phóng miền Nam chống lại đế quốc Mỹ,
còn chính phủ miền Nam thì đang chống lại sự thống trị của Trung Cộng và Liên
Xô. Cộng sản thực hiện cuộc chiến du kích ẩn náu trong rừng sâu. Máy bay Mỹ thì
rải chất độc khai quang để bắt địch quân phải lộ diện. Họ cũng đã gây nhiễm độc
cho rừng núi, cây cối, xúc vật và nguồn thực phẩm.
Trí nhớ của tôi về những năm chiến tranh còn
rất sống động. Tôi vẫn còn thấy được những căn nhà bị đánh bom, cây cối thì
cháy lá và trơ cành, một ngôi đền cổ bị bốc cháy, những trẻ con bụng ỏng, mất mắt
hay cụt chân, bà cụ già không nhà cửa thì đi lang thang như người mất hồn…
Tôi viết văn từ năm 1950. Ở xứ sở tôi, nhà
văn nhà giáo rất được kính trọng. Sách của tôi được các công ty nhỏ tư nhân xuất
bản ở miền nam Việt Nam, rất phổ biến, một số sách đã trở thành “best-sellers”
nhưng để sống bằng nghề cầm bút rất khó. Tôi viết rất nhiều truyện và tiểu thuyết.
Chúng tôi không có nhiều dịch giả, các sách của tôi không được dịch ra ngoại ngữ.
Tôi cũng làm chủ bút một vài tờ báo và tập san văn chương.
Tôi có đọc các nhà văn Mỹ mà tôi rất thích
như: Henry Miller, Hemingway, John Steinbeck – qua những bản dịch tiếng Pháp.
Các tác giả này không ảnh hưởng tới văn phong của tôi. Nền văn học của chúng
tôi rất khác. Chúng tôi có truyền thống văn học riêng từ ngàn năm. Nền văn học
của chúng tôi rất quy cách, với mục đích: thăng tiến xã hội.
Có một truyện ngắn tôi đã viết và ưa thích có
tựa đề là “Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời”.
Một người đàn ông và một người đàn bà chung sống trong một căn nhà nhỏ bên suối.
Người đàn bà thì không hiểu tại sao người đàn ông đã bỏ đi. Hành trình của người
đàn ông là leo lên tới đỉnh cao nhất của một ngọn núi Phương Đông. Ông muốn biết
ngọn núi ấy cao bao nhiêu; ông đi tìm kiếm một chân lý tuyệt đối và hạnh phúc.
Khi tới được đỉnh cao nhất của ngọn núi thì ông ta tuyệt vọng vì ý thức được rằng
chân lý tuyệt đối thì không bao giờ có thể đạt được. Người đàn bà đi tìm kiếm
và thấy xác người đàn ông nằm bên bờ suối. Không ai biết người đàn ông đã chết
như thế nào. Người đàn bà đưa xác người đàn ông về làng và tự hỏi tại sao người
đàn ông chết. Và cuối cùng người đàn bà nghiệm ra rằng trên đường đi tìm chân
lý, người đàn ông đã chọn cái chết.
Như một nhà văn, tôi đề cập tới vấn đề nhân
sinh; tôi không có ý đi tìm một giải pháp. Đa số các sách và truyện của tôi dựa
trên kinh nghiệm bản thân hay của những người mà tôi quen biết. Sự kiện ghi nhớ
trộn lẫn với hư cấu. Văn phong – style, là điều quan trọng.
Người Mỹ rút khỏi Sài Gòn năm 1975. Do các bài
viết chống cộng trước đó, tôi bị liệt kê trong sổ đen những nhà văn có nguy hại
cho chế độ. Hầu hết các nhà văn có tên trong danh sách ấy đều bị bắt đi tù, nhiều
người bị chết trong tù vì thiếu ăn, thiếu thuốc men.
