Ngô
Thế Vinh
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
Để tưởng nhớ Mai Chửng
điêu khắc gia tượng
đài Bông Lúa 1970
Primum
Non Nocere / Trước hết không gây hại.
Hình 1: tới Cửa Trần Đề mút cuối con Sông Hậu,
từ trái: Ngô Thế Vinh trên bãi biển Trần Đề;
giữa & phải: ĐBSCL với bờ biển ngày đêm bị sạt lở và
sói mòn.
[photo by Phạm Phan Long & Ngô Thế Vinh]
TỚI CỬA TRẦN ĐỀ MÚT CUỐI SÔNG HẬU
Từ
con Kênh Vĩnh Tế biên giới Việt Miên tới Cửa Trần Đề, có thể nói chúng tôi đã
đi gần suốt chiều dài con Sông Hậu.
Nguy
cơ rối loạn dòng chảy hạ lưu là có thật và có thể nhìn tử thượng nguồn. Nhìn về
Phương Bắc, từ hơn hai thập niên qua, người viết không ngừng báo động về những
mối nguy cơ tích luỹ không thể đảo ngược từ phía thượng nguồn do nạn phá trắng
những khu rừng mưa nhiệt đới (rainforest), rồi những khu rừng lũ (flooded
forest) quanh Biển Hồ, tới kế hoạch phá đá phá các ghềnh thác (Mekong rapids
blasting project) khai thông mở rộng dòng sông Mekong để cho tàu bè của Trung
Quốc vận chuyển hàng hoá tràn xuống các quốc gia hạ lưu, cùng với ảnh hưởng lâu
dài là những con đập bậc thềm khổng lồ Vân Nam, tiếp đến là chuỗi 12 dự án đập
dòng chính hạ lưu ở Lào và Cam Bốt với hậu quả gây rối loạn dòng chảy, mất nguồn
cát nguồn phù sa nơi các hồ chứa, với thời gian có thể đưa tới một tiến trình đảo
ngược, một Đồng Bằng Sông Cửu Long / ĐBSCL còn non trẻ có thể từ từ tan rã.
Hình 2: 16 năm trước thời điểm tháng 9.2002,
tác giả đứng bên chân con đập Mạn Loan / Manwan 1,500 MW,
con đập lịch sử,
con đập dòng chính / mainstream dam đầu tiên trên thượng
nguồn Sông Lancang-Mekong
Vân Nam, Trung Quốc. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Trung Quốc đang khống chế không chỉ Biển Đông
mà còn trên toàn Lưu Vực Sông Mekong, Việt Nam là một quốc gia cuối nguồn, giới
cầm quyền VN thì lệ thuộc về chính trị vào Trung Quốc và do đó hoàn toàn bị động.
Cho dù Việt Nam thỉnh thoảng có lên tiếng phản đối yếu ớt nhưng thực tế không
có chiến lược gì cụ thể và hầu như không làm được gì để bảo vệ sự sống còn của
hơn 17 triệu cư dân ĐBSCL và cũng là vựa lúa của cả nước. Đó là một sự thật.
Quá
trình tự huỷ xảy ra ngay tại ĐBSCL. Lòng sông không ngừng bị nạo vét để lấy
cát. Diện tích rừng tràm rừng đước tiếp tục bị phá và thu hẹp. Khai thác vô hạn
các tầng nước ngầm. Thêm vào đó là những dự án trọng điểm của nhà nước được cổ
xuý là để "cải tạo" ĐBSCL từ sau 1975, nhưng đã gây tác hại nhiều
hơn. Đó là những huỷ hoại mang tính tích luỹ.
Hậu
quả nhãn tiền là bờ sông, bờ biển không ngừng bị sạt lở, đất lún nhanh hơn biển
dâng, nạn nhiễm mặn trầm trọng hơn và rõ ràng là nguồn tài nguyên thiên nhiên của
cả một vùng đất mới vốn được ưu đãi thì nay cứ nghèo dần đi. Kết luận dễ dàng
nhất để rũ bỏ mọi trách nhiệm là đổ lỗi cho Mẹ Thiên nhiên, cho Biến đổi Khí hậu
nhưng không thể không kể tới một chuỗi hậu quả tích luỹ của những yếu tố nhân
tai, do chính con người gây ra với sự thụ động của giới cầm quyền.
Hình 3: 600 km bờ sông các tỉnh Miền Tây đang bị sạt lở;
hình trái, Sông Hậu tỉnh An Giang với nhiều khúc bờ sông
bị sạt lở do nhiều yếu tố
nhân tai: mất lượng phù sa do hồ chứa nơi những con đập
thuỷ điện thượng nguồn,
nạn phá rừng, nạo vét lòng sông khắp nơi để khai thác
cát. [photo by AX, VN Express 15.05.2017];
hình phải, bờ Sông Hậu sạt lở nơi huyện Hồng Ngự tỉnh Đồng
Tháp. [photo by PanNature VN 2009]
Hình 4: Dọc bờ biển ĐBSCL cũng ngày đêm âm thầm bị xói
mòn / beach erosion;
so với sạt lở ven sông, tình trạng sạt lở ven biển trầm
trọng hơn nhiều. Một dãy nhà bị đổ sụp xuống sông
được báo chí và dân chúng quan tâm nhiều hơn nhưng sạt lở
ven biển là một cái chết chậm
và rất âm thầm; hình trái, là cây bần bật gốc bị cuốn
trôi rạt nơi Cửa sông Trần Đề.
[photo by Ngô Thế Vinh 2017];
hình phải, sạt lở rừng ven biển gây mất đất đai tại huyện
Phú Tân tỉnh Kiên Giang.
