Nguyễn
Đức Tùng
Ý Nhi. Tuyển tập
Thơ Ý Nhi sinh ra từ sự cần thiết. Sức hấp
dẫn của ngôn ngữ thơ của chị trước hết không nằm trong bản thân nó mà nằm trong
chúng ta, người đọc. Tính hấp dẫn ấy xảy ra khi trong bạn có một nhu cầu, sự
khao khát lặng lẽ, cánh cửa muốn được mở. Bài thơ giúp bạn đi tìm sự thật mà bạn
chưa hề đánh mất. Sự chọn lựa giữa một bên là nhiệm vụ đối với xã hội, sự có
ích của thơ ca, và một bên là vui thú riêng của ngôn ngữ, trẻ thơ, không mục
đích, bao giờ cũng là lựa chọn khó khăn của người viết
Tôi cầm những đồng tiền
lẻ
Như nhà thơ cầm giữ từ
ngữ
Những đồng tiền nhàu
nát
Như những từ ngữ đã
được dùng bao thế kỷ
Đồng tiền là ẩn dụ của chữ, chúng vừa giữ
nguyên giá trị trao đổi vừa thay đổi, nhàu nát. Câu thơ ngắn, lối so sánh thích
hợp, vật thể, không trừu tượng, như chính đời sống ngoài kia, vui buồn, cỏ cây,
thời tiết, chiến tranh, lầm lỗi. Đó là một hiện thực vừa được chiếu sáng vừa được
đánh giá lại. Đọc bằng phương cách thích hợp, đoạn thơ kín đáo ấy vang lên như
một câu chuyện kể hay giai thoại. Giai thoại cũng là phương pháp để biến gian
khổ thành niềm vui từng trải, giúp con người vượt qua sự giam cầm của cái cũ.
Giữa bao nhiêu mưa nắng
đời thường
Đã có lúc lòng con hờ
hững
Thấy hạnh phúc của
riêng mình quá lớn
Ngỡ chỉ mình đau đớn
xót xa thôi
Giữa bao nhiêu năm
tháng ngược xuôi
Đã có lúc lòng con
đơn bạc
Quên cả những điều tưởng
không sao quên được
Như người no quên cơn
đói của chính mình
Khác với tình yêu nam nữ, mối quan hệ giữa
con cái và cha mẹ không phải là quan hệ bình đẳng, một người cần chăm sóc, một
người mang lại sự chăm sóc ấy. Tuy nhiên khi người con lớn lên, thân sinh già yếu,
quan hệ từ từ đổi chiều. Mối quan hệ giữa
mẹ và con gái còn phức tạp hơn nữa, nhiều kỳ vọng và xung đột. Chính sự cách xa
giữa mẹ và con là dấu hiệu của trưởng thành, không những của người con mà còn của
các mối quan hệ. Trong các mối quan hệ, chúng ta chôn vùi giấc mơ của mình, lỗi
lầm của mình, mới đầu vì người khác, về sau chính chúng ta cũng không nhìn thấy:
Xin anh
trong niềm vui
nhớ đến em
Xin anh
trong nỗi buồn
chia sẻ cùng em
Xin anh
mãi như em đã gặp
đã yêu
đã luôn chờ đợi
Xin anh
hãy yêu
và tha thứ
Sự ngây thơ làm bạn tự do, sự vô tội làm
bạn thanh thản. Nếu chúng ta tin tưởng một điều gì, điều ấy phải biến thành thực
tế, nếu chúng ta không tin tưởng một điều gì, điều ấy không thể xảy ra; mối
quan hệ giữa con người và lịch sử là tấm gương phản ánh niềm tin hay sự chống lại
niềm tin của họ. Thơ hay, một lúc nào đó sẽ trở nên có ích, mặc dù nó không định
thế, vì chạm vào cốt lõi của kinh nghiệm cá nhân. Một bài thơ thành công là sự
tràn ngập ra ngoài biên giới của sự vật, như một tách nước được đổ đầy sắp tràn
ra ngoài nhưng không tràn ra nhờ sức căng bề mặt.
Xin anh giữ lòng trắng
trong, thơ nhỏ
sự can trường của kẻ
đã phong sương
để cùng em đi hết một
con đường
Lời nhắn nhủ. Ước vọng yên bình trong thơ
Ý Nhi là thái độ của tâm hồn trước chiến tranh, và lời cầu nguyện của chị là
khuôn mặt khác của lo âu. Lịch sử của lo âu là lịch sử của người vợ, người mẹ,
người phụ nữ.
Thơ Ý Nhi giản dị nhưng không dễ hiểu.
Chị thường chọn những tình tiết không ồn ào, khó nhìn, ở thời điểm đặc biệt chỉ
tác giả mới nhận ra và kịp dùng ngôn ngữ chuẩn xác. Tôi không có ý nói rằng bài
thơ nào của chị cũng được chuẩn bị kỹ, như thể bạn đã có sẵn nội dung, chỉ chờ
cơ hội là viết xuống. Bất kỳ một quá trình sáng tác nào cũng làm biến đổi ý định
ban đầu. Có một dòng năng lượng trong bài thơ sau đây chảy xuyên qua trang
sách, như con sông đổ xuống từ trên cao, chảy giữa hai bờ mà vẫn tự do.
Tàu ngập ngừng trước
ga lẻ rồi đi
Gió thổi hút qua hàng
xoan không lá
Mưa tê buốt bàn tay
ngoài cửa sổ
Làng giữa đồng im vắng
đã từ lâu.
Có gì đâu nào có gì
đâu
Để em biết ngày mai rồi
xuân đến?
Chỉ mắt anh nhìn nơi
đầu ga đưa tiễn
Nói cùng em, cùng em.