Tôi thì may mắn hơn, được dân chúng chăm sóc
và che chở. Không có tình thương yêu của họ tôi đã không thể sống còn ở Việt
Nam.
Cộng sản ra thông báo là bất cứ ai tán trợ những
nhà văn có tên trong sổ đen sẽ bị bắt giữ. Hệ thống an ninh của họ rất chu đáo.
Họ chỉ định những người hàng xóm canh chừng nhau và báo cáo lên chính quyền địa
phương. Nhưng vẫn có nhiều người liều mạng để che chở cho tôi. Họ che dấu tôi
trong 8 căn nhà khác nhau trong vòng hai năm trời. Tôi sống trong hầm tối vì bất
cứ ánh sáng hay sinh hoạt nào bị hàng xóm phát hiện sẽ gây hiểm nguy cho gia chủ.
Phải là những căn nhà không có trẻ em vì các gia đình luôn luôn dạy con em
không được nói dối. Cộng sản đã lục soát một số nhà nhưng không hiệu quả, và họ
đã không tìm ra tôi.
Tôi sống như một con vật trong bóng tối, ẩn
mình trong suốt hai năm. Có những đêm hoàn toàn mất ngủ, những ngày giống nhau
buồn chán. Một người bạn đem đến cho tôi cỗ mạt chược và tôi chơi cùng một lúc ở
cả hai phe. Đôi khi quá tuyệt vọng, tôi phải tìm cách ra ngoài, một cách bí mật
trong bóng đêm. Đôi khi tôi không thể tưởng tượng rằng mình đã phải sống trong
những điều kiện như vậy. Có lúc tôi cảm thấy tuyệt vọng, và tưởng tượng rằng sẽ
có một giấc ngủ dài và không trở dậy nữa. Nhưng người Việt có thói quen chịu đựng
và vượt qua. Tôi sâu sắc cảm thấy nhà văn là thuộc xã hội và quần chúng mà họ
đang sống với. Với những người đã cùng nhau hợp tác cứu sống tôi, tôi thấy mình
phải can đảm để xứng đáng với sự trợ giúp mà tôi đã nhận.
Tôi không phải là Phật tử cho dù gia đình tôi
theo Phật giáo. Nhưng là một nhà văn và là một người suy tưởng, tôi phải nhìn lại
đời sống mình và cố gắng tìm ra những ý nghĩa. Trong nhiều giờ mỗi ngày tôi đã
tịnh tâm và suy niệm. Đặc biệt trong hoàn cảnh như vậy, người ta phải đi tìm sự
thật và ý nghĩa của cuộc sống. Tôi đã có cơ hội đó. Tôi tin rằng mỗi chúng ta
có một thượng đế trong chính mình. Một người có thể tự cứu rỗi đời sống chính
mình qua những hành động và suy nghĩ. Sự tỉnh thức này luôn luôn có ở trong
tôi.
Vào cuối năm 1977, có các tổ chức tư nhân
giúp người vượt biên. Họ liên lạc với tôi và bảo tôi cứ chờ ở nơi đang ẩn lánh.
Tôi hiểu rằng đào thoát là một dịch vụ tốn kém mà tôi thì không có một xu. Tôi
không có cách nào liên lạc với gia đình mà không gây nguy hiểm cho họ. Tôi chờ
đợi. Vào một đêm tối trời, một người mặc áo đen đi xe Honda, đậu dưới một gốc
cây sau căn nhà, hướng dẫn tôi ngồi lên xe gắn máy và lặng lẽ chạy ra hướng bờ
sông Sài Gòn, nơi có một chiếc thuyền đánh cá nhỏ đang chờ. Tôi được bảo nên
chèo ghe, giả bộ như một ngư dân. Sau 2 hoặc 3 giờ đồng hồ, tôi lại được chuyển
sang một thuyền máy trên biển. Bây giờ thì người đàn bà chủ tàu bảo tôi có thể
hút thuốc. Tôi nhìn một lần chót thành phố Sài Gòn và bật khóc vì hiểu rằng tôi
chẳng còn bao giờ thấy lại nữa. Người dân miền Nam, hết sức gắn bó với một thành
phố mang tên Sài Gòn. Tôi có cảm tưởng đã quay lưng lại với di sản của chính
mình.