[photo by PanNature VN 2012]
QUA
CÙ LAO DUNG
Gần
tới Biển Đông, gặp Cù Lao Dung, Sông Hậu chia làm hai nhánh: hữu ngạn chảy ra cửa
Trần Đề (trước đây còn có tên gọi là Trấn Di) thuộc tỉnh Sóc Trăng; tả ngạn chảy
ra cửa Định An thuộc tỉnh Trà Vinh. Ở giữa hai cửa Trần Đề và Định An là cửa Ba
Thắc rất nhỏ đã bị phù sa vùi lấp từ trăm năm trước. Cửu Long chín cửa: 9, thực
tế chỉ có Bát Long: 8, nay thêm cửa Ba Lai của Sông Tiền bị bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn xây cống đập chặn mặn bít kín, chỉ còn là Thất Long: 7.
[Hình 5a]
Hình 5a: Cửu Long Chín Cửa Hai Dòng, nay chỉ còn Bảy Cửa:
Sông Hậu ba cửa nay còn hai:
(1) cửa Trần Đề, (2) cửa Định An, (cửa Ba Thắc / Bassac
đã bị lấp). Sông Tiền sáu cửa nay còn năm:
(3) cửa Cung Hầu, (4) cửa Cổ Chiên, (5) cửa Hàm Luông, (cửa
Ba Lai đã bị đắp đập làm cống chặn mặn
từ năm 2000), (6)
cửa Đại, (7) cửa Tiểu. [nguồn: bản đồ Dragon/ CTU; với ghi chú
của Ngô Thế Vinh, CLCD BĐDS p.360]
Hình 5b: Cù lao Dung chia Sông Hậu ra làm hai nhánh:
nhánh hữu ngạn
chảy ra cửa Trần Đề, nhánh tả ngạn chảy ra cửa Định An.
[nguồn: Wikipedia, thêm ghi chú của người viết].
Cù
Lao Dung là một trong những cù lao lớn trên Sông Hậu, nằm giữa 2 tỉnh Sóc Trăng
và Trà Vinh. Cù Lao Dung là một huyện thuộc tỉnh Sóc Trăng, diện tích 24.944
hecta với dân số khoảng 63,000 người [62,931 người theo thống kê 2009]. Phía
Đông và Bắc giáp tỉnh Trà Vinh; phía Tây giáp huyện Long Phú tỉnh Sóc Trăng;
phía Nam giáp Biển Đông. [Hình 5b]
Nếu
từ bản đồ Google bung ra, chúng ta sẽ thấy có rất nhiều cù lao lớn nhỏ trên hai
con Sông Tiền và Sông Hậu. Nói chung, đất cù lao là do phù sa bồi đắp nên phì
nhiêu, rất thích hợp cho các loại cây trái. Cư dân sống trên đất cù lao, qua
nhiều thế hệ, được thiên nhiên ưu đãi phải nói sung túc nếu không muốn nói là
giàu có.
Do
là một cù lao rất lớn và trải dài trên Sông Hậu, nửa cuối Cù lao Dung tiếp cận
với Biển Đông nên được hưởng cả hai chế độ thuỷ văn và thuỷ sản nước mặn và nước
ngọt theo mùa.
Hình 6: tới cuối năm 2017, vẫn còn một nền văn-hoá-phà,
hoạt động rất hiệu quả
trên nhiều vùng sông nước Cửu Long; các chuyến phà Đại
Ngãi trên nhánh Sông Hậu
qua lại Cù lao Dung. [photo by Ngô Thế Vinh]
Hình 7: trái, túi trữ nước ngọt lấy từ giếng bơm; 100% nước
tưới ruộng hành, kể cả
nước dùng cho tiện dụng gia cư đều lấy từ các giếng bơm từ
các tầng nước ngầm,
là nguyên nhân khiến nền đất ĐBSCL lún nhanh hơn mực nước
biển dâng. [photo by Phạm Phan Long]; phải, cảnh vẫn thường thấy ngày đêm là những
chuyến xà lan chở đầy cát được nạo vét
từ hai con Sông Tiền và Sông Hậu, cũng là một trong những
nguyên nhân gây sạt lở trầm trọng
ven sông. [photo by Ngô Thế Vinh]
QUA
KÊNH QUAN CHÁNH BỐ
Kênh
Quan Chánh Bố nguyên là một kênh đào thuộc huyện Duyên Hải tỉnh Trà Vinh. Một đầu
kênh nối với Sông Hậu ở xã Định An (Trà Cú). Con kênh chạy dọc theo ranh giới
huyện Duyên Hải và Trà Cú phía bắc Quốc lộ 53, và đổ ra Biển Đông. Nguyên thuỷ,
con Kênh Quan Chánh Bố được đào từ thế kỷ 19 [thời gian 1837 - 1838] để dẫn nước
từ Sông Hậu vào rửa mặn vùng đồng lầy Láng Sắt, công trình đào kênh thời đó do
Quan Chánh Bố Trần Trung Tiên đảm trách.
Sang
thập niên đầu của thế kỷ 21, [năm 2009], Bộ Giao thông Vận tải [GTVT] dưới thời
bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng, người Đà Nẵng [nhiệm kỳ 06.2006 - 08.2011] triển khai
một dự án nạo vét con Kênh Quan Chánh Bố nhằm tạo một thuỷ lộ từ biển đi vào
Sông Hậu tới giang cảng Cần Thơ thay cho luồng đi qua cửa Định An, viện lý do cửa
Định An bị nhiều phù sa bồi đắp khiến các con tàu trọng tải lớn có nguy cơ mắc
cạn khi đi vào Sông Hậu.[sic]
Hình 8: Dự án Luồng Kênh Quan Chánh Bố với mức đầu tư ban
đầu
lên tới 9,781 tỷ đồng, từ ngày đi vào giai đoạn vận hành
thử nghiệm đang là
nguồn cơn thống khổ của cư dân đang sống hai bên bờ con
kênh.
