Nguyễn
Đức Tùng
Nhã Ca & Trần Dạ Từ
Thuở Làm Thơ Yêu em
(tiếp theo)
Trong
giai đoạn sau của miền Nam, chúng ta thấy sự mất cân bằng trong ngôn ngữ thơ thời
ấy. Trần Dạ Từ nhắc đến mặt trời, mùa hè, mùa nắng, bông phượng, con đường, hè
phố, chân tường, sự lấp lánh, và chúng không phải là những vật trang sức mà
chính là linh hồn của thế giới mà ông đi qua, đẹp nhưng sẽ mất. Những hình ảnh ấy
được sắp xếp sao cho chúng làm nổi bật lên nhân dáng khốn khổ của tác giả hay của
bạn bè, cùng giai đoạn. Thơ ông là ánh sáng và bóng tối, ánh sáng của quá khứ
và bóng tối của tương lai. Nỗi trầm tư trong thơ ông không phải là triết lý
siêu hình mà là phản ứng tất nhiên của người trí thức trước một thời đại, là sự
tra vấn của nhà thơ đối với lương tâm mình. Đó là sự chuyển hóa các tình huống
khách quan thành điều kiện tâm lý, là sự lý giải trật tự của đời sống, bằng bước
đi của cá nhân. Lịch sử dân tộc là tập hợp tổng thể các tính cách cá nhân. Là
cuộc huynh đệ thương tàn, sự phá hủy của những giá trị dân tộc.
Tặng cho em cuộc chiến
hung tàn
Trên quê hương của
bao nhiêu bà mẹ
Nơi đồng bào ta ăn
bom đạn thay cơm
Nơi lá chuối khô được
bện làm mũ tang
vẫn không đủ để đội đầu con trẻ
(Tặng
Vật Tỏ Tình)
Nhiều
năm sau, sau cuộc đổi đời của dân tộc, từ trong tù đầy, Trần Dạ Từ viết nhiều
bài thơ mới, như "Hòn Đá Làm Ra Lửa"(3) . Thật ra đây
không phải là lần đầu tiên Trần Dạ Từ phải đi tù và làm thơ trong tù. Thời
1963, Đệ nhất Cộng hoà, ông đi tù trong vài tháng, còn sau 1975, hơn mười hai
năm. Trong năm 1963 ác liệt, ông viết những câu thơ dũng cảm, làm rung động
lòng người:
Nửa đêm nàng bị bịt mắt
dẫn về đó
Chúng tra khảo nàng để
tìm chàng
Nàng bị cặp điện vào
hai tai
bị cặp điện vào vú
Trong khi đó chàng ở
sát cạnh nàng
Ở ngay trong tim nàng
Ở những nơi mình nàng
rõ
(Thơ
Viết Trong Tù 1963)
Tình
yêu là cách nhìn ra bên ngoài, là
cách sống giữa thiên nhiên, nhưng trong thơ ông, đó cũng là nhìn vào bên trong,
sự trở lại, đầy dũng cảm. Tình yêu là trở lại. Làm thế nào để một người có thể
vượt qua thời gian, đi tìm tuổi thanh xuân? Chỉ bằng cách nhìn vào bên trong, sống
lại chính đời sống của mình, kéo dài đời sống ấy. Trước cái đẹp, trước hoài niệm,
trước nỗi buồn, con người trở nên khiêm tốn. Con người khiêm tốn hơn trong t
ình yêu thương. Thì ra khiêm tốn chỉ sinh ra từ sự kính trọng đối với người
khác, và sự kính trọng đối với người khác sinh ra trong một bầu khí quyển tự
do. Sự gắn bó của tâm hồn vào những mất mát làm tăng thương tổn và cùng thời
làm tăng cái đẹp, sự dũng cảm.
Ném lên. Ném lên. Ném
lên nữa
Từng trái bắp. Từng
lát đường
Ném lên. Ném lên. Ném
lên nữa
Từng gói thuốc. Từng
vắt cơm
Ném cả gánh hàng rong
Ném tràn như nước mắt
Ném hết. Ném hết
Ném cho người đi đầy
Tấm lòng Phan Rang.
Tấm lòng. Ôi ViệtNam
(Tấm
Lòng Phan Rang)(4)
Tình
đồng bào.
"Hòn
Đá Làm Ra Lửa" là một bài thơ dài hơn, có thể gọi là trường thi hay trường
ca. Một bài thơ nhân chứng, một bài thơ tình, kiểu khác. Mạnh mẽ, đau xót,
nhưng trầm tĩnh. Giọng điệu của tác giả thay đổi, khi lạnh lùng khách quan, khi
nghĩ ngợi, khi hài hước châm biếm, khi ân cần thương cảm. Cấu trúc của bài thơ
là cấu trúc mở, gồm những mặt phẳng liên tiếp cắt ngang. Lịch sử các nhà thơ
không thể tách rời khỏi lịch sử của những thứ sau đây: một xã hội tự do, một đất
nước chiến tranh, sự sụp đổ, sự đàn áp. Dù vô tình hay với ý thức rõ rệt, các
nhà thơ thuộc thế hệ Trần Dạ Từ tích hợp thể thơ trữ tình cá nhân, bắt nguồn từ
truyền thống lãng mạn tiền chiến nhưng táo bạo đi xa hơn, tách ra, đôi khi như
sự nổi loạn, đôi khi chỉ là sự tiếp tục dấn bước, với một ngôn ngữ trực tiếp,
dũng cảm, rách xé, rời rạc, phẫn nộ, lo âu, có tính chất phê phán, đặc trưng
cho một thời đại tan vỡ.