Trên biển cả, tôi có cảm giác được phóng thả.
Tôi đã là một con người tự do.
Đó là một đêm tối đen không trăng. Chúng tôi
ra được biển khơi nhưng nhưng lại có một cơn bão thổi tới từ Phi Luật Tân, vật
vã con tàu nhỏ, bắt buộc chúng tôi phải trở lại bờ. Tôi trở lại nơi ẩn náu. Vài
ngày sau đó, tôi được tin cha tôi chết ở tuổi 82. Đối với tập tục Á Đông, một đứa
con phải về chịu tang lễ của bố mẹ hoặc mang trong tội bất hiếu. Nhưng các anh
tôi khuyên tôi không nên về nhà vì đang bị theo dõi và tôi có thể bị bắt. May mắn
là tôi đã bí mật tới thăm được mộ cha tôi, đọc lời cầu nguyện tỏ lòng tưởng nhớ
và điều ấy đã làm dịu nỗi đau.
Rồi có chiếc xe gắn máy khác tới trong đêm tối.
Chuyến đào thoát thứ hai nguy hiểm hơn lần trước. Chiếc thuyền đánh cá nhỏ đưa
tôi tới một chiếc chòi, tôi phải núp ở đó suốt 2 ngày trong vùng xình lầy có
cây che khuất. Cuối cùng thì một chiếc ghe tới đưa tôi ra khơi và trong đêm tối,
tôi được chuyển qua một chiếc tàu đánh cá lớn hơn. Bất chợt, có một tín hiệu
đèn và không tiếng động. Một toan tính kỹ lưỡng và cả nhiều may mắn. Tôi bước
lên một con tàu sức chứa 20 người nhưng số người lên tàu là 58. Chúng tôi phải
rất tiết kiệm nước và gạo vì không có chỗ chứa. Mọi người ăn uống rất ít và
không có ai chết.
Hình 10: nhà văn thuyền nhân Mai Thảo đến
bến bờ tự do
Pulau Besar, Mã-lai 12.1977 [nguồn:
internet]
Trên tàu gồm những người tỵ nạn chính trị,
sinh viên học sinh, người già, các gia đình với trẻ thơ. Chúng tôi trải qua 6
ngày đêm. Mọi người đều đói và khát, một số ngã bệnh. Khi chúng tôi tới gần Mã
Lai, biển lặng, trời trong, và mọi người bắt đầu cất tiếng hát. Họ yêu cầu tôi
ngâm một bài thơ. Tôi đọc bài thơ của một người bạn nói về một người đàn ông rời
nhà ra đi mà không có một ai tới nói lời giã từ.
Tới Mã Lai nhưng họ không muốn tiếp nhận
chúng tôi. Các giới chức tỏ vẻ không thân thiện, do đã có quá nhiều tàu tỵ nạn
tới đây. Là một quốc gia nghèo, họ không thể cưu mang tất cả. Mỗi lần chúng tôi
cố cập bến, họ đẩy chúng tôi ra xa. Cuối cùng, một ngư phủ Mã Lai ra dấu cho
chúng tôi; họ bảo cứ ủi tàu vào bãi, nếu tàu bị vỡ hư hại thì họ phải nhận
chúng tôi. Chúng tôi đã làm như vậy và có hiệu quả. Con tàu chở chúng tôi bị vỡ.