[nguồn: tài liệu của Bộ Giao Thông Vận Tải]
Với
kế hoạch mở rộng và vét sâu theo suốt chiều dài 19.2 km con Kênh Quan Chánh Bố
tính từ chỗ nối với Sông Hậu đến xã Long Khánh; đồng thời, khai mở thêm một
khúc kênh mới có tên gọi là Kênh Tắt dài 8.2 km được nối phần cuối đoạn mở rộng
con Kênh Quan Chánh Bố qua xã Đông Hải thông ra tới biển và thêm đoạn kênh biển
dài 7 km. Nếu kể cả đoạn Sông Hậu dài 12.1 km Luồng Kênh Quan Chánh Bố có tổng
chiều dài là 46.5 km. [Hình 8]
Dự
án Luồng Kênh Quan Chánh Bố với mức đầu tư ban đầu lên tới 9,781 tỷ đồng, được
khoe đây là "con kênh đào Panama của
Việt Nam", một so sánh rất khiên cưỡng. Kênh Panama có tầm vóc thế giới
và là một con kênh chiến lược cắt ngang eo đất Panama Trung Mỹ nối liền hai biển
lớn là Đại Tây Dương với Thái Bình Dương, thay vì phải vòng qua Mũi Sừng / Cape
Horn điểm cực nam của Nam Mỹ, với rút ngắn hơn nửa khoảng cách đường biển, như
tàu bè đi từ New York chỉ phải vượt qua 9,500 km để tới San Francisco thay vì
22,500 km nếu không qua kênh đào Panama.
Cũng
giống như các dự án trọng điểm khác nơi ĐBSCL, phải nói là dự án Luồng Kênh
Quan Chánh Bố được hình thành khá vội vã, cả với những ý kiến bất đồng (4)
nhưng vẫn cho khởi công từ cuối năm 2009. Như từ bao giờ, đa số các dự án chưa
có đủ thời gian nghiên cứu để có được cơ sở khoa học, thảo luận và đánh giá một
cách khách quan, và nhất là thiếu minh bạch;
đã thế khi đi vào thực hiện dự án Luồng Kênh Quan Chánh Bố lại không có được
hình thức đấu thầu công khai theo luật định, mà là chỉ định nhà thầu thuộc các
nhóm lợi ích. Tiêu tốn ngân sách hàng nhiều ngàn tỷ đồng chỉ với mục tiêu đơn
giản và cuối cùng là tìm được một đường tàu biển trọng tải lớn ra vào ĐBSCL mà
không quan tâm gì tới tính bền vững về môi trường, đến hiệu quả kinh tế, và nhất
là sự an toàn cho người dân. Nạn
nhân không ai khác hơn vẫn những người “dân đen” được đưa ra làm thử nghiệm.
Và, những cuộc thử nghiệm cứ nối tiếp
nhau, dù hiệu quả thì chưa thấy rõ nhưng hậu quả thì hầu như ai cũng thấy.
Tưởng cũng nên có một
ghi chú bên lề, Bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng sau nhiệm kỳ 5 năm ở Bộ Giao Thông Vận
Tải cho tới lúc nghỉ hưu vào tháng 8.2011 khi đó công trình con kênh Quan Chánh
Bố còn dở dang và cũng theo báo chí lề phải trong nước, để chuẩn bị trước về
hưu, khi còn tại nhiệm chính ông Hồ Nghĩa Dũng cũng đã chỉ định một nhà đầu tư
cho một Dự án lớn khác: Xây đường hầm
Đèo Cả để rồi sau đó không ai khác hơn là chính ông tham gia vào Hội đồng
Quản trị Công ty Cổ phần đầu tư Đèo Cả. Bước chuẩn bị này đã từng gây tai tiếng,
bị chính báo chí trong nước gọi đây là “hành động lót ổ” đồng thời là “một tiền
lệ xấu”. Ông Bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng còn được nhớ tới với thành tích đề xuất
xây dựng đường sắt cao tốc Bắc Nam dài 1570 km với kinh phí 55 tỉ USD, may mà
sau đó dự án đã bị Quốc hội khoá XII biểu quyết bác bỏ.
Công
trình Kênh Quan Chánh Bố sau đó được tiếp tục qua thời Bộ trưởng kế nhiệm Đinh
La Thăng, người Nam Định, [nhiệm kỳ 03.2011 - 08.2016] với một tiểu sử rất dày:
trước khi về bộ Giao thông Vận tải, ông đã là Chủ tịch Hội đồng Dầu khí Quốc
gia VN (2008-2011), Chủ tịch Hội đồng Quản trị Dầu khí Quốc gia VN (2005-2008),
Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tổng Công ty Sông Đà (2001-2003); và nay 2018 thì
đang bị dính vào vòng lao lý do "cố ý làm sai trái quy định nhà nước gây hậu
quả nghiêm trọng khi ông giữ chức Chủ tịch Hội đồng Dầu khí Quốc gia VN".
Và
rồi sau 7 năm khởi công [2009 - 2016], công trình Luồng Kênh Quan Chánh Bố được
hoàn thành vào đầu năm 2016; với thành tích là những con số: Kênh Quan Chánh Bố
nay có thể tiếp nhận các tàu biển lớn 20.000 tấn giảm tải và 10.000 tấn đầy tải
vào Sông Hậu. WIKIPEDIA
Và
chỉ một năm đi vào hoạt động với không ít hệ luỵ, theo báo Đất Việt [ngày
10.04.2017], Bộ Giao Thông Vận Tải / GTVT lại tính thay thế Phà Kênh Tắt bằng một Đường hầm chui qua Kênh Tắt, khiến dư
luận hết sức băn khoăn.