Bạn đọc lần nữa. Chữ hơi cũ. Nhưng bạn
nhìn nó nhiều lần, đọc nhiều lần, sẽ thấy nhiều cách nghĩ về nó, như tấm gương
phản chiếu nhiều ngã đường, hiện thực kể lại nhiều sự thật. Mặc dù xuất thân từ
khuynh hướng tả thực ở miền Bắc thời ấy, thơ Ý Nhi bắt đầu pha trộn những yếu tố
lãng mạn cá nhân và khuynh hướng hiện đại. Chủ nghĩa hiện đại nhấn mạnh đến tiến
hóa, đặt lòng tin vào sự phát triển và vào sự chọn lựa giữa cái ưu tiên và cái
không ưu tiên. Mặt khác, Ý Nhi là một nhà thơ thành thị, dù có thể nhiều năm chị
đã ở nông thôn. Đời sống thành thị vừa nuôi dưỡng tâm hồn thơ ca Việt Nam vừa đẩy
các nhà thơ về phía hiện đại. Nhà thơ như một đứa trẻ bắt đầu lớn khôn, đủ lớn
để biết tất cả mọi chuyện, nhưng lại không đủ lớn để hiểu tại sao bi kịch diễn
ra như thế và bằng cách nào con người có thể tránh chúng: chiến tranh, chia
tay, tình yêu tan vỡ, thất vọng, phản bội. Bài thơ của Ý Nhi vì vậy đều ít nhiều
có tính dang dở. Có lẽ chị tin rằng văn chương có thể làm thay đổi cuộc sống.
Chủ nghĩa hiện đại tin tưởng vào lương tri của xã hội, tin rằng có một chân lý
phổ biến. Tuy vậy chủ nghĩa hiện đại cũng thay đổi, đã từng bị thay thế bởi chủ
nghĩa hậu hiện đại, rồi quay trở lại với sức sống mới. Hầu hết chúng ta đều thực
sự muốn sống vì những nhu cầu sâu xa của mình thay vì sống theo quy ước trong
công việc, sở thích. Sau những bài thơ có vần, cũng như nhiều người khác, Ý Nhi
nghiêng về thơ tự do, là một hình thức mang đậm tính cá nhân. Một cá nhân chịu
trách nhiệm, khiêm tốn mà kiêu hãnh:
Không ai có thể làm
anh sáng chói
không ai khiến anh lu
mờ
anh tự mình
rực rỡ hay tàn lụi
Khi chúng ta tự đồng nhất với một tập thể,
một hệ tư tưởng, chúng ta để mặc cho bản ngã hướng về mục đích ngoài chính nó.
Chúng ta có thể hy sinh cho người khác, cho những nghĩa vụ, nhưng con người
không đồng nhất mình với nhiệm vụ và với người khác. Thơ hiện nay không hàm chứa
nhiều ý định, không dùng nhiều lời tác giả. Ý Nhi là một trường hợp ít dùng lời
tác giả. Một bài thơ thực sự mang lại trong khoảnh khắc nhiều năm tháng, mang lại
trong một ngắt câu hay xuống dòng, điểm uốn của cuộc đời, bão táp của số phận.
Khi số phận thay đổi, nội dung thay đổi; khi một dân tộc thăng hoa hay tàn tạ,
trong chiến tranh mà thăng hoa, trong hòa bình mà tàn tạ, số phận của cá nhân
phải được nhìn thấy trong tấm gương của dân tộc. Bài thơ đi tìm nhu cầu của nó ở
người đọc, không những thế, nó sản sinh ra nhu cầu ấy: trước khi có bài thơ,
người đọc không có nhu cầu ấy. Trước khi có tự do cá nhân, nhiều người đã không
biết đến tự do.
Không phải niềm vui
Không phải nỗi buồn
Không phải hạnh phúc
Không phải đau khổ
Có thể là tất cả
Có thể là một cái gì
hoàn toàn khác biệt
Praha trong hoàng hôn
đã đem lại cho tôi
Và tôi nhận biết
Praha chính bằng điều đó
Ba câu cuối cùng hơi "Tây",
nhưng vẫn là cách nói của Ý Nhi. Sự thay đổi thực sự của một bút pháp không diễn
ra như việc học hỏi trực tiếp từ phương pháp sáng tác, mà được thúc đẩy bởi tiếng
nói từ bên trong, riêng tư, cương quyết. Ngôn ngữ thơ Ý Nhi là ngôn ngữ hành động,
có tính diễn tiến. Đó không phải là ngôn ngữ mô tả một tình trạng, mà hướng tới
nhiều hơn hành động của một người. Tôi tiếc rằng trong thơ Ý Nhi, những giây
phút tiếp cận hành động khi thơ chị đứng ở điểm uốn của thời gian, những giây
phút ấy lẽ ra có thể nhiều hơn thế nữa. Thơ chị không hẳn là dấn thân, nhưng
tràn đầy cảm giác liên kết, mạnh mẽ nhưng không đồng nhất. Đó là loại thơ trữ tình
sâu sắc, nhân chứng của tình yêu trước cái chết, của niềm tin trước đổ vỡ. Sức
mạnh bạo liệt của số phận và lịch sử một bên, và sự đề kháng mỏng manh nhưng bền
bỉ của kiếp người, một bên. Thơ ít có những yếu tố tâm linh và tôn giáo, tuy cầu
nguyện nhưng không đi tìm phép lạ ở nơi khác. Chị tin vào tính chất thiêng
liêng của đời sống, tin vào sự mơ mộng của con người; sự mơ mộng ấy là khả năng
tưởng tượng, tạo ra một thế giới hoàn mỹ, bất tận, từ dưỡng chất tạm bợ nơi trần
thế. Chị đi tìm cái đẹp, có thật và tượng trưng, đi tìm giới hạn ngày càng được
nới rộng của tồn tại, đi tìm ý nghĩa cuối cùng của đời sống. Thơ Ý Nhi mang lại
những vui thú khác nhau, bằng một ngôn ngữ dịu dàng, trong sạch, nhưng cứng cỏi.