Chúng tôi giúp trẻ em, người già bệnh hoạn lên bờ. Viên chức cứu trợ Liên Hiệp
Quốc tới gặp chúng tôi, tặng tiền để chúng tôi mua thực phẩm. Món hàng đầu tiên
mà tôi mua là một bao thuốc lá. Họ đưa chúng tôi tới trại tỵ nạn. Trại rất đông
nhưng có đủ thực phẩm và lều trú và chúng tôi thì tự do. Chúng tôi không bị
giam hãm trong trại. Tôi bắt đầu yêu mến người dân Mã Lai. Trong trại có đài
phát thanh và tôi được yêu cầu viết bài và đọc cho chương trình. Tôi cũng giữ
chức chủ tịch trại.
Tôi tới Mỹ vì đã có hai em tôi ở đó, và tôi
cũng có quen biết với số nhà văn Việt Nam tới trước. Bây giờ tôi đang viết về
kinh nghiệm của chính mình. Tôi hy vọng các tiểu thuyết của tôi được dịch sang
tiếng Anh. Tôi cũng đang vận động trả tự do cho các văn nghệ sĩ còn bị cầm tù ở
Việt Nam. Tôi e rằng nền văn học nghệ thuật của chúng tôi sẽ bị tiêu vong.
Tôi gửi tiền về cho mẹ tôi. Tôi mong bà sẽ
sang đây nhưng bà thì không muốn là gánh nặng cho các con ở Mỹ. Và bà cũng
không muốn chết ở một nơi xa quê nhà.
Tôi muốn nói với với thế giới rằng hai mươi
năm chiến tranh đã tàn phá đất nước tôi. Nhà cửa đường xá có thể xây dựng lại,
nhưng vẻ đẹp của đất đai và tâm hồn dân chúng thì không. Khi chúng ta đang nói
chuyện nơi đây, sự hủy hoại vẫn tiếp diễn dưới chế độ Cộng sản.
Có lẽ một ngày nào đó Việt Nam sẽ tự do và
tôi có thể trở về. Tôi đang hạnh phúc ở đây nhưng nội tâm thì rất buồn bã. Buồn
cho dân tộc tôi. Tôi không biết liệu chúng tôi có còn một tương lai. Xa rời quê
hương, thật khó mà duy trì truyền thống của chúng tôi. Chúng tôi cảm thấy như bị
đánh mất phần hồn.
Jane
Katz, Artists in Exile, American Odyssey (6)
* Ghi chú của người
viết: Mai Thảo sinh ngày 8 tháng 6 năm 1927, chi tiết Mai Thảo sinh năm 1930
trong bài phỏng vấn của Jane Katz có lẽ không chính xác.
Hình 11: Người muôn năm
cũ, từ phải: Thanh Tâm Tuyền 2006, Đinh Cường 2016, Mai Thảo 1998, Ngọc Dũng
2000
[nguồn: tư liệu Đinh Cường]
TIỂU SỬ MAI THẢO VÀ TÁC PHẨM
Mai Thảo tên thật là Nguyễn Đăng Quý, bút hiệu
khác: Nguyễn Đăng, sinh ngày 8/6/1927 tại chợ Cồn, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
Thuở nhỏ học trường làng, trung học lên Nam định rồi Hà nội (học các trường Đỗ
Hữu Vị, Chu Văn An). Năm 1945, theo trường sơ tán lên Hưng Yên. Khi chiến tranh
bùng nổ năm 1946, gia đình từ Hà Nội tản cư về quê chợ Cồn, sau đó Mai Thảo vào
Thanh óa theo kháng chiến, viết báo, tham gia các đoàn văn nghệ đi khắp nơiH từ
Liên khu III, IV đến chiến khu Việt bắc. 1951, Mai Thảo bỏ kháng chiến về thành.
1954, di cư vào Nam. Viết truyện ngắn trên các báo Dân Chủ, Lửa Việt, Người Việt.