Khỏi cần sần sùi nữa
Hòn đá cổ sơ đen đúa của ta
Tôi biết chúng ta sẽ ra sao
Bạn bè chúng ta. Kẻ thù chúng ta
Quê hương đẫm lệ và thế giới ngộp khói
Tôi biết chúng ta sẽ gặp nhau thế nào
Trong mắt. Trong cổ. Trong ngực em
Trong mắt. Trong cổ. Trong ngực tôi
Ngọn lửa ta hớn hở, tung tăng
Hòn đá cổ sơ đen đúa của ta
Tôi biết chúng ta sẽ ra sao
Bạn bè chúng ta. Kẻ thù chúng ta
Quê hương đẫm lệ và thế giới ngộp khói
Tôi biết chúng ta sẽ gặp nhau thế nào
Trong mắt. Trong cổ. Trong ngực em
Trong mắt. Trong cổ. Trong ngực tôi
Ngọn lửa ta hớn hở, tung tăng
Tình
yêu là tự do vượt khỏi ràng buộc nghi lễ, truyền thống. Hơn thế nữa, vượt khỏi
những khổ đau bí mật và những bất hạnh bị chính ta đè nén do định kiến và quy ước.
Tình yêu không phải là mục đích tự thân mà là hành trình, và chính trong hành
trình ấy mà tình yêu nảy nở, trở nên bền vững.
Có thể chúng ta sẽ sống
sót. Sẽ trở về
Cùng vuốt ve lại
trang giấy bị vò nát ném bỏ
Cùng bắt đầu lại. Từ
chỗ được bôi xóa
Thơ
chống lại quên lãng. Khả năng quên lãng, khả năng sống trong một xã hội không
có lịch sử, có thể tồn tại ở nhiều người thiếu can đảm và thiếu trung thành với
các nguyên tắc, bọn cơ hội, đầy rẫy dưới những chế độ chính trị khác nhau. Sáng
tạo được sinh ra bởi giây phút mà phẩm chất làm người chiếu sáng nhất, chống lại
hư vô, chống lại bôi xóa, chống lại phản bội lịch sử. Mặc dù không phải là một
nhà thơ có tuyên ngôn trường phái rõ ràng, Trần Dạ Từ thể hiện khuynh hướng hiện
đại từ sớm. Đó là khuynh hướng tin vào sự hiện hữu đương thời, giây phút sáng tạo,
hình mẫu văn hóa, khả năng rời bỏ sự ràng buộc của quá khứ. Một điểm đặc sắc của
thơ Trần Dạ Từ là điểm nhìn của người kể chuyện, chúng thay đổi, từ các phía
khác. Tình yêu cũng là hôn nhân, giữa chồng và vợ qua chiến tranh, tù đầy, hoạn
nạn. Bất kỳ một quan hệ nào cũng sẽ thay đổi qua thời gian, tình yêu cũng thế,
nhưng chính trong thử thách mà chúng lớn lên. Chính là khả năng của một con người
được tái hợp với cái bình thường, sau những năm mất tự do, chính khả năng của họ
chạm tay vào một cánh tay yêu dấu, một cánh cửa quen thuộc, chính khả năng ấy
làm nên ý nghĩa của phẩm giá con người. Trần Dạ Từ có khả năng nhìn vào sự vật,
hòn đá, vật vô tri, sờ lên chúng, cọ sát chúng vào nhau làm phát sáng lửa.
Chỉ có tôi và em cất
giữ
Rời nhau ra. Lặng lẽ.
Dư thừa
Hợp đôi lại, chúng
làm ra lửa
Em
hay người nữ trong thơ Trần Dạ Từ là chủ đề đặc biệt. Trong những bài thơ viết
về sau, người nữ là vợ, là mẹ, là người đàn bà tri âm tri kỷ của tác giả. Tình
yêu là hôn nhân. Hôn nhân là sự mất mát, bất hạnh, chia lìa, nhưng cũng là niềm
tin, cứu rỗi, là cái còn lại sau cùng của ý chí tự do. Như vậy hôn nhân là
thiêng liêng, tình yêu là nơi nương tựa. Nhưng người nữ ấy cũng trôi dạt, long
đong như bao số phận khác, vì vậy đó còn là lo âu. Thơ ông là thơ về nỗi lo âu,
triền miên, ám ảnh.
Tôi không biết giờ
này em ra sao
Có lượm lại đủ lũ con
cái tan tác không
Em có gì để ăn. Cho
chúng ăn
Em làm cách gì để thở.