Một lịch sử cá nhân ở giữa những ràng buộc quá khứ và hiện tại, sự cân bằng giữa
cảm xúc trữ tình và suy tư về đất nước. Ý Nhi có thể phần nào tạo ra một ngôn
ngữ mới, một cách nói mới của riêng chị, trong khi vẫn giữ mối liên lạc đằm thắm
đối với kinh nghiệm và tha nhân, nhờ thế mà chị có thể đôi khi đi rất xa nhưng
không trở nên lạ lẫm.
Rồi ta về
tìm qua ô cửa
một chút gì bóng dáng
đời ta
một chút gì như đốm nắng
trên tường vôi cũ
một chút gì như tiếng
chim khuyên
nơi vườn hoang
Rồi ta về
cuộn trốn giữa yêu
thương
như đứa trẻ
cuộn mình trong chăn ấm
chiều đông
Ôi quê hương quê
hương
mắt trũng sâu chờ đợi
ta khóc ngập lòng
trên lối về.
Hoài niệm, nhưng không chỉ là hoài niệm,
mà mời gọi cảm thông, chia sẻ. Vì bày tỏ là đặt lòng tin. Là tặng người nào một
vật gì: lòng tin là tặng phẩm. Sau những chấn thương, nếu được chăm sóc và hồi
phục trở lại, người bệnh có khuynh hướng tin tưởng nhiều hơn vào khả năng chăm
sóc của người khác, lắng nghe nhiều hơn các nguyên tắc y khoa và đạo lý. Trái lại,
sau những chấn thương không hồi phục, người bệnh đánh mất lòng tin, trở nên yếm
thế và đa nghi, cay đắng. Sự đảo lộn của các giá trị hiện nay, sự sụp đổ của
các lý tưởng giáo điều đã từng dẫn một nửa dân tộc đi rất xa, gây ra hai hệ quả,
ở những người hồi phục mau chóng, là lòng tin, vị tha, ở những người chịu chấn
thương dai dẳng, không hồi phục, cố bám chặt vào các giá trị cũ, là cay đắng,
bi quan, chống trả và chấn thương liên tiếp. Nhưng nguồn thơ Ý Nhi ở nơi giao
hòa của phương pháp hiện thực và chủ nghĩa hiện đại đã tìm ra lối vượt lên.
Trong ý nghĩa này, giữa các tác phẩm của các cây viết nữ cùng thế hệ, thơ Ý Nhi
thiên về trí tuệ hơn cả. Không biểu lộ xúc cảm dễ dàng như ở nhà thơ nữ khác;
nhờ thế, chị có khả năng quan sát tỏ tường, ghi lại chi tiết:
Giữa chiều lạnh
Một người đàn bà ngồi
đan bên cửa sổ
Vừa nhẫn nại vừa vội
vã
Nhẫn nại như thể đó
là việc phải làm suốt đời
Vội vã như thể đó là
lần sau chót
Không thở dài
Không mỉm cười
Chị đang giữ kín đau
thương
Hay là hạnh phúc
Lòng chị đang tràn đầy
niềm tin
Hay là ngờ vực
Không một lần nào chị
ngẩng nhìn lên
Chị đang qua những
phút giây trước lần gặp mặt
Hay sau buổi chia ly
Trong mũi đan kia ẩn
giấu niềm hân hoan hay nỗi lo âu
Trong đôi mắt kia là
chán chường hay hy vọng
Giữa chiều lạnh
Một người đàn bà ngồi
đan bên cửa sổ
Dưới chân chị
Cuộn len như quả cầu
xanh
Đang lăn từng vòng chậm
rãi.
(Người
đàn bà ngồi đan)
Đó là một bài thơ mảnh khảnh mà vững
vàng. Bài thơ như một người phụ nữ. Chiều lạnh, căn nhà như gia đình, nhưng
không có người thứ hai, có thể những đứa trẻ đã đi xa, có thể người chồng đâu
đó hay chưa từng hiện hữu, có thể cuộc chiến tranh vừa mới bắt đầu hay đã kết
thúc từ lâu. Mọi chuyện thay đổi xảy ra bên ngoài căn nhà, thế giới xôn xao
ngoài kia, và mọi chuyện cũng xảy ra bên trong căn nhà, như hình ảnh được quan
sát từ bên ngoài, nhưng cũng là hình ảnh trong tâm trí nhà thơ. Trong bài thơ
này và một số bài thơ khác nữa, Ý Nhi sử dụng được kỹ thuật phim ảnh và kỹ thuật
hội họa, không những về thẩm mỹ mà còn về tinh thần. Những bài thơ sau bài này,
viết năm 1984, cũng chứng minh rằng khả năng sử dụng những kỹ thuật ấy có thể
làm nên nhiều việc. Sử dụng một ngôn ngữ nửa tự sự nửa trữ tình, mô tả mà không
giải thích, đứng ngoài nhìn vào, trừ một vài lúc như để diễn dịch, chị làm cho
toàn bộ bài thơ biến thành bức tranh. Ý Nhi có thể kết thúc bằng việc tạo ra sự
kiện hay hành động, nhưng chị đã chọn cách thay đổi góc nhìn, nhận xét từ phía
khác, kín đáo tâm tình trong khi vẫn quan sát khách quan. Đó là yếu tố hiện đại
trong bút pháp của chị. Thời mới viết, chị có những câu thơ cảm động, nhưng dễ
lẫn vào đám đông:
Cây bàng vừa nhuốm lửa
Khóm trúc mới đổ vàng
Lòng suối Đôi rộng
quá
Chúng mình đưa nhau
sang
Sau
này, cũng mô tả hiện thực, cái nhìn của chị đã khác:
Đôi lần
em nhìn tán cây mà ứa
nước mắt
vì màu xanh
Đôi lần
em nghe tiếng chim khuyên
mà ứa nước mắt
vì sự trong trẻo
Cái
nhìn của chị tách ra khỏi cõi tình, nhìn sự vật từ phía trái, phía lo âu, nhưng
bao giờ cũng chịu khó đi đến chung cuộc:
Để chiếc nhẫn ai đánh
rơi
Được nhặt lại
Và dịu dàng chói sáng
Một
nhà thơ nữ Hoa Kỳ mà tôi hay đọc, Dorianne Laux, cũng nghĩ như chị, với cách
nói khác:
No matter what the
grief, its weight,
we are obliged to
carry it
Bất kể nỗi buồn ra
sao, có nặng như chì
chúng ta cũng phải
mang nó đi
Ngôn ngữ Ý Nhi ít mỹ ngữ. Nhạc điệu
trong thơ không réo rắt, chị quen thuộc với thể tự do hơn các nhà thơ cùng thời,
như khác với Xuân Quỳnh, và có lẽ gần hơn với thơ Nhã Ca trước đây, chẳng hạn.