Chủ trương tạp chí Sáng Tạo (1956), Nghệ Thuật (1965) và từ 1974, trông báo
Văn. Ngày 4/12/1977, Mai Thảo vượt biển tới Pulau Besar, Mã lai. Đầu năm 1978,
sang định cư tại Hoa-kỳ. Ban đầu cộng tác với tờ Đất Mới của Thanh Nam trên
Seattle và một số báo khác tại hải ngoại. Tháng 7/1982 anh cho tục bản tạp chí
Văn, làm chủ biên đến 1996, vì tình trạng sức khỏe trao lại cho Nguyễn Xuân
Hoàng; hai năm sau ngày 10/1/1998 Mai Thảo mất tại Santa Ana, California, thọ
71 tuổi.
TÁC PHẨM
Nhà nghiên cứu và thư viện học Phạm Trọng Lệ,
trên báo Văn số Tưởng mộ Mai Thảo tháng 2/1998 đã sưu tầm một thư mục Mai Thảo,
trong đó có ghi số trương mục những tác phẩm được lưu trữ tại các thư viện ở
Hoa Kỳ, và được Thuỵ Khuê bổ xung phân loại sau đó. (2)
Đoản thiên:
Đêm giã từ Hà-nội (Người Việt, 1955) Tháng
giêng cỏ non (1956), Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời (Sáng Tạo, 1963), Bày thỏ
ngày sinh nhật (Nguyễn Đình Vượng, 1965), Căn nhà vùng nước mặn (An Tiêm,
1966), Đêm lạc đường (Khai Trí, 1967), Dòng sông rực rỡ (Văn Uyển, 1968), Người
thầy học cũ (Văn Uyển, 1969), Chuyến tàu trên sông Hồng (Tuổi Ngọc, 1969), Tùy
bút (1970), Mưa núi (tập hợp những truyện tuyển trong Đêm giã từ Hà-nội và Tháng
giêng cỏ non, Tân Văn, 1970), Ngọn hải đăng mù (Làng Văn, Toronto, 1987), Một
đêm thứ bẩy (Tổ hợp xuất bản miền Đông Hoa Kỳ, 1988) Hồng Kông ở dưới chân
(Xuân Thu, 1989), Chân bài thứ năm (Nam Á, Paris, 1990), Chuyến métro đi từ
Belleville (Nam Á, 1990).
Truyện dài:
Mái tóc dĩ vãng (Tiểu thuyết tuần san, 1963),
Cô thích nhạc Brahms? (phóng tác), Khi mùa thu tới (Thái Lai, 1964). Viên đạn đồng
chữ nổi (Văn, 1966). Đêm kỳ diệu. Cùng đi một đường (1967). Sau khi bão tới
(Màn Ảnh, 1968), Tới một tuổi nào (Miền Nam, 1968), Cũng đủ lãng quên đời (Hồng
Đức, 1969), Lối đi dưới lá (1969), Mười đêm ngà ngọc (Hoàng Đông Phương, 1969),
Thời thượng (Côi Sơn, 1970), Sống chỉ một lần (Nguyễn Đình Vượng, 1970), Hết một
tuần trăng (Tủ sách Văn Nghệ Khai Phóng, 1970), Sau giờ giới nghiêm (Tủ sách
Văn Nghệ Khai phóng, 1970), Trong như hồ thu (Tủ sách văn Nghệ Hiện Đại, 1971),
Mang xuống tuyền đài (Tủ sách Văn Nghệ Khai Phóng, 1971), Một ngày của Nhã
(1971), Để tưởng nhớ mùi hương (Nguyễn Đình Vượng, 1971), Sóng ngầm (Hoa biển,
1971), Sống như hình bóng (Tiếng Phương Đông, 1972), Hạnh phúc đến về đêm (Nguyễn
đình Vượng, 1972), Một đời còn tưởng nhớ (Hải Vân, 1972), Gần mười bẩy tuổi
(Nguyễn Đình Vượng, 1972), Chỉ là ảo tưởng (Sống Mới, 1972), Suối độc (Nguyễn
Đình Vượng, 1973), Tình yêu mầu khói nhạt (Nguyễn Đình Vượng, 1973), Bên lề giấc
mộng (Ngày Mới, 1973), Chìm dần vào quên lãng (Tiếng phương Đông, 1973), Cửa
trường phía bên ngoài (Đồng Nai, 1973), Ánh lửa cuối đường hầm (Anh Lộc, 1974),
Ôm đàn tới giữa đời (Gìn Vàng Giữ Ngọc, 1974), Những người tình tuổi song ngư
(Xuân Thu, 1992)...