Cho chúng thở
Em còn chỗ nào để
nương náu, tạm bợ
Trần
Dạ Từ sử dụng một từ vựng không lớn trong các bài thơ tình, nhưng khi chuyển
sang làm thơ thế sự, đặc biệt những bài viết trong tù, ông sử dụng nhiều hơn
các chữ ít dùng trước đó, trần trụi, đời thường, thậm chí gai góc dữ dội. Đen đúa, sần sùi, không đáng một xu, quạ
không thèm mổ, kiến không thèm bu, em đã nhe răng, ăn nhằm gì, rôm rả, nước miếng
ứa, chẳng hề hấn gì là những chữ chúng ta gặp trong thơ ông giai đoạn sau.
Chính sự cần thiết của việc bày tỏ, giao tiếp, của sự mở một cánh cửa mà có việc
sử dụng một ngôn ngữ đời thường đến thế, dân gian, mãnh liệt, hài hước và khinh
mạn, có sự bất cần và phản kháng đến thế. Các nhà thơ tài năng sử dụng ngôn ngữ
trần tục khi cần thiết. Hơn thế, ngoài những nghĩa thông thường có thể tìm thấy
trong từ điển, chữ trong thơ Trần Dạ Từ có ý nghĩa riêng, tạo cảm xúc riêng, hồi
ức riêng, những tham chiếu khác nhau ở người đọc khác nhau. Dù vậy, chữ của ông
không mang lại cảm giác mơ hồ, phân vân (ambiguity) như một số nhà thơ khó đọc
khác. Thơ ông dễ hiểu, khá giản dị, gần như trong sáng, trong nhiều đoạn, nhiều
bài. Nhiều chữ trong thơ có thể giãn nở, nới rộng để bao gồm nghĩa khác cho những
văn cảnh khác. Giọng điệu có tính tuyên bố, biểu hiện, trực tiếp, nhưng vẫn
không thô ráp, đó là nhờ sự tinh tế.
Tôi sẽ sửng sốt nhìn.
Sẽ thật thà mô tả
Cho bạn hữu và kẻ thù
cùng biết
Những hạt cơm tương
lai
Phải cười như thế nào
Trong con mắt háu đói
của nhân loại
Thơ
hy vọng giữ lại giây phút của lịch sử, đóng đinh các số phận lên bức tường ký ức,
làm cho người chết sống lại, làm cho trí tưởng tượng trở thành phương tiện duy
nhất của con người vượt khỏi hoàn cảnh phi nhân. Sự thương tiếc mà thơ ca mang
lại mở ra mối tương thông giữa nhà thơ và thế giới bên ngoài, kéo dài sự sống
sót của một nền văn hóa qua khỏi ngọn lửa bạo động, chống lại hủy diệt, thắp một
ngọn đèn nhỏ bên cửa sổ, cuối đường. Xã hội miền Nam, dưới một chế độ nay đã
hoàn toàn biến mất, ngày ấy trong chiến tranh, đầy những khiếm khuyết, những âm
mưu, những lầm lỗi, vẫn là một nền dân chủ đang hoàn thiện, vẫn là một xã hội
có tính chất dân sự cao nhất cho đến nay, chưa hề được đánh giá một cách công bằng,
thì nay đã được thơ ca nhìn nhận lại.
Phải rồi. Chúng ta có
chung một thành phố
Nơi định mệnh chân
dài của mỗi người đã ngủ
Những cây me Nguyên
Sa canh cửa dịu dàng
Cột điện Thanh Tâm
Tuyền dữ tợn
Quán rượu Mai Thảo,
Phạm Đình Chương
Đêm nguyệt cầm Cung
Tiến.
Thơ
ấy là một loại thơ nhân chứng được viết trong hoàn cảnh bi đát, cá nhân, trực
tiếp, với góc nhìn cận cảnh, với ngôn ngữ giản dị và mỉa mai, tự tin và ngậm
ngùi, trong một ý thức sáng rõ mà dịu dàng. Nếu so sánh thơ viết sau này với những
bài thơ trước đó, Trần Dạ Từ là một trong những người viết thực sự thay đổi bút
pháp. Nếu Thanh Tâm Tuyền từ sở trường thơ tự do trở lại với thơ cổ điển có vần,
chẳng hạn, thì Trần Dạ Từ thay đổi theo hướng ngược lại, những bài thơ trong tù
một số lớn được viết dưới thể tự do, hoặc có vần nhưng âm điệu phóng khoáng. Sự
va đập dữ dội của hiện thực, sự tan vỡ của những niềm hi vọng vào một tương lai
tự do, sự đàn áp, săn đuổi, để lại dấu ấn rất sâu trong thơ Trần Dạ Từ. Khác với
nền thơ có phần hư vô, chán nản, ít chịu trách nhiệm trước đây ở miền Nam, thơ
ông sau này là tiếng nói dõng dạc, kẻ đứng thật trên đôi chân của mình trước
dông bão. Trong tiếng gào thét của xã hội mới, giọng nói nhỏ nhẹ, quyết liệt
nhưng hóm hỉnh của ông vang lên như sự từ chối thua cuộc, sự thản nhiên bất khuất,
trong một ngôn ngữ dửng dưng mà xúc động, nén lại.
Chúng ta có chung một
thời đại
Con đường tình ngoằn
ngoèo của Phạm Duy
Khu rừng lau mênh mông
của Doãn Quốc Sĩ
Mụ đế quốc khốn khổ của
Võ Phiến
Những khuôn mặt dị dạng
trong thế giới của Choé
Trong
chiến tranh, chúng ta mơ hòa bình; trong cảnh tù đầy, chúng ta sẽ mơ tự do.