Hình 9: Kênh Tắt là đoạn kênh đào mới nối đoạn cuối con
Kênh Quan Chánh Bố thông ra biển.
Để nối hai bờ Kênh Tắt trên QL 53 dự tính ban đầu là Cầu
Kênh Tắt; sau đó cầu được thay thế bằng
Phà Kênh Tắt, chỉ mới một năm Phà Kênh Tắt đi vào hoạt động,
Bộ GTVT lại tính
thay thế bằng Đường Hầm Chui qua Kênh Tắt với dự tính tổn
phí lên tới 10,319.2 tỷ đồng...
khiến GS Nguyễn Ngọc Trân, người theo dõi dự án Luồng
Kênh Quan Chánh Bố từ giai đoạn đầu tiên
đã phải vô cùng ngạc nhiên vì chủ đầu tư thay đổi phương án như thay áo
cho dù phải chi hàng ngàn tỷ đồng ngân sách nhà nước. (2)
[photo by Ngô Thế Vinh]
GS
Nguyễn Ngọc Trân, [người gốc người Miền Tây, sinh ra trên một cù lao giữa Sông
Tiền, huyện Chợ Mới tỉnh An Giang, là thành viên lâu năm Hội đồng Chính sách
Khoa học và Công nghệ Quốc gia, cơ quan tư vấn của Thủ tướng Chính phủ từ 1992
phải lên tiếng:
"Điều gây ngạc
nhiên đến khó có thể tưởng tượng là thông báo trong Trang địa phương của vị Thứ
trưởng, nguyên Cục Trưởng Cục Hàng hải, rằng Thủ tướng Chính phủ có chủ trương
giao cho Bộ GTVT nghiên cứu làm hầm qua Kênh Tắt để tránh cho người dân không
phải qua phà đồng thời đảm bảo an toàn cho luồng tàu biển. Để làm việc này,
Trang địa phương cho thông tin sẽ cần thêm 50 ha đất, và trên 3,000 tỷ đồng. Dự
kiến sẽ triển khai vào cuối năm nay.
Gây ngạc nhiên vì
phương án đầu tiên nối hai bờ Kênh Tắt trên QL 53 là Cầu Kênh Tắt. Qua quá
trình triển khai dự án, phương án cầu đã được thay thế bằng Phà Kênh Tắt. Phà
này mới được đưa vào hoạt động từ ngày 20.01.2016, ngày thông luồng Kênh Tắt.
Như vậy, chỉ sau một năm đi vào hoạt động, Bộ GTVT lại tính thay thế Phà Kênh Tắt
bằng một Hầm Chui qua Kênh Tắt. Và thay đổi này không phải là duy nhất.
Khi được cho triển
khai (công văn số 123/TTg-CN ngày 22.01.2007) tổng mức đầu tư của dự án là
3,148.5 tỷ đồng. Mười tháng sau, tổng mức đầu tư của dự án được Bộ GTVT duyệt tại
Quyết định số 3744/QĐ-BGTVT ngày 30.11.2007 tăng từ 3,148.5 lên 10,319.2 tỷ đồng,
nghĩa là gấp 3.28 lần. Bởi vì khối lượng nạo vét luồng từ 22 triệu m3 tăng lên
28.1 triệu m3; kè dọc tuyến luồng 35.94 km thay vì 27.57 km; giải phóng mặt bằng
1406.47 ha thay vì 300 ha; thay đổi mái dốc nạo vét do nền đất yếu; thay đổi đê
chắn cát thành đê chắn sóng; kết hợp đê chắn sóng của dự án luồng với dự án cảng
biển Trà Vinh…
Ngạc nhiên vì chủ đầu tư thay đổi phương án… giống như
thay áo, cho dù phải chi hàng ngàn tỷ đồng ngân sách nhà nước cho những thay đổi
đó. Cử tri, những người đóng thuế cho ngân sách, có quyền đặt câu hỏi về
tính nghiêm túc của dự án! Khó có thể tưởng tượng vì chi ngân sách hàng ngàn tỷ
đồng sao mà dễ dàng đến thế! Đó là chưa nói đến hiệu quả kinh tế, tác động lên
môi trường tự nhiên và xã hội. Liệu lần này với phương án hầm chui rồi cũng sẽ
làm như các lần trước?" [sic] hết trích dẫn (2)
Không
lâu sau đó, theo VTV.VN [16.11.2017] cơ quan truyền hình nhà nước đã lại phải
lên tiếng báo động (3):
Tàu biển hàng chục
nghìn tấn lưu thông qua Kênh Quan Chánh Bố, tỉnh Trà Vinh gây sóng lớn đe dọa tính mạng, làm
thiệt hại tài sản khiến người dân nơi đây vô cùng lo sợ. Tháng 1/2016, luồng
tàu biển vào Sông Hậu chính thức được thông luồng, đáp ứng cho tàu biển có tải
trọng 10,000 tấn chở đầy hàng và 20,000 tấn vơi hàng lưu thông. Luồng tàu vào
Sông Hậu có đoạn đi qua Kênh Quan Chánh Bố của các huyện Trà Cú và Duyên Hải, tỉnh
Trà Vinh. Từ ngày thông luồng đến nay, hàng
trăm hộ dân ở hai xã Long Vĩnh và Đôn Xuân sống ven Kênh Quan Chánh Bố luôn sống
trong cảnh thấp thỏm, lo lắng. Nguyên nhân là do tàu biển đã nhiều lần gây sóng
lớn, làm thiệt hại tài sản và đe dọa đến tính mạng người dân. Người dân cho biết,
hiện tượng sóng tràn vào nhà xảy ra rất nhiều lần. Theo bà Đặng Thị Cúc
(huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh), cháu ngoại của bà đã từng bị sóng lớn do tàu