Một người viết có chiều sâu văn hóa, tiết chế, điềm đạm, điều này tương ứng với
đời sống nội tâm giàu có, sôi nổi, trải nghiệm. Thơ chị có tính triết học, giản
lược, gợi ý. Dù vậy, trong những bài thơ dài, như bài thơ về Nguyễn Du, chị
không ngần ngại diễn tả những ấn tượng một cách chi tiết và giàu nhạc tính. Nhạc
điệu không chỉ là nối kết vần, mà còn là cách lên giọng xuống giọng, sự dừng lại,
khoảng trống giữa các chữ, câu. Trong các yếu tố của thơ ca, tôi nghĩ, nhạc điệu
gần nhất với vô thức. Một số nhà thơ hiện nay xa lánh khái niệm ý thức trong
sáng tạo, có lẽ do ảnh hưởng của chủ nghĩa siêu thực. Nhưng đối với thế hệ Ý
Nhi, sự né tránh ấy không xảy ra, vì họ không chủ trương rõ ràng việc sử dụng
vô thức khi viết. Những quan hệ xã hội, bạn bè, đặc biệt với các nghệ sĩ, những
kỷ niệm về Hà nội, về quê cũ, được thể hiện như những đề tài quan trọng trong
thơ chị, vì chúng tràn ngập trong ký ức.
Ký ức của nhà thơ chiếu rọi vào bia mộ, làm sáng lên những tên tuổi phủ
bụi. Câu chuyện chị kể lại thong thả, đượm buồn, tự nhiên, nhưng thật ra vẫn được
cân nhắc, tính toán về nghệ thuật. Qua những nhân vật ấy, xã hội ngày ấy, cuộc
chiến tranh, thắng thua, được mất, kỷ niệm đẹp, những số phận bi tráng, sự căm
phẫn lặng lẽ, cạm bẫy của dân tộc, tóm lại là những động lực của lịch sử, đều
được chị mang tới với thơ.
Dương Bích Liên uống
rượu
lặng im
và vẽ
Đã vượt qua mối vướng
bận đời thường
đã vượt qua
mối vướng bận vinh
quang
đã vượt qua nỗi lo sợ
âm thầm
khi phải đứng
riêng về một phía
Phía nào? Phía cô độc trí thức. Cách dựng
hình ảnh của Ý Nhi có tính phác hoạ với nét cọ mạnh, đậm, ngắn, độc đáo, ít gặp
mà tự nhiên. Tuy vậy, không phải khi nào hình ảnh trong thơ chị cũng được như
thế.
mà lòng tôi giữa ồn
ào thành phố
vẫn có bờ lau sậy con
tàu đi
Là một liên kết hình ảnh thuyết phục:
thành phố- con tàu- lau sậy.
tôi xin nhắc tháng
ngày gian khổ ấy
đã thành sao lặng lẽ
sáng trong tôi
Là liên kết dễ dãi: tháng ngày gian khổ-
sao sáng. Bạn có thể tìm thấy trong thơ chị những mùa hè tươi tắn,
xinh đẹp, sự sống sôi nổi, lòng yêu đời trong năm tháng chiến tranh. Bạn tìm thấy
ở đó nỗi buồn, sự ngờ vực, nỗi bi quan, sự trầm tĩnh kỳ lạ của mùa thu, sự nghĩ
ngợi, phóng chiếu. Thật ra niềm ước muốn trong thơ Ý Nhi không thể hiện sôi nổi,
chẳng hạn như trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ,
nhưng có mặt thường trực. Đó là sự không thỏa mãn với hạnh phúc. Ý Nhi
ít khi nói về mất mát và khổ đau trong chiến tranh: sự kiểm soát có ý thức đối
với lịch sử, sự chống lại hoàn cảnh, trong khi vẫn không hề tách mình ra khỏi
hoàn cảnh ấy. Chị có thể chịu ảnh hưởng của các nhà thơ khác trong thời gian đầu,
nhưng mau chóng đứng tách ra bằng cách làm phức tạp trở lại những tình huống đã
được đơn giản hóa, làm bất toàn trở lại những trạng thái hoàn hảo giả tạo. Rõ
ràng chị đã vượt ra, thoát khỏi sức hút ghê gớm mà ngay cả những người viết tài
năng khác, trước chị, cũng khó thoát được.
ra đi
như người đàn bà đi
khỏi mối tình của mình
Là
ra đi như thế nào? Có thể thế này:
Rồi em muốn được ra
đi như thế
Ra đi mà tràn đầy biết
ơn
Nhưng có thể khác, hay ngược lại, tất nhiên.