Nhưng trong cả chiến tranh và hòa bình, trong cả tù đầy và tự do, người nghệ sĩ
đều phải nghĩ đến nhân phẩm.
Không thứ cờ quạt nào
vấy nhơ nổi bầu trời
Không thứ chủ nghĩa
nào bôi bẩn được trí nhớ
Đồi núi và em mặc
chung áo nắng vàng
Suối nước và em đi
chung từng bước chân
Giản dị như ngày nào,
em tới
Chúng ta dễ dàng nhận ra nhau
Và nụ cười em rì rào cùng cỏ cây mặt đất:
“À. Anh ấy nằm đây
Phải vậy chớ
Anh ấy vẫn giữ nó
Hòn đá làm ra lửa.”
"Hòn
đá làm ra lửa" vừa là câu chuyện kể, có mở đầu và kết thúc, có những diễn
tiến phù hợp với tiểu sử tác giả, vừa là sự phản kháng đối với các ảo tưởng,
nhưng đó cũng là một bài thơ trữ tình. Mối quan tâm của nó là sự hành hạ đối với
con người, các chủ nghĩa mê tín, sự vượt qua chúng, không những bằng lòng dũng
cảm mà còn bằng tình yêu, không những bằng sự phản kháng mà còn bằng lòng tin.
Tôi nghĩ rằng lòng tin là ý tưởng cốt lõi của toàn bộ tác phẩm này. Lòng tin
vào điều gì? Vào nhân cách, vào giá trị nhân loại, lòng tin vào một nửa đất nước
tự do, thật ra là giấc mơ cao nhất của tất cả người Việt, dù họ ý thức được điều
đó hay không, đã bị đánh bại trong chiến tranh, vào một xã hội được hướng dẫn bởi
công lý, vào lý tưởng hay sự tìm kiếm lý tưởng của thế hệ mình. Bài thơ nói về
tình yêu, lòng chung thủy, tính dũng cảm, sự điềm tĩnh với chút bùi ngùi, và sự
thèm khát đoàn tụ, của kẻ phải đi qua những ngày đen tối. Cấu trúc của bài thơ
là một cấu trúc khó định hình, vì dựa vào các hình ảnh và ý tưởng đầy cảm hứng,
chúng là dịp để bày tỏ các quan niệm về đời sống và về chính trị, nhưng chúng
hiện hữu trước hết như những hình ảnh và ngôn ngữ thơ ca. Bài thơ "Hòn đá
làm ra lửa" vận động như một cấu trúc trầm tư và mô tả. Bài thơ tập trung
vào các chi tiết cụ thể, ngắn gọn, có thật, trong những đoạn thơ đặc biệt, sự
mô tả ấy chuyển thành những suy nghĩ triết lý, sự phản kháng, tiếng cười và tiếng
khóc thầm lặng lẽ, xao xuyến trước cuộc đời bất trắc và lòng tin vững mạnh vào
giá trị của một truyền thống xã hội đã mất.Trần Dạ Từ chưa bao giờ tỏ ra nghi
ngờ sức mạnh của ngôn ngữ như một số nhà thơ sau này. Nỗi băn khoăn có tính triết
học ấy ít xảy ra trong một xã hội đầy biến động khi ngôn ngữ hiển nhiên trở
thành phương tiện quan trọng và cuối cùng của việc gìn giữ các niềm tin và truyền
đi những giá trị cao quý. Kẻ sống sót sau chiến tranh vừa cảm thấy có lỗi với
người đã mất, bạn bè mình, đồng thời tự mang thêm trách nhiệm của những người ấy
trên vai, trong cuộc hành trình đi qua cái chết.
Có thể sẽ không còn.
Cũng chẳng mất đi đâu
Dòng chảy nào không
thẩm thấu, không bốc hơi
Có thể chúng ta vẫn
quân quất đâu đó
Như bọt nước tung tóe
reo vui
Nơi này. Nơi kia
Trong bước đi bất tận
của dòng suối sinh nở
Khác
với các nhà thơ hậu Auschwitz của châu Âu như Samuel Beckett, các nhà thơ Việt
Nam thời kỳ sau này có nhiều niềm tin hơn vào khả năng bày tỏ và giao tiếp của
thơ ca. Rõ ràng là trong một bối cảnh kinh hoàng không kém, hỗn loạn không kém,
vì nhiều lý do, các nhà thơ ấy tin rằng họ có thể vượt qua thời đại khó khăn mà
không gục ngã, bằng sự can đảm của người tin vào các giá trị mà họ bảo vệ. Tôi
cho rằng chính niềm tin ấy trực tiếp dẫn họ đến niềm tin vào ngôn ngữ, hiện tượng
ít tra vấn đối với nó.
Cánh cửa bứt khỏi cổng.