biển gây ra cuốn trôi xuống con lạch trước nhà, rất may cháu được phát hiện và
cứu kịp thời. Sau tai nạn kinh hoàng đó, để bảo vệ các cháu, gia đình bà đã phải
làm hàng rào lưới trước nhà. Vết sẹo trên chân bà Kim Thị Tiến vẫn chưa lành hẳn,
hậu quả sau một lần bà bảo vệ chiếc ghe của gia đình tránh bị sóng đánh vỡ. Đến
nay, bà Dương Thị Phượng vẫn chưa hết bị ám ảnh khi nhắc lại câu chuyện tàu biển
gây sóng lớn đánh nát một chiếc xuồng và ghe cào. Ngoài ra, một lượng hải sản lớn
đã bị thất thoát khiến gia đình bà bị thất thoát khoảng 100 triệu đồng. Người
dân cho biết, các tàu này hoạt động không thường xuyên mà cách 1 - 2 ngày. Tuy
nhiên, điều nguy hiểm là các tàu biển
gây sóng cao từ 3-4 m nhưng ít khi bấm còi khi qua khu vực đông dân cư và có thể
chạy vào bất cứ giờ nào trong ngày, kể cả ban đêm... [sic]
Rồi
tới báo Đại Đoàn Kết [04.07.2017], cho biết có tình trạng sạt lở hai bên bờ con
kênh, đòi hỏi thêm kinh phí ứng phó được
đề xuất lên đến 1,600 tỷ đồng nữa. (1)
Nhưng theo nguồn tin
từ công ty Hải Vận Ship, thì dù đang trong giai đoạn thử nghiệm [sic] nhưng đến
nay đã có 14 chuyến tàu từ biển đi qua Kênh Tắt đến Kênh Quan Chánh Bố để vào
Sông Hậu.
Sau khi chuyến tàu
Đông Thiên Phú Diamond tải trọng hơn 4,000 tấn đi vào ngày 7/7, có nhiều tàu tải
trọng lớn khác như tàu Tân Cảng Glory chở container tải trọng gần 9,000 tấn vào
Sông Hậu một chuyến/ tuần. Cuối tháng 11, chuyến tàu Vinalines Unity tải trọng
trên 20 nghìn tấn chở hàng nhẹ cũng hai lần vào Kênh Tắt an toàn để cập cảng
trên Sông Hậu.
Ông Võ Minh Tiến,
Giám đốc Cảng vụ Hàng hải Cần Thơ cho biết, do đang trong quá trình khai thác thử nghiệm [sic] nên đơn vị phải
phối hợp với lực lượng biên phòng, chính quyền địa phương thường xuyên tổ chức
tuần tra, thanh thải luồng lạch để đảm bảo cho các chuyến tàu ra vào an toàn. Đến
thời điểm này, dự án Luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào Sông Hậu đã đáp ứng
được các yêu cầu kỹ thuật, đảm bảo an toàn cho tàu thuyền tải trọng lớn ra vào. HẢI VẬN SHIP
Điều
đang lưu ý là ông Giám đốc Cảng vụ Hàng hải Cần Thơ chỉ quan tâm tới bảo đảm an toàn cho tàu biển trọng tải lớn ra vào Sông
Hậu, mà lại không đề cập gì tới an toàn và sinh mạng của chính những người dân
ngày đêm sống lo âu thấp thỏm ven kênh.
Với những hệ lụy nổi
cộm từ khi Luồng Kênh Quan Chánh Bố từ khi đi vào vận hành, cũng vẫn GS Nguyễn
Ngọc Trân đã phải kiến nghị thẳng thắn đối với Dự án luồng Sông Hậu qua Kênh Tắt và Kênh Quan Chánh Bố cần được Quốc hội
giám sát, đặc biệt là việc thực hiện giám sát những vấn đề liên quan đến Luồng
Quan Chánh Bố. Bởi vì, các luồng tự nhiên như Định An thì ngày càng nông trong
khi luồng qua Kênh Quan Chánh Bố còn phải nạo vét nhiều và chưa biết độ ổn định
ra sao.
Còn TS Lê Kế Lâm mong
muốn, Bộ Giao thông Vận Tải / GTVT trong quá trình thực hiện Dự án cần có cơ sở cho các nhà khoa học
nghiên cứu, thảo luận và đánh giá một cách khách quan chính xác. Và, Bộ GTVT
nên tổ chức phản biện đối với Dự án
này, nhất là phản biện của các tổ chức tư vấn, của các hội. Ngay cả khi lựa chọn
tổ chức tư vấn phản biện theo hình thức đấu thầu công khai theo luật định, chứ
không thể chỉ định thầu. Mục tiêu cuối cùng là tìm được một luồng tàu biển
ra vào ĐBSCL một cách kinh tế, an toàn, bền vững về môi trường, không phụ lòng
mong mỏi của người dân.
[Tưởng cũng nên nói
thêm, TS Lê Kế Lâm nguyên Thiếu tướng Hải quân tương đương Phó Đô đốc, hiện là
chủ tịch Hội Khoa học Kỹ thuật và Kinh tế Biển TP. HCM nhiệm kỳ 2014-2019, TS
Lê Kế Lâm được nhiều người biết đến qua sự kiện Hội KHKT mà ông là Chủ tịch đã
can đảm công khai lên tiếng phản đối mạnh mẽ Trung Quốc trong vụ giàn khoan Hải
Dương 981].
Đại
Đoàn Kết [04.07.2017], Lê Anh.
Hình 10: tàu 7,000 tấn lưu thông từ biển qua Kênh Quan
Chánh Bố vào Sông Hậu.