Thơ Ý Nhi là sự tuyên bố của tình yêu, của tự do, là hiến chương của trái tim.
Cảm xúc mạnh mẽ, sự mở rộng các biên độ của câu thơ, đời sống nội tâm giàu có,
giọng điệu có phần cực đoan, ngắn, đôi khi thản nhiên đến lạnh lùng, trên nền của
chất nữ tính mạnh mẽ, lòng yêu quê hương, sự kiên định và chung thủy, tạo nên vẻ
đẹp của bài thơ, đôi khi vượt ra ngoài dự định của tác giả. Nếu chúng ta không
biết cách đọc hoàn cảnh sinh ra bài thơ, nền văn hóa mà tác giả sống ở đó, sự
hiểu biết về một bài thơ trở nên hời hợt. Khoảng cách giữa nhà thơ và chất liệu
sáng tác là khoảng cách giữa bài thơ và người đọc. Ý Nhi không phải là nhà thơ
ngôn ngữ; chữ dùng của chị mang chứa nội dung được kiểm soát, chừng mực. Chị có
một lòng tin rõ ràng vào tác động của ngôn ngữ và mối quan hệ giữa chúng và đời
sống.
đến gần các nguyên mẫu
không ràng buộc
không tô vẽ
Những hình ảnh trong thơ xuất hiện trên một
tấm thảm dệt khác, của văn hóa, chúng không hiện diện một cách lạnh lùng như những
sự vật khách quan, nhưng cũng không phải là vật trang trí cho các ý tưởng. Ý
Nhi có khả năng thẩm thấu vào ngòi bút của mình các quan tâm thời sự mà không
làm thay đổi hướng đi của ngòi bút ấy. Chính ký ức, sự thăng hoa, siêu ngã, đã
tiết chế những xúc cảm mạnh mẽ. Tuy vậy, vẫn có phút ranh giới giữa bản ngã và
thế giới bị xóa nhòa, chị đau khổ khi thế giới đau khổ, và hạnh phúc khi thế giới
hạnh phúc.
Rồi ta về ngày thơ
ngây
trái mận trái mơ
con giống đêm rằm
đèn trung thu sáng nến
phượng nở êm đềm trên
mái rêu
Hoài niệm của chị là mong ước. Còn đây
là hoài niệm suy tưởng:
Lòng cảm động nghẹn
ngào trước đất
đất khổ nghèo cay cực
miền trung
những cây cằn những
ruộng nắng cháy lưng
những đồng hẹp bãi
cát dài loá mắt
củ khoai gầy với căn
nhà mái thấp
con đường dài giữa những
cánh đồng hoang
Đôi khi thế giới của Ý Nhi trở thành
siêu thực, đó là khi chị tìm cách vượt qua, nới rộng biên giới thực tại, hơn là
đi tìm một thế giới khác, huyền bí hay cứu rỗi. Thực ra thế giới mà chị sống đầy
bí ẩn và đầy phép lạ, thực ra tự do mà chị đi tìm là tự do cao quý hơn hết thảy
các giá trị khác, tự do tuyệt đối, gần hoang tưởng. Con người sống trong ràng
buộc với người khác và với mọi giới. Sự tương quan ấy là tương quan thân mật và
hỗ trợ. Con người và những sinh vật khác, những vật thể vô tri khác, là bình đẳng.
Sự tương tác và lệ thuộc lẫn nhau tạo ra sinh thái lành mạnh cho vạn vật. Tự do
thực ra là sự cân bằng và sự lệ thuộc lẫn nhau ấy.
Chị đã lường trước sự
đói khát
đã lường trước những
đòn tra tấn hiểm nghèo
đã lường trước cái chết
nhưng chỉ đến khi đứng
sau song sắt nhà tù
chị mới hiểu tự do.
Đó không phải là cái
cách một người đói hiểu giá trị của bữa cơm
một người ốm quý trọng
thuốc
cũng không giống như
kẻ bất hạnh luyến tiếc tình yêu.
Lúc no người ta không
nhớ đến cái ăn
lúc khỏe người ta quên
thuốc
người ta cũng sẽ thôi
nghĩ về sự may mắn trong hạnh phúc.
Nhưng với chị
ngay cả khi không còn
tù ngục
tự do vẫn như một ám ảnh
một dày vò
một khát vọng.
(Tự
do)
Giọng nói của một người đàn bà, cổ điển
mà đương thời, dịu dàng nhưng rắn rỏi, ít lời, giàu ngụ ý. Những tâm sự, than
vãn, kêu gọi đều bị loại bỏ ra khỏi bài thơ. Nhân vật của bài thơ đứng cùng một
phía với tác giả nhưng có thể không phải là một, những câu thơ tự do được sắp xếp
thành những đoạn như các khổ thơ có vần. Nhân vật của chị không phải là người
anh hùng, kẻ nổi loạn, hay nạn nhân, hay cũng có thể là tất cả những thứ ấy.
Nhân vật ấy chính là cuộc đời, số phận của một người riêng lẻ nhưng cũng là của
quê hương chúng ta. Một người phụ nữ đã lường trước cái giá phải trả cho tự do.
Nhân vật nữ ấy được nhìn như một người dũng cảm, quyết liệt với mục đích. Mục
đích gì? Tự do của chị, tự do cá nhân của những người khác, và của xã hội.
nhưng chỉ đến khi đứng
sau song sắt nhà tù
chị mới hiểu tự do.