Nhà bứt khỏi người
Trang giấy bứt khỏi mặt
bàn
Chữ nghĩa bứt khỏi
sách
Đó
là hoàn cảnh bên ngoài chống lại ngôn ngữ. Đó là sự truy vấn hiện thực, một hiện
thực không bình thường. Mặc dù hình như Trần Dạ Từ chỉ nói về những điều ông biết,
sống với chúng, đã nghiền ngẫm chúng, như tình yêu thời trẻ và năm tháng tù đầy,
sự thật của chúng không phải là không có gì để bàn cãi nữa. Sự hoang dã của điều
kiện sống trong nhà tù và điều kiện xã hội bên ngoài, đặc biệt những năm bảy
mươi tám mươi thế kỷ trước, là chống lại văn hóa dân tộc. Niềm hy vọng của tác
giả trong bài thơ "Hòn đá làm ra lửa" có phải là một ảo tưởng không?
Có phải những năm tháng tù đầy sẽ chấm dứt và tự do sẽ xuất hiện. Có phải sự
đoàn tụ của hai người yêu nhau sẽ làm nên một ngày mới, có phải sự kết hợp giữa
hai hòn đá sẽ làm ra lửa. Có phải đó là niềm lạc quan không thực tế? Ngày nay
nhìn lại sau chừng ấy năm, người đọc có thể nghĩ thế, và họ có thể đúng. Nhưng
vào khoảnh khắc ấy của lịch sử, niềm hy vọng ấy không phải chỉ là hy vọng. Đó
là khả năng sống sót của một nạn nhân, nhờ thế người tù ấy có thể bước qua mặt
đất bùn lầy, giúp họ ngẩng đầu lên trong buổi sáng tháng Giêng.
Tôi biết bạn bè chúng
ta, kẻ thù chúng ta
Quê hương đẫm lệ và
thế giới ngộp khói của chúng ta sẽ ra sao
Tôi biết chúng ta sẽ
gặp nhau thế nào
Trong mắt. Trong cổ.
Trong ngực em
Trong mắt. Trong cổ.
Trong ngực tôi
Tôi nghe nó thì thầm
"Chẳng hề hấn
gì. Chẳng hề hấn gì"
Và tôi mỉm cười
Thư thái hình ảnh em
bước tới
Thơ
Trần Dạ Từ, như thế, là một tình yêu tự ý thức. Tình yêu thực sự bao giờ cũng
ngây thơ, gần như tuổi trẻ, xúc cảm, bồng bột, mạnh mẽ, điên cuồng, ít tự ý thức.
Nhưng đến một lúc nào, bỗng dưng mọi chuyện trở thành giản dị trước mặt bạn,
như chân trời mở ra sau một khúc quanh. Bạn vẫn còn dũng cảm và liều lĩnh,
nhưng bạn hiểu được giới hạn của mình. Thi sĩ hiểu rằng giữa tình yêu và cuộc đời,
giữa trái tim và hiện thực, nhiều khi có những sự thật khác. Bao giờ cũng có một
khoảng cách. Phương pháp của Trần Dạ Từ là sử dụng các vần điệu cổ điển, thậm
chí các hình ảnh cũng không mới, để nói về một tình cảm rất mới. Tình yêu thì
có gì mới? Nhân loại ngàn đời vẫn yêu nhau như thế. Nhưng thi sĩ không cần biết
điều ấy. Thật khó khăn để tự nhìn lại mình. Một bài thơ tự nhìn lại mình khi phải
đi xa một quãng, giữ được khoảng cách với đối tượng của nó. Thơ trong tù của Trần
Dạ Từ đóng góp vào dòng thơ lừng lẫy của những tù nhân lương tâm: Vũ Hoàng
Chương, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Nguyễn Chí Thiện, Cung Trầm Tưởng, Trần Dạ
Từ, Hoàng Hưng, Hà Thúc Sinh. Những bài thơ nổi bật của ông: Thơ mừng sinh nhật
Nhã 83, Chôn bạn ngày mưa, Hòn đá làm ra lửa. Giai đoạn ở tù, và sau đó nữa,
bài thơ Hòn Đá Làm Ra Lửa dài như trường ca, dữ dội, huyền ảo, phát sáng. Bài
thơ đứng vững chãi như tư cách của người tù lương tâm. Đi qua một xã hội chiến
tranh, những ngày mất tự do và bị hành hạ, cuộc sống lưu vong, những gánh nặng,
bài thơ như một người ngồi bên kia đường trong một quán cà phê tồi tàn, ở một
góc tối mà bạn không nhìn rõ vì bạn ở ngoài mới bước vào, nhưng định thần lại bạn
có thể nhìn thấy. Như vậy sức mạnh của bài thơ nằm ở sự chuyển hóa, ở khả năng
thay đổi, sự phức tạp của hình ảnh, của ngôn ngữ, của thông điệp, sự phức tạp ấy
đã từng làm hỏng nhiều bài thơ của các tác giả khác nhau và ngay cả những người
viết tài năng cũng bị nó dẫn đi lạc đường, đã trở thành quyền lực của ngôn ngữ
trong trường hợp "Hòn đá làm ra lửa". Đó là một bài thơ vừa độc thoại
vừa đối thoại, vừa trữ tình vừa có tính kịch, nhiều mô tả mà vẫn đi giữa thức
điệu trầm tư sâu lắng. Từ ngữ phóng khoáng mà chặt chẽ, phép tu từ khéo léo ẩn
kín. Cấu trúc thoáng đãng, nửa như một bài hành, nửa như một trường ca, đi dọc
xương sống thời gian, quay vòng trở lại, với điệp khúc, các hình ảnh lặp lại,
như xáo trộn của ký ức đối với người khác. Người khác đối với ta không phải là
địa ngục. Người khác đối với ta là chú tâm, là hy vọng, là ý nghĩa. Cũng như
trong tình yêu, chỉ sự hiện diện đã làm đầy tất cả. Sự gần gũi, tin tưởng, sự
không phân biệt giữa một người đem lòng yêu người khác và một người được yêu
thương, sự đồng nhất ấy là cao quý trong những quan hệ giữa người và người. Thơ làm xúc động người đọc không chỉ bằng
kêu gọi, thương khóc, hay bày tỏ thái độ, nước mắt, sự kêu ca, thậm chí, căm giận
lộ rõ. Tất nhiên không phải bao giờ Trần Dạ Từ cũng được thế, trong một số bài
thơ, một số đoạn thơ, ông vẫn không giữ được bình tĩnh đối với kẻ thù. Nhiều
người cũng có nhược điểm ấy, họ quên mất rằng trong các tranh luận lịch sử, dù
trong văn chương hay các cuộc bầu cử, trong khi chúng ta giận dữ thì kẻ thù
bình tĩnh. Mục đích của tranh luận không phải là kẻ đối diện, mục đích của nó
là khán giả. Thật ra cũng chính bằng cảm xúc dữ dội mà ông viết được những câu
thơ ít người viết được trong hoàn cảnh khốn khổ, ở vị trí cao hơn hẳn so với tội
ác.