[nguồn: báo Đại Đoàn Kết 04.07.2017], nói về giá trị kinh
tế của dự án Kênh Quan Chánh Bố
cho tàu trong tải lớn từ Biển Đông đi vào Sông Hậu để tới
giang cảng Cần Thơ, cho đến nay
vẫn chưa có câu trả lời và vẫn đang gây rất nhiều tranh
cãi. Hiệu quả kinh tế của
Luồng Kênh Quan Chánh Bố chưa thấy đâu nhưng đã gây ra
nhiều hậu quả tiêu cực.
NHỮNG
DỰ ÁN SAI LẦM TỪ HỆ THỐNG
Từ
sau 1975, như một chuỗi sai lầm từ hệ thống, nhà nước đã thiết lập vội vã nhiều
dự án trọng điểm nhằm "cải tạo" ĐBSCL, đa phần là can thiệp thô bạo gây tác hại trên hệ sinh
thái mong manh của cả một vùng châu thổ, do thiếu sót trong Đánh giá Chiến lược
Tác động Môi trường ĐTM [SEA hay Strategic Environment Assessment], với những
"nghiên cứu mệnh danh là khoa học" nhưng theo phong cách: làm nhanh
ăn nhanh; rồi đem chính mạng sống và kế sinh nhai người dân ra thử nghiệm, khi
mà người dân đã bị tước đoạt tự do và quyền tự vệ. Đây hẳn là điều không thể
nào được chấp nhận trong một quốc gia có dân chủ.
Có
thể nói đa số các quy trình SEA là nguỵ tạo do thiếu minh bạch và trách nhiệm
khi mà:
1.
Mâu thuẫn lợi ích. Báo cáo SEA do chính chủ đầu tư chọn nhóm tư vấn, trả chi
phí cho họ và đương nhiên toán tư vấn phải viết báo cáo biện hộ tối đa cho dự
án và che đậy tối đa các tác động xấu cho chủ đầu tư. Những cố vấn có lương tâm
trách nhiệm sẽ từ chối không tham dự vào những hợp đồng có hại cho uy tín lâu
dài của họ. Hệ quả là các báo cáo SEA cho các dự án Việt Nam sẽ không thể tin cậy
để đưa tới quyết định.
2.
Thiếu minh bạch khoa học. Báo cáo SEA không được công bố rộng rãi trên truyền
thông báo chí, mà là đặc ân dành cho những viên chức trong bộ máy cầm quyền
tham vấn với nhau và người dân muốn tìm hiểu thì phải mò mẫm trong bóng tối và
khi có ý kiến phản đối thì họ và cả gia đình có thể bị hăm doạ và cả đàn áp tù
đầy.
3.
Hội đồng thẩm định báo cáo SEA không có sự tham sự của các chuyên gia khoa học
độc lập và xã hội dân sự. Đôi khi các nhà khoa học ấy còn bị mạo danh là tác giả
của bản báo cáo để che chắn cho chủ thầu, lừa cả nhà cầm quyền và không ai phải
chịu một sự chế tài hay trừng phạt nào. Hệ thống SEA bị ô nhiễm ở cả hai phía
chủ thầu và uỷ ban duyệt xét.
4.
Những cơ quan quản lý phát triển cơ sở hạ tầng như VN Food, EVN, PVN,
Vinacomin... là những tập đoàn chịu sự chi phối và khống chế bởi các nhóm lợi
ích. Họ liên kết nhau đề ra những công trình quy mô để tạo cơ hội sinh lợi, một
thứ văn hoá tham nhũng đã thành nề nếp cả nước đều biết mà vẫn phải im lặng chịu
đựng.
5.
Sau khi dự án đi vào vận hành, hệ thống quan trắc vi phạm ô nhiễm hoạt động
không hiệu quả và không có báo cáo rộng rãi. Như một ví dụ, theo điều tra riêng
của Hội Sinh Thái Việt / Việt Ecology Foundation, thì ngay cả thông tin chỉ số
chất lượng không khí / Air Quality Index cũng bị chính cơ quan cầm quyền cố ý tự
sửa đổi để né tránh trách nhiệm, tạo những thông tin sai lạc và đánh lạc hướng
dư luận.
6.
Một thể chế tạo ra và dung dưỡng các nhóm lợi ích như thế sẽ không có chỗ cho
nhân tài tham gia nếu họ không chấp nhận từ bỏ ý thức trách nhiệm và tiếng nói
của lương tri. Vẫn có những trí thức chân chính trong nước từ chối tham gia vào
guồng máy nhưng khi cần họ vẫn can đảm lên tiếng phản biện cả với cái giá phải
trả nhằm giảm thiểu những tác hại lâu dài trên nguồn tài nguyên đất nước của
các thế hệ tương lai.
Nguyên
lý bất di bất dịch là: Trước Hết là Không Gây Hại (Primum Non Nocere), vẫn cứ
mãi là bài học vỡ lòng, là kim chỉ nam cho các bộ trưởng, vụ trưởng các ngành trước
khi khởi công bất cứ một dự án nào trên ĐBSCL. Thế nhưng trong thực tế chưa có
một chứng cớ nào cho thấy các vị ấy hành động theo nguyên lý căn bản trên.
Có
thể liệt kê ngay những dự án chính đã và đang gây tác hại và tổn thương lâu dài
cho ĐBSCL như:
_ Dự án đê bao chống
lũ: [Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn], với những đê bao
ngăn lũ chỉ để có thêm đất làm lúa cao sản 3 vụ, vắt kiệt đất đai, lại không có
nguồn phù sa, nước tù đọng tích luỹ ô nhiễm đồng thời làm giảm lượng nước vào
hai vùng trũng Đồng Tháp Mười và khu Tứ Giác Long Xuyên như nguồn dự trữ cho
toàn ĐBSCL trong Mùa Khô.