Đề kháng trước hoàn cảnh nghiệt ngã, đi từ
sự khiêm tốn mà tới chỗ học hỏi, đi từ niềm tin mà tới tự tin, và tới nhận thức
rằng tự do không phải chỉ là sự không bị cầm tù, không phải là trạng thái thoát
khỏi xiềng xích. Không phải là phản ứng trước nghịch cảnh, mặc dù chúng có thể
cần thiết. Tự do là bản chất của cuộc đấu tranh hôm nay của chúng ta. Tuy nhiên
còn một điểm khác, tôi tin là chủ đề, từ góc nhìn xã hội. Trong một xã tự do,
theo đúng nghĩa của nó chứ không phải là thứ tự do chào hàng, con người có thể
dễ dàng nhận ra hạnh phúc của mình như khí trời tươi mát. Đó là khí vị của tự
do cá nhân. Tự do cá nhân là tự do tuyệt đối, là cảm nhận và kinh nghiệm của một
người, sống và hành xử trong một xã hội văn minh, trong mối quan hệ với tự do của
người khác. Mặc dù trong phê bình văn học ngày nay, tính chân thực, tính chân
thành không được xem là quan điểm có nhiều giá trị trong việc đánh giá một bài
thơ, tôi vẫn tin rằng trong một số trường hợp, như thơ của Ý Nhi, đó là yếu tố
quan trọng. Cư xử chân thành với ý thức tự do. Ngoài ra, là giả dối.
Nhưng với chị
ngay cả khi không còn
tù ngục
tự do vẫn như một ám ảnh
Bất kỳ một lý tưởng xã hội nào, mới thoạt
trông có vẻ cao quý đến đâu, nếu không hướng tới tự do cá nhân, tự do cá nhân
chứ không phải tự do của tập thể, thì cũng là một lý tưởng giả tạo. Nhưng giá
trị của một cuộc đời đến từ khả năng cho đi chứ không phải khả năng nhận vào.
Khả năng cho đi ấy tạo nên tự do. Trong cuộc đấu tranh, chỉ những người không
giữ lại cho mình một điều gì mới là kẻ di chuyển dễ dàng nhất. Tự do không phải
chỉ như tình trạng đối lập với tù đầy. Những người đang ở trong nhà mình, không
một ngày bước vào nhà tù, vẫn không nhất thiết là kẻ tự do. Giọng của bài thơ
trên là giọng tường thuật nhưng dồn dập, các câu thơ ngắn đều chỉ về một hướng.
Chúng tụ lại ở phần cuối như những dòng chảy ùa vào khúc sông hẹp. Có một nỗi
thôi thúc, gần như kêu gọi ngấm ngầm, tuyên ngôn lặng lẽ, vốn là điều ít gặp
trong thơ Ý Nhi. Thật ra, chị có sở trường hơn khi nói về cuộc sống qua khuôn mặt
của tình yêu và nói về tình yêu qua mặt nạ của bi kịch.
Em đã đi qua mảng tường
đổ chiến tranh
đã đi qua dòng sông
mùa nước lớn
gió đã thổi trên mặt
người rát bỏng
bao ưu phiền năm
tháng đã dần quen
Mưa mong manh như tơ
nhện trong chiều
cây thẫm lại bên mặt
hồ lặng gió
trời gần gụi, mây về
trên mái phố
lá đượm vàng bao lối
vắng người qua
Em một mình trước những
trang thơ
em trò chuyện cùng
anh trong xa cách
bao nhiêu gian truân,
bao nhiêu cực nhọc
ngày dịu dàng, đằm thắm
của tình yêu
Thật ra tôi chỉ định trích một khổ thơ,
nhưng bài thơ kéo đi, không cưỡng lại. Bi kịch của đời sống không là nước mắt
mà là các tình huống đặt con người vào chọn lựa khó khăn, nguy hiểm, không chỉ
tình yêu mà còn về tư cách, tâm hồn.
Ta bước giữa những
con đường mới
Những đền đài mới
Lòng kinh sợ
Như đứa trẻ đi trong
mưa lạc lối
Những bạn bè cũ đã
cáo quan
Ăn măng trúc măng mai
ngồi câu bên sông vắng
Chị nói về Nguyễn Du hay về thời đại hôm
nay? Bi kịch trong thơ Ý Nhi không phục vụ chính nó, như bi kịch Hy Lạp. Theo định
nghĩa của Aristotle, bi kịch bắt nguồn từ giai đoạn sụp đổ của đế quốc Hy Lạp,
là một phương pháp nghệ thuật để khán giả chia sẻ cảm xúc đối với số phận của
nhân vật bị thua cuộc và bị thất bại. Bi kịch trong thơ Ý Nhi được mô tả nhằm tạo
ra hậu cảnh của hành động, giải thích các xung đột và hành vi của nhân vật.
Xung đột trong thơ nói chung thường là nội tâm nhưng không phải bao giờ cũng thế.
Có những xung đột siêu hình hay xã hội, biểu hiện như những quyết định bắt buộc.
Ý Nhi vượt qua chủ nghĩa thương cảm. Chị
đứng từ trung tâm của cảm xúc xã hội và lương tâm xã hội, để nhìn thấy sự thật,
tất nhiên không phải bao giờ cũng trọn vẹn. Muốn như thế thơ của chị phải có
tính chính xác, hướng dẫn. Nhưng bản chất của thơ trữ tình là chống lại hướng dẫn.