Chiến tranh. Cách mạng.
Ngày hội của quần chúng
Tội nghiệp. Họ được dạy
dỗ thế
Tội nghiệp. Họ tin sống
tin chết như thế
Đó
gần như là sự ngạo nghễ. Nhưng trước đó nhà thơ cũng đã có lúc nói:
Tôi quên nói với em điều
này:
Tôi yêu em đến mức có
thể yêu luôn
những người đang gọi chúng ta là kẻ
thù
Hòn
đá bình thường mà kỳ dị kia chính là một nhân vật, nhân vật thứ ba của bài thơ
tình. Trong bài thơ dài ấy còn có nhiều người khác.
Nguyễn. Và Nguyễn. Và
Nguyễn nữa. Sắp chết
Sẽ đến lượt Lưu. Đến
lượt Lê. Đến lượt Doãn
Có thể sẽ không còn
chúng ta
Câu
thơ bi đát, lớn lao. Có thể sẽ không còn chúng ta, người trí thức tự do. Tinh
hoa của dân tộc. Điều ấy thật đáng sợ. Sự mất mát, thua cuộc, sự sụp đổ của một
nửa đất nước, sự tan vỡ của những hạnh phúc, sau những thứ ấy con người sống thế
nào? Bằng lòng tri ân không ngớt đối với cuộc đời, sự giữ gìn cẩn thận các giá
trị văn hóa. Lòng tự trọng, kiên nhẫn lặng
lẽ, sự trầm tư, cảm giác vững chãi khi đặt chân lên mặt đất, cảm giác thuộc về.
Và lòng tin, bao dung, có cái cười mỉm rất lặng lẽ.
Lửa và khói. Hạnh phúc và lỗi lầm
Chúng ta đã bứt ra khỏi nhau
Em mất tích. Em kiệt sức. Em một mình
Thật quá nặng cho em
Làm sao em thở
Chúng ta đã bứt ra khỏi nhau
Em mất tích. Em kiệt sức. Em một mình
Thật quá nặng cho em
Làm sao em thở
Trong
một thời đại như hôm nay, thơ ca hoặc là lạc đường hoặc là tìm lại được sứ mệnh
của nó, ngôn ngữ hoặc là bị xé nát, bị lạm dụng, bị biến đổi hoặc là tìm thấy sức
mạnh lớn nhất của nó, khả năng chia sẻ.
Lòng ta ở với người
Dù thân ta đầy ải
Dù sức ta đĩa dầu vơi
Vẫn sáng lên một lời
Lời ta ở với người
Bài
thơ này được tác giả phổ nhạc. Trần Dạ Từ là một nghệ sĩ đa năng: làm báo, làm
thơ, viết nhạc. Là tác giả của nhiều ca khúc. Nhờ những người như ông, thơ và
nhạc nắm tay nhau như hai tri kỷ.
