Nguyễn
Âu Hồng
Nhà thơ Phạm Cao Hoàng
mười
năm và mười mùa đông
trong
hơi thở có hương nồng em trao
có
tình em rất ngọt ngào
trong
veo như giọt sương đèo Prenn
nồng
nàn như đêm Lâm Viên
như
Đà Lạt với lời nguyền năm xưa
tôi
và em vẫn đi về
trên
con đường có nhiều hoa dã quỳ
có
hò hẹn thuở tình si
có
gian nan có nhiều khi rất buồn
mười
năm và mười mùa đông
người
thi sĩ ấy không còn làm thơ
còn
chăng là tiếng ngựa thồ
thở
khi lên dốc bụi mờ mịt bay
còn
chăng là hai bàn tay
đã
chai sạm với tháng ngày gian nan
còn
chăng là mây lang thang
trên
đồi gió hú bạt ngàn rừng thông
còn
chăng là đêm mênh mông
người
ngồi nhớ một dòng sông cạn rồi
(Người Thi Sĩ Ấy
Không Còn Làm Thơ)
1985
PHẠM
CAO HOÀNG
“mười
năm và mười mùa đông/người thi sĩ ấy không còn làm thơ”, cặp lục bát này gợi lên
điều gì, muốn nói lên điều gì, truyền đi thông điệp gì? Không còn làm thơ! Người
thi sĩ ấy không còn làm thơ! Đây là một câu thơ cung cấp một thông tin giản dị
nhưng không bình thường. Giả như nói, người nông dân ấy không còn cày ruộng,
người thợ nề ấy không còn xây nhà, người vũ nữ ấy không còn đến vũ trường…thì
đó là những thông tin bình thường, như chuyện thường ngày. Nhưng khi nói, nhà
văn ấy không còn viết nữa, nhà thơ kia không còn làm thơ nữa, người nhạc sĩ kia
không còn sáng tác âm nhạc nữa…thì tuy cũng là những thông tin bình thường
nhưng chứa đựng biết bao nỗi niềm. “Tôi không còn viết được nữa!” là một câu
nói quặn lòng. Với người cầm bút, không được viết nó đau đớn lắm. Với thi sĩ,
không được làm thơ nó thao thiết, khắc khoải khôn nguôi. Với những nghệ sĩ đã từng
biết thế nào là hạnh phúc của tự do sáng tạo thì việc tắc nghẽn sáng tác còn
đau đớn, khắc khoải bội phần. Nó trăn trở đến vật vã! Nó khắc khoải đến thổn thức!
Nó như con ngựa thồ mệt đến muốn đứt hơi, thở bụi mờ mịt khi lên dốc.Còn chăng
là tiếng ngựa thồ/thở khi lên dốc bụi mờ mịt bay. Người thi sĩ chẳng còn gì để
làm hành trang ngoài đôi bàn tay chai sạm. Đưa đôi bàn tay chai sạm với tháng
ngày gian nan ấy để mà đỡ một đám mây đang lang thang trên đồi gió hú bạt ngàn
rừng thông, trái tim người thi sĩ đã từng tê buốt đến mức nào! Còn chăng là đôi
bàn ta/đã chai sạm với tháng ngày gian nan/còn chăng là mây lang thang/trên đồi
gió hú bạt ngàn rưng thông. Rồi còn đêm mênh mông, người ngồi với trái tim tê
buốt mà nhớ một dòng sông cạn rồi.Còn chăng là đêm mênh mông/người ngồi nhớ một
dòng sông cạn rồi. Dòng sông cạn mà máu lệ thì như chực ứa ra…
Đem
thơ ra diễn giải là điều chẳng nên, nhưng cứ để trong lòng thì nó ấm ức, bắt buộc
phải nói ra. Thi sĩ Thanh Tâm Tuyền cũng đã từng tự vấn: “Tới lúc tôi phải viết
như không có gì đã xảy ra, như không có gì biến đổi.” Sau một thời gian ông lại
tiếp tục tự vấn, lần này có phần khắc khoải: “Và bây giờ tôi tự nhủ ‘Đến lúc
nào tôi có thể có được điều như vây? Để có thể viết trở lại.” Thực tế cay nghiệt của cuộc sống cho thấy,
nguồn lực sáng tạo một khi đã bị bóp chết, sẽ không bao giờ quay lại. Một đi là
mãi mãi phân lìa…
Thi
sĩ Bùi Giáng đã từng viết về việc thưởng ngoạn thi ca, đại ý, gặp được một bài
thơ hay như gặp gỡ một mỹ nhân, kẻ hào hoa phong tình nên làm thơ tặng nàng,
không “bình” về vẻ đẹp của nàng. Huống chi bình thơ là dập tắt ba đào, là khép
lại chân trời mây trắng. Tôi không làm được thơ, cho phép tôi mượn thơ của Lê Văn Trung, để tặng Phạm Cao Hoàng:
Ta
về tay níu hoài khung cửa
Gọi
xót xa từng nỗi nhớ quên
Gọi
những lòng đi không trở lại
Gọi
những tình xuân đã úa vàng.
Em
giạt về đâu cơn bão dữ
Có
biết ta rã cuộc kiếm tìm
Ai
đã biến ta thành kẻ lạ
Giữa
trái tim người rỉ máu đen
Ta
về tay níu lòng hư ảo
Hụt
giữa bờ đau giấc mộng người
Hụt
giữa trăm năm mùa trăng vỡ
Hụt
giữa đời nhau quá ngậm ngùi
Ta
về như cánh chim bay lạc
Đậu
xuống vườn xưa lạnh tiếng kêu
Ai
bắt đời chim quên giọng hát
Lời
chim rịn máu đỏ mây chiều.
Ta
gọi mà không thành tiếng gọi
Lời
ta chìm nghẹn ở trong long
(Ai
cướp đời ta cả tiếng nói)
Ta
về đây vườn trống nhà không.
Ta
về! Ta níu ta! Một bong
Nghe
gió oan khiên thổi buốt lòng
Đời
nhau? Còn chỉ từng con sóng
Vỗ
mãi về đâu những tiếc thương
Ta
vuốt ve từng ngọn cỏ khô
Từng
viên sỏi vụn, tự bao giờ
Lòng
ta cũng cháy theo mùa hạn
Cõi
người đã khát những cơn mưa.
Lòng
ta cũng cháy theo mùa hạn
Đất
nẻ sâu hằn những nếp nhăn
Ai
vắt khô rồi dòng suối cạn
Và
vắt đời khô giọt lệ bầm.
LÊ
VĂN TRUNG
(ĐỢI
CHỜ ĐẾN CUỐI CUỘC TANG THƯƠNG)
Có
vẻ như cả hai thi nhân cùng nhớ về một dòng sông đã cạn nguồn. Lê Văn Trung cất
lên một tiếng than thắt ruột: “Ai vắt khô rồi dòng suối cạn/và vắt đời khô giọt
lệ bầm.” Phạm Cao Hoàng êm đềm mà tê buốt:
“Còn chăng là đêm mênh mông/người ngồi nhớ một dòng sông cạn rồi”.
Những
dòng suối, dòng sông đã cạn khô ấy bày ra dưới đáy những đất cát, đá sỏi…Mà nào
chỉ có cát sỏi, bên dưới lớp cát bụi tro tàn ấy như còn chất chứa những giọt lệ
bầm và một câu hỏi xé lòng: “NGƯỜI THI SĨ ẤY CÓ CÒN LÀM THƠ?”
Nguyễn Âu Hồng
No comments:
Post a Comment