Thơ chị vì vậy trở thành cái nhìn phía sau những hoang tưởng, con đường phía
sau cánh cửa, công việc phía sau sự kết thúc, tình yêu phía sau cuộc đời, dù cuộc
đời ấy có thể đã được sống, xem xét và ghi lại. Trong số những người đọc thơ
hôm nay, có lẽ nhiều người vẫn tiếp tục sống ích kỷ, dối trá, và sau khi đọc một
bài thơ hay họ vẫn tiếp tục tàn phá thiên nhiên, tra tấn đồng loại và ăn cắp,
như một thứ quyền lợi đặc biệt giành được từ những tổn thương của các thế hệ
trước, nhưng có lẽ không nhiều thì ít họ cũng sẽ sống một cách khó khăn trước,
ít tha thứ cho mình hơn trước. Thơ trữ tình thực ra không tin vào tính điển
hình, thần tượng, vào cái chính thống. Các giá trị khác, dù ghê gớm đến đâu, chỉ
là nhất thời. Thơ trữ tình nhìn thế giới như toàn thể, thơ tự sự nhìn thế giới
như các mảnh cắt; thơ trữ tình ngây thơ, thơ tự sự minh triết, vì vậy khác với
nhiều người nghĩ, thơ tự sự trừu tượng hơn, khái quát hơn.
không
còn nhiều thời gian cho do dự
không
còn nhiều thời gian cho sai lầm
Không do dự thì ít hơn hay nhiều sai lầm
hơn? Mọi thứ thay đổi. Hoàn cảnh xã hội thay đổi. Thể xác và tinh thần bạn thay
đổi. Bạn không thể bám chặt vào một hệ thống giá trị. Bạn không thể đứng trong
một lớp kính chắn bảo vệ mãi mãi. Không có một lớp bảo vệ nào như thế cả. Muốn
sống sót bạn phải thích nghi, vượt lên, phải thay đổi. Đó cũng không phải chỉ
là sự thay đổi để sống sót. Đó là sự thay đổi sinh ra từ lòng tử tế, sự tin cậy
đối với người khác, sự công bằng đến mức nghiêm khắc, phẫn nộ của lương tri.
Trong thời buổi chúng ta, từ vị trí đặc quyền hơn người khác, chỉ những người
có lương tri mới muốn thay đổi. Chỉ những trái tim yêu thương mới cần thay đổi.
Sự hoài niệm trong thơ Ý Nhi cũng không phải là sự hoài niệm thuần khiết. Cũng
vậy, nhận thức về chiến tranh hai mươi năm và sự thật của cuộc chiến tranh ấy,
quá khứ của một nửa nhân dân, và hoài niệm về quá khứ của một nửa nhân dân
khác, mãi mãi sẽ thay đổi. Dưới tác động
của lịch sử cá nhân.
Bấy giờ
em băng qua ngã tư
đèn đỏ
để kịp đến nơi anh
Bấy giờ
cây cối
cửa nhà
xe cộ
cuồn cuộn chảy một
dòng ngũ sắc
Bấy giờ
những khuôn mặt
thảy đều thơ dại
Bấy giờ
cỏ xanh
trời xanh
áo người rực rỡ
Bấy giờ
em gầy hao, đầy đặn
hân hoan, buồn khổ
dưới một ánh nhìn
Có
lẽ, trong vài trường hợp, thơ chị cần phải khó hiểu hơn, ẩn chứa hơn, và do đó
đầy năng lượng hơn nữa. Cô gái nói về thể chất trước, nói về tinh thần sau, đi
từ hai thái cực, từ gầy hao đến đầy đặn, hay từ hân hoan đến buồn khổ.
dưới một ánh nhìn
Chỉ trong một ánh nhìn, đối tượng mới có
thể thay đổi mau thế. Chủ thể của ánh nhìn là chàng trai. Nhưng chính ánh nhìn cũng làm biến đổi người
phụ nữ, và chủ thể trở thành người phụ nữ. Các tác động xuyên qua điểm nhìn di
động làm mờ nhòa ba câu cuối, làm cho hình ảnh cô gái trong bài thơ vừa thật,
vì gầy hao và đầy đặn là thật, vừa mơ hồ, vì ánh nhìn. Đoạn kết nâng bài thơ
lên, làm cho kỷ niệm về một tình yêu trở thành sự nhìn nhận lại. Chữ bấy giờ được
lặp đi lặp lại. Có một nỗi buồn trong thơ Ý Nhi, không phải sự sầu cảm
melancholy, nhưng là tiếng thở dài kín đáo, sự phê phán được nén lại, nụ cười
hiền lành nhưng không khoan nhượng, trở thành ngọn gió thổi từ quá khứ; tôi
nghĩ, đó là một trong những điều làm nên thơ Ý Nhi. Trong những giây phút yếu
đuối, khoảnh khắc đen tối, người khác có thể đến gần chúng ta, yêu mến chúng ta
hơn. Cũng như sự thay đổi vật chất, thay đổi xúc cảm tạo ra năng lượng. Tôi đọc
thơ chị như đọc tự truyện. Cảm giác ấy có được vì bài thơ đi từ tổng quát đến
riêng biệt, từ trừu tượng đến cụ thể, hơn là ngược lại. Đôi khi đoạn kết như lời
cảnh giác, cầu nguyện. Đôi khi giọng thơ khởi đầu nhẹ nhõm, vui tươi, trẻ thơ,
rồi bỗng những câu kế theo làm người ta lưỡng lự, ngẫm nghĩ. Có lẽ trong đời,
chị cũng từng như thế, khởi sự hồn nhiên, xông xáo, quyết liệt, rồi trải qua
năm tháng chiến tranh, trong khi một số người gục ngã, một số người thăng tiến,
thì chị lang thang, nhẫn nại, quan sát, nghĩ ngợi, như một thiểu số tinh hoa của
cả hai bên đã được chiến tranh chọn lựa để lưu giữ ký ức cần thiết, những bài học
tế vi không thể ồn ào rao giảng.
Đã đến hồi lìa bỏ
cái chuyến xe chật chội,
chậm rì này ..
Đã đến hồi từ giã
cái chặng đường cơ cực,
mù mờ này.