Chàng thi sĩ ngu ngơ
Và năm tháng bơ vơ
Bờ nắng bờ mưa
Mẹ già khô héo
Nợ nần kêu réo
Ân oán mè nheo
Xương máu hò reo
Bạn
hãy nghe "Gọi Tên Dòng Sông"(5). Khi tôi nghe Tuấn Ngọc
hát bài này, hay Quang Tuấn, trong một bài khác, tôi nhận ra sức mạnh của âm nhạc,
của âm thanh, của sự hiện diện của người khác. Nhân đây, cần nói thêm rằng khi
ca từ đạt đến đỉnh cao của vẻ đẹp ngôn ngữ, chúng tựa như thơ. Chính vì vậy mà nhiều người nghĩ lầm rằng ca từ cũng là
thơ, nhưng thật ra, tuy có nhiều điểm tương đồng, chúng vẫn khác nhau. Thơ là
ngôn ngữ trên nền trắng im lặng. Ca từ, hay lời của ca khúc, là ngôn ngữ trên nền
của âm thanh. Chính các giai điệu, các nhạc cụ, cấu trúc thính phòng, không
gian, khán giả...tạo ra hậu cảnh hay môi trường của ca khúc. Như vậy, thơ không
cần môi trường, ca khúc cần môi trường. Mặt khác, như thi sĩ Hayden Carruth (6)
nói: lịch sử thực sự của văn học là lịch sử của tình yêu. Ngôn ngữ, cũng như âm
nhạc, không làm thay đổi lịch sử, nhưng có thể thay đổi cái nhìn của chúng ta đối
với nó. Xuyên suốt nhiều năm, mặc dù với số lượng tác phẩm không lớn, Trần Dạ Từ
thường xuyên trở lại với những ưu tư về thế sự, nỗi lo âu đối với đời sống và
xã hội cùng thời, những tra vấn có tính triết học đối với số phận cá nhân,
không ngừng trở lại với tình yêu và phẩm chất của nó, sự vui thú, chia sẻ, sự
hy sinh. Ngôn ngữ thơ ngắn gọn, nhiều động từ, nghĩa cụ thể, nặng về mô tả, giọng
thản nhiên, hài hước, có chút bi phẫn nhưng không cay đắng, là một câu chuyện kể
có thứ tự trước sau với những mảnh rời xếp chồng lên nhau. Đó là câu chuyện của
hai người yêu nhau, của vợ và chồng hay tình nhân, sự chia tay nhưng không đổ vỡ,
sự xa cách nhưng gắn bó, sự mất mát nhưng vẫn sở hữu. Sự thua trận nhưng vững
vàng, lòng tin vào chiến thắng cuối cùng của lương tâm. Cấu trúc của một bài
thơ hay thường có những điểm uốn về tư duy hoặc giọng điệu, đôi khi những bước
ngoặt. Điều này thấy rõ hơn trong những bài thơ dài, trường ca, nhưng cũng có
thể xuất hiện ở những bài thơ ngắn khác. Nhân vật trong bài thơ Hòn đá làm ra lửa
có thể xem là tác giả. Hoàn cảnh và điều kiện của nhân vật ấy, trong tù đầy,
dành một không gian cho riêng mình, một lãnh thổ của tự chủ, nhẫn nại, lòng yêu
đời, như cánh cửa đêm đêm vẫn mở lòng ra hít thở khí trời.
Không hề từ mặt trời
từ gió nồm
Chính từ lửa chung của
đôi ta
Những cành phượng chụm
đầu bốc cháy
Lợp đỏ một mùa hè
ngây dại
Thơ
trữ tình còn là nhận thức, triết lý về xã hội. Trong hầu hết các bài thơ của Trần
Dạ Từ, có những khúc quanh, đưa người đọc từ chỗ tối ra chỗ sáng, hoặc ngược lại
từ sự mất mát đến hoài niệm, từ cái chết đến hy vọng, từ trạng thái an toàn,
hòa bình tạm thời đến chiến tranh. Thơ ông có một nhịp điệu âm nhạc giấu kín, bề
ngoài phóng túng mà bên trong chặt chẽ. Tôi chưa thấy ai viết về một thành phố,
Sài Gòn phải không, văn xuôi mà nhiều nhạc tính như thế này.
Chớp mắt. Thấy mình
có trong nhau
Mở cửa. Thấy anh em đông đủ
Bắt tay, chào hỏi. Thấy thành phố
Bước đi, trò truyện. Thấy quê hương
Hất mặt, vươn vai. Thấy bầu trời
Hít hà. Thấy thời đại mình thở
Phải rồi. Chúng ta có chung một thành phố
Mở cửa. Thấy anh em đông đủ
Bắt tay, chào hỏi. Thấy thành phố
Bước đi, trò truyện. Thấy quê hương
Hất mặt, vươn vai. Thấy bầu trời
Hít hà. Thấy thời đại mình thở
Phải rồi. Chúng ta có chung một thành phố
Nhạc
tính ẩn kín ấy là niềm lạc quan, tình yêu đời sống, niềm tin vào con người,
vang mãi trong ngôn ngữ của Trần Dạ Từ năm này qua năm khác, như vốn quý mà dân
tộc ký truyền lại. Giọng điệu ấy là độc thoại, trữ tình, nhưng vẫn có tính đối
thoại, giao tiếp, tính kịch. Một người muốn chia sẻ, trước hết phải khiêm tốn
và mạnh mẽ, nhẫn nhục và khoan thứ, và ấm áp.
Sự
nhẹ nhõm tự nhiên trong việc chọn chữ làm cho sự giản dị trở thành cái đẹp tự
nó, và hình ảnh sắc bén và giàu có, ý tưởng rõ ràng, và có cả một nhân cách đứng
đằng sau những bài thơ viết trong ngày khó khăn của đời mình, tất cả những thứ ấy
đã làm ông trở thành một trong những nhà thơ nhân chứng quan trọng của thời thế
hôm nay, của tình yêu hôm nay.