_ Dự án cống đập chặn
mặn: [Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn], ngăn chặn dòng chảy
tự nhiên biến những con sông khoẻ mạnh thành ao hồ tù đọng, xoá đi một nền văn
hoá nước lợ / brackish water và gây rối loạn dây chuyền trên toàn nhịp đập /
Mekong Pulse của hệ sinh thái ĐBSCL.
_ Dự án 14 nhà máy
nhiệt điện than: [Bộ Công Thương], biến ĐBSCL là bãi tiếp nhận các nhà máy nhiệt
điện chạy than phế thải từ Trung Quốc với hậu quả tàn phá môi trường đất đai,
nguồn nước và không khí với sức khoẻ của người dân không hề được quan tâm tới nếu
không muốn nói là bị hy sinh.
_ Dự án Nhà Máy Giấy
Lee & Man: [Bộ Tài Nguyên & Môi Trường] gây ô nhiễm nghiêm
trọng vì nguồn nước thải với đủ loại hoá chất được chính Bộ TNMT cấp phép cho xả
thải ra Sông Hậu đang giết chết dòng sông, rồi còn phải kể tới bụi khói độc hại,
mùi hôi thối, tiếng ồn từ nhà máy ngày đêm bào mòn sức khoẻ của người dân.
_ Dự án Kênh Quan
Chánh Bố: [Bộ Giao thông & Vận tải], với tốn kém hàng nhiều ngàn tỷ đồng chỉ để
cho mấy tàu trọng tải lớn từ Biển đi vào Sông Hậu để tới giang cảng Cần Thơ gây
bao khốn khổ cho người dân khi mà giá trị kinh tế của dự án kênh Quan Chánh Bố,
cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời và vẫn đang gây rất nhiều tranh cãi gay gắt.
Danh
sách trên vẫn chưa đầy đủ. Trong thực tế còn nhiều dự án nhỏ cấp địa phương đã
và đang được triển khai nhưng không có những nghiên cứu làm cơ sở và cũng chẳng
có đánh giá tác hại môi trường từ các chuyên gia độc lập.
Ấy
vậy mà cho đến nay vẫn có những người trong giới cầm quyền và giới khoa học thuộc quản lý của nhà cầm quyền
cho rằng họ đã thành công trong việc nâng cao sản lượng nông nghiệp qua các
công trình thuỷ lợi và "ém phèn" được xem là "thành công ngoạn mục".
Thật ngạc nhiên, một thành tựu lớn như vậy mà không hề có bất cứ một công bố
khoa học nào trên các diễn đàn khoa học quốc tế! Tuy nhiên, đối với những người
sống và làm việc ở ĐBSCL thì những thành tựu đó chỉ là trên giấy. Những
"ngôi sao" khoa học hình như xuất hiện nhiều trên hệ thống truyền
thông của Nhà nước hơn là trên diễn đàn khoa học nghiêm chỉnh.
GS
Nguyễn Văn Tuấn, một nhà khoa học có nhiều trải nghiệm ở trong nước và qua nhiều
năm quan sát miền quê ĐBSCL cho rằng: "Sự
thật là một số không nhỏ trong giới khoa học Việt Nam làm nghiên cứu không theo
chuẩn mực quốc tế, kết quả không được công bố, nên chẳng ai biết thực hư ra
sao. Báo chí trong nước và ngay cả Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ cũng thừa
nhận rằng nhiều 'công trình' của họ thường nằm trong hộc tủ, chứ ít khi nào được
công bố. Ngay cả khi được công bố thì dấu hỏi lớn vẫn lơ lửng trên những số liệu
họ báo cáo."
Cũng GS Nguyễn Văn Tuấn,
nhận định: "[…] còn quá sớm để quy những công trạng – nếu có – cho giới
khoa học. Tôi quan sát ở miền quê tôi thì thấy sự thật là những thành tựu về
tăng năng suất trồng trọt và lúa là do người nông dân xoay xở. Nông dân tự thử
nghiệm cho đến khi đạt được kết quả tốt (kiểu trial-and-error). Họ có thể không
biết những nguyên tắc thí nghiệm hay ngẫu nhiên hoá, họ có thể không rành tính
toán như các kỹ sư & tiến sĩ, nhưng qua trial-and-error, họ có thể lai giống
và tạo giống mới, chế tạo máy gặt lúa, máy cấy lúa, máy hút lục bình, v.v. Giới
khoa học chẳng giúp gì cho họ trong các sáng kiến đó. Người nông dân thiếu chữ
để nói đó là công trạng của họ, và thay vào đó có những người mang mác 'tiến
sĩ' giành công trạng cho mình. Ai cũng biết tác nhân làm nghèo làm khổ nông dân
miền Tây là cái tập đoàn lương thực có tổng hành dinh nằm ngoài … Hà Nội."
Ở
Việt Nam, người ta có câu khuyên các nhà quản lý và khoa học quốc doanh: đừng
làm gì hết, ngồi yên đó để dân nuôi, vì họ làm là hư hỏng.
Trong
thực tế miền nào (Nam, Trung, Bắc đều) có những hiền tài với cả nhân cách, họ
như những cánh sen giữa bùn lầy và nhà cầm quyền đã không có một chính sách
chiêu hiền đãi sĩ khiến nguồn chất xám ấy không được trọng dụng; để rồi những
tài năng ấy hoặc bị mai một hoặc họ phải chọn con đường bỏ đất nước ra đi.