Đã đến hồi vỡ nát
trái tim trĩu nặng
yêu thương.
Đã đến hồi lịm tắt
niềm hy vọng đắng
cay.
Lìa bỏ
từ giã
vỡ nát
lịm tắt
úp mặt trên đường
Lặng im - trăn trối
(Về
cái chết của bác sĩ Zhivago)
Bài thơ viết về số phận một người, mắc
kẹt giữa các bên trong chiến tranh, bị đầy ải bởi cuộc cách mạng bạo lực và giả
trá, tước đoạt quyền được sống hạnh phúc của mỗi cá nhân, nhân danh sự thay đổi
thế giới vì quyền lợi của gia cấp cần lao. Bài thơ không phải là sự phản kháng
hay tấm gương phản ánh. Ý Nhi đã làm đúng một việc như nhà văn B. Pasternak đã
làm: mô tả sự vật như nó là, bình thản, lặng lẽ, đau khổ được nén lại, mà thật
ra cũng không phải đau khổ, một thứ gì tựa như số phận được chia sẻ. Bài thơ diễn
tả giờ phút cuối cùng của một con người, yêu thương mà quyết liệt, lưu luyến mà
không bám chặt, bi đát mà không phẫn nộ. Giọng của bài thơ không phải của nhân
vật, cũng không phải của cái tôi trữ tình. Đó là giọng khẳng định, chấp nhận,
ít nhận xét, nghiêng về trừu tượng, phi cá nhân, Như ống kính chú mục vào khung
cảnh, người đọc chỉ chú ý đến nhân vật ấy, giờ phút ấy, sự kết thúc ấy. Đó là một
giọng thơ tiết chế cảm xúc nhưng không hoàn toàn khách quan. Vì chị dùng nhiều
tính từ bổ sung cho các từ ngữ khác: chật chội, chậm rì, cơ cực, mù mờ, vỡ nát,
trĩu nặng, các chữ ấy làm cho phương pháp của chị tuy khách quan mà xúc cảm, tuy thản nhiên mà
hiện diện. Đó là, tất nhiên, vừa là điểm mạnh vừa là điểm yếu của bài thơ này,
của một bút pháp. Tình yêu của người phụ nữ dành cho người đàn ông như một biểu
tượng. Có lẽ trong những nhân vật tiểu thuyết ít có nhân vật nào như bác sĩ
Zivago, mang trong mình số phận của tầng lớp trí thức. Bạn xua đi những ảo tưởng
về chân lý, đúng sai, nhận ra con đường đã lựa chọn, có thể đã đúng, có thể đã
sai, muốn nhìn lại sự vật như nó chính là. Đó là khả năng trở thành một người
khiêm tốn. Trong khi đời sống của cá nhân ngày càng cô lập, đối tượng của thơ
ca là chính đời sống của nhà thơ ấy. Đời sống ấy trước hết là đời sống văn hóa
và tâm hồn.
Không ai trói buộc
không ai gông cùm
không ai đánh đập
không ai chửi mắng
sao ta sống như trong
lồng cũi
Sự hấp dẫn của một quá khứ mà một số người
viết hiện nay vẫn còn tự hào, sự hấp dẫn ấy không lay chuyển được Ý Nhi. Nhưng
im lặng cũng là một đức tính nữ tính, một cố gắng phi thường chống lại hoàn cảnh.
Sự miễn dịch ấy, sự chống trả ấy trở thành sự nhàn nhã của trái tim mạnh mẽ, đập
đều đặn trong lồng ngực. Mọi người đều biết, chỉ khi lo âu hay sợ hãi, lỗi nhịp,
bạn mới nghe tiếng động của trái tim. Trường hợp khác, ở người can trường lặng
lẽ, tiếng đập của nó không thể nghe thấy.
Chỉ một chút yếu hèn
toan tính
Con có thể lạc đi hạnh
phúc suốt đời mình
Năm
hai mươi tuổi, nếu người ta đọc được những dòng này.
Đối với một cá nhân như thế, lối vào căn
nhà tâm hồn của họ hoặc ngay lập tức hoặc rất khó khăn. Tuy vậy, Ý Nhi chưa chú
tâm hướng sự phân tích sắc bén đến những góc khuất của lịch sử, những sự thật
đau đớn của các gia đình, chưa khai thác quyền năng vô thức, những yếu tố lầm lỗi
và tội lỗi. Thơ chị dừng lại nhiều hơn ở ý thức của một người có suy nghĩ trong
sáng, mẫn cảm, đi tìm động lực của lịch sử qua những số phận có thể được ghi
chép. Điều ấy không ngăn chị trở nên hồn nhiên, có những phút gần như buông thả,
trong sung sướng hoặc khổ đau.
Sao hôm nay tôi muốn
được là tôi
với tóc tết đuôi sam
với áo rộng thùng
thình
Tư duy thơ Ý Nhi hướng nhiều đến sự trôi
chảy, kế tục. Đối với chị, quá khứ và hiện tại không gián đoạn, hiện tại và
tương lai không gián đoạn. Nỗi sầu cảm, nếu có, hay ngược lại, niềm hy vọng,
bao giờ cũng sinh ra từ sự liên tục này, đều đặn lặng lẽ nhưng không buồn rầu,
kín đáo nhưng không đè nén, rộng lượng. Tuổi thơ được khắc họa lóng lánh trong
kí ức, lại như tiếng thở dài. Ý Nhi ở trong nhóm một số tác giả ít ỏi vượt qua
ranh giới chia đôi hai phía của chiến tranh, giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa
thua cuộc và thắng cuộc, giữa cô đơn và đám đông, trật tự và tự do. Đọc thơ chị
bao giờ tôi cũng có ấn tượng rằng tác giả muốn nói