Đêm biếc cành soan,
thơm giấc mơ
Đầu hiên hoa trắng nở bao giờ
Em mười sáu tuổi trăng mười sáu
Áo lụa phơi buồn sân gió xưa
Đầu hiên hoa trắng nở bao giờ
Em mười sáu tuổi trăng mười sáu
Áo lụa phơi buồn sân gió xưa
Kể
từ những bài thơ tình đầu đời, được nhiều người yêu mến, trong một không gian hạnh
phúc, những ngày dậy thì của miền Nam, đến những bài thơ thế sự đa đoan của
giai đoạn chiến tranh khốc liệt, đến những bài thơ viết trong tù và sau đó,
trong hoàn cảnh nhiễu nhương, thơ Trần Dạ Từ cốt lõi vẫn là thơ tình, là lòng
say mê đắm đuối đối với cái đẹp và lương thiện, là lời ca hát không ngừng của hạnh
phúc đôi lứa, thanh sạch vững vàng.
Của
một buổi sáng tháng Giêng rực rỡ.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Tháng 4 năm 2018
(trong
chuỗi bài Đọc Thơ, bài 13)
Chú
thích:
(1) Trích đoạn chú
thích của nhà thơ Trần Dạ Từ: Tỏ Tình Trong Đêm, xuất bản bởi Tạp chí Tiếng
Nói, Sàigòn 1965. Sau khi phát hành, tập
thơ bị thu hồi giấy phép xuất bản vì lý do “vi phạm sự kiểm duyệt”, sách bị tịch
thu. Một số thơ trong tập được chuyển sang Anh ngữ và phổ biến tại Hoa Kỳ thời
cuối thập niên 60’ bởi Giáo sư Huỳnh Sanh Thông tại Đại Học Yale và một số dịch
giả khác. Các bản dịch Anh ngữ của Huỳnh Sanh Thông được in lại trong “An Anthology of Vietnamese Poems: from the
Eleventh through the Twentieth Centuries” do Yale University Press
xuất bản năm 1996. Bản thảo được đánh máy lại
từ ấn bản đầu tiên do một thân hữu tại Pháp còn giữ trao cho tác giả năm
1991. Một số câu, đoạn thơ từng bị sai lạc khi phổ biến dưới sự kiểm duyệt
được chỉnh sửa lại theo trí nhớ.
(2) Tập thứ hai này
được Giải thưởng văn chương toàn quốc năm 1971 - 1972. Trang đầu tiên của tập thơ ghi: Thuở Làm Thơ Yêu Em, Phổ nhạc: Cung Tiến, Phạm
Đình Chương, Phạm Duy, Bìa và minh họa : Nguyễn Trung, NXB Thương Yêu 1971.
Từ 1971 tới 1975,
sách ba lần được tái bản.
Bài tiểu luận này khởi
đầu từ thơ Trần Dạ Từ trong tập ấy.
(3) Hòn Đá Làm Ra Lửa
(chú thích của tác giả, bản gốc): Trại tù Gia Trung-Hàm Tân, Vietnam 1979 –
1988. Viết thành chữ lần đầu tại Thụy Điển, tháng 11, 1988.
(4) Chú thích củaTrần Dạ Từ cho "Tấm Lòng
Phan Rang". - Ở đầu bài: "Nơi đoàn xe chở tù đi lưu đày phải ngừng đổ
xăng, vào buổi trưa ngày 30 tháng 8 năm 1977" - Ở cuối bài: "Ca khúc
Trần Dạ Từ 1978. Thu thanh lần đầu:
Nguyên Khang, trong CD 2015, “Thương Linh: Bay”. Trình diễn lần đầu: Lê Uyên . Segerstrom Center for the Arts.
Costa Mesa, California, May 30, 2015"
(5) Ca khúc "Gọi
Tên Dòng Sông"
Trình diễn lần đầu:
Tuấn Ngọc, Segerstrom Center for the Arts. Costa Mesa, California, May 30,
2015.
Trước 1975, tại
Saigon Trần Dạ Từ từng nhiều năm chủ trương Tuần báo nghệ thuật "Truyền
thanh và truyền hình," đồng thời là nhà sản xuất chương trình âm nhạc cho
Đài phát thanh. Qua những năm tù
đày, những bài thơ ngắn khác được ông phổ
nhạc thành "bài hát thơ" theo
nghĩa như cặp đôi từng được mô tả trong kinh Vệ Đà "Anh là bài hát / Em là
câu thơ".
(6) "the real
history of literature is the history of love", ghi theo trí nhớ của người
viết.
Tài liệu tham khảo:
* Cám ơn nhà thơ Trần
Dạ Từ đã cung cấp những văn bản chính xác, kèm các chú thích, mà người viết đã
dùng để trích đăng thơ và đưa vào chú thích trong tiểu luận này. NĐT.
* Đỗ Quý Toàn, Tìm
thơ trong tiếng nói, NXB Thanh Văn, 1992
* Caroline Forché,
Against Forgetting, NXB Norton, 1993
* Thi Vũ, Bốn mươi
năm thơ Việt Nam, 1945-1985, NXB Quê mẹ,
Paris 1993
* Hanna Segal,
Psychoanalysis, Literature and War, NXB Routledge, London, 1997
* David Constantine,
A Living Language, NXB Bloodaxe, 2004
No comments:
Post a Comment