Và
cũng không phải là quá khắt khe khi dân gian nhắc tới khái niệm "giới khoa
học quốc doanh" theo cái nghĩa xấu nhất: đó là một tập đoàn đội lốt khoa bảng
bị mua chuộc, chèn ép những người có thực tài, họ cấu kết với nhau, mai phục
trong các bộ các ngành ở Việt Nam và nghiễm nghiên trở thành công cụ, tệ hơn nữa
họ trở thành một dàn kèn dư luận viên bênh vực vô điều kiện cả những sai trái
cho một guồng máy chuyên chính chỉ biết vơ vét và chia chác quyền lợi. Và nạn
nhân không ai khác hơn chính là đám dân đen câm nín và tiếng kêu than của họ nếu
có cũng không được lắng nghe.
THAY
LỜI KẾT: CON ĐƯỜNG VÒNG 43 NĂM
Bây
giờ, chúng tôi đang đứng ở mút cuối con Sông Hậu, nhìn từng đợt sóng vỗ vẫn còn
màu nâu nhạt của phù sa nơi cửa sông trải rộng để chan hoà vào biển cả; bao
nhiêu cảm xúc tràn về, như một flashback, chợt nhớ lại hơn một lần qua Long
Xuyên, nơi có tượng đài Bông Lúa Con Gái
của Mai Chửng, [Hình 11] một cố tri và cũng là một tên tuổi lớn trong lãnh vực
điêu khắc của Miền Nam.
Sau
1975, cùng với chiến dịch đốt sách, Tượng đài Bông Lúa ấy cũng đã bị phá sập,
quả không phải là một "điềm lành" cho tương lai nền Văn Minh Lúa Gạo
và cả hậu vận của toàn vùng Sông Nước Cửu Long.
Hình 11a: Tượng đài Bông Lúa Con Gái 1970 bằng đồng lá,
một tác phẩm nghệ thuật lớn của điêu khắc gia Mai Chửng Hội
Hoạ Sĩ Trẻ VN,
[nguồn: tư liệu Hội Hoạ Sĩ Trẻ 1966-1975].
Hình 11b: trái, điêu khắc gia Mai Chửng đứng bên công
trình tượng đài Bông Lúa thực hiện
bằng đồng lá, cao hơn 16 m đang xây cất tại tỉnh Long
Xuyên ĐBSCL; toàn cảnh pho tượng Bông Lúa
tại Công viên Trưng Vương tỉnh Long Xuyên 1970; nhưng chỉ
5 năm sau, sau 30 tháng 4, 1975
tượng đài Bông Lúa ấy đã bị phá sập, quả không phải là một
"điềm lành".
[nguồn: sưu tập Dương Văn Chung, Thatsonchaudoc.com]
Người
dân Việt Nam, và hơn 17 triệu cư dân ĐBSCL nói riêng đang thầm mơ ước gì? Mơ được
trở lại với một nền giáo dục nhân bản đã có từ 43 năm trước. Mơ được sống trở lại
với một Miền Tây trù phú với gạo trắng nước trong, cây trái trĩu cành và tôm cá
đầy đồng. Thời hoàng kim ấy đã qua rồi, sau 43 năm "cải tạo", một ĐBSCL
với nguồn tài nguyên thiên nhiên không những đã nghèo đi, người dân còn phải chứng
kiến những dòng sông đang chết, phẩm chất cuộc sống / quality of life của họ sa
sút, họ phải sống ngày đêm trong nỗi bất
an với đất, nước, không khí ngày càng thêm ô nhiễm. Và cũng dễ hiểu tại sao
đã có ngót 2 triệu cư dân ĐBSCL bỏ làng xóm ra đi. Cuộc tỵ nạn môi sinh ấy
không có dấu hiệu suy giảm.
Và
cũng đã hơn một lần, trong các bài viết, người viết đã nêu rõ quan điểm: "môi sinh và dân chủ phải là một bộ
đôi không thể tách rời".
NGÔ
THẾ VINH
ĐBSCL 12.2017
California 04.2018
Tham
Khảo:
1/ Luồng Quan Chánh Bố
trước nguy cơ sạt lở. Việc nạo vét luồng Quan Chánh Bố được dự báo sẽ tiêu tốn
chi phí lớn trong nhiều năm. Báo Đại Đoàn Kết 04.07.2017 http://daidoanket.vn/xa-hoi/luong-quan-chanh-bo-truoc-nguy-co-sat-lo-tintuc371653
2/ Để Không Phải Tiếp
Tục Theo Lao. GS Nguyễn Ngọc Trân. Báo Đất Việt, Thứ Hai 10.04.2017
http://baodatviet.vn/dien-dan-tri-thuc/gs-nguyen-ngoc-tran-de-khong-phai-tiep-tuc-theo-lao-3332924/
3/ Người dân Trà Vinh
sống thấp thỏm cạnh luồng tàu biển. Diệp Phong-Phú Cường VTV9, 16.11.2017
http://vtv.vn/xa-hoi/nguoi-dan-tra-vinh-song-thap-thom-canh-luong-tau-bien-20171116100021216.htm
4/ Giới Trí Thức và
Quan Chức bàn về Luồng Tàu Biển vào ĐBSCL. Kinh Tế Biển VN, 29.01.2012
http://kinhtebien.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=464:gii-tri-thc-va-quan-chc-ban-v-lung-tau-bin-vao-bscl-&catid=87:cng-min-nam&Itemid=2
5/ Cống Đập Chặn Mặn
Gây Rối Loạn Hệ Sinh Thái và Những Cái Giá phải Trả. Ngô Thế Vinh. Viet Ecology
Foundation. 12.2017 http://vietecology.org/Article/Article/289
6/ Cửu Long Cạn Dòng
Biển Đông Dậy Sóng. Ngô Thế Vinh, Nxb Văn Nghệ 2000. Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch.
Ngô Thế Vinh, Nxb Văn Nghệ 2006.
No comments:
Post a Comment