Nhận định, hồi ức:
Chân
dung mười lăm nhà văn, nhà thơ Việt Nam (Văn Khoa, 1985)
Thơ: Ta
thấy hình ta những miếu đền (Văn Khoa, California, 1989).
ĐI THĂM MAI THẢO
Buổi sáng ngày lập đông, nam California vẫn
là một ngày nắng đẹp tuy hơi se lạnh. Chúng tôi, anh Từ Mẫn nguyên giám đốc Nxb
Lá Bối rồi Văn Nghệ, anh Phạm Phú Minh nguyên chủ bút Thế Kỷ 21 rồi Diễn ĐànThế
Kỷ, cùng hẹn nhau đi thăm mộ anh Mai Thảo. Riêng nhà thơ Thành Tôn, người có đầy
đủ nhất các tư liệu về Mai Thảo vì bận bất ngờ không đi được.
Hình 12: Mộ chí Mai Thảo với 4 câu thơ trích từ tập
Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền; trên bia
mộ là tờ Văn số đặc biệt Tưởng Mộ Mai Thảo, tư liệu của Thành Tôn
Hình
13: anh Từ Mẫn Võ Thắng Tiết (phải) và anh Phạm Phú Minh thăm mộ Mai Thảo
04.12.2016 [photo by Ngô Thế Vinh]
Mộ Mai Thảo trong khu vườn Vĩnh
Cửu, gần nhà Thuỷ Tạ. Cô nhân viên của Peek Family nhận biết ngay tên nhà văn
Mai Thảo, và cho biết thường chỉ có khách phương xa tới thăm. Quanh mộ Mai Thảo
cỏ mọc xanh non, riêng tấm bia mộ bằng đá đen trải qua 18 năm vẫn nguyên vẹn với
chân dung Mai Thảo và phía dưới có trạm khắc 4 câu thơ từ tập
Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền:
Thế giới có triệu điều không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi
Đặt
mấy nhánh hồng trên mộ chí anh Mai Thảo, cùng với số báo Văn đặc biệt Tưởng Mộ
anh, thắp mấy nén nhang với khói hương trầm toả khắp. Thăm anh Mai Thảo và nhớ tới
anh với câu thơ Nguyễn Du: Thác là thể phách còn là tinh anh.
NGÔ THẾ VINH
California, 12.2016
Tham Khảo:
1/ Nguyễn
Xuân Hoàng, Nhớ Mai Thảo; Văn số đặc biệt Tưởng
mộ Mai Thảo, tháng 2/1998
2/ Phạm Trọng Lệ, Bảng
Thư Mục Tác Phẩm của Mai Thảo; Văn số đặc
biệt Tưởng mộ Mai Thảo, tháng 2/1998
3/ Nguyễn Đăng
Khánh, Mai Thảo Anh Tôi; Văn
số đặc biệt Tưởng mộ Mai Thảo, tháng 2/1998
4/
Nguyễn Hưng Quốc, Vài ghi nhận về Mai Thảo; VOA 12.01.2011 http://www.voatiengviet.com/a/ghi-nhan-ve-mai-thao-2-01-12-2011-113379499/892744.html
5/
Mai Thảo, Chân dung mười lăm nhà văn nhà thơ Việt Nam,
Nxb
Văn Khoa 1985
6/ Jane Katz, Artists
in Exile, American Odyssey; Stein & Day Publishers, NY 1983
No comments:
Post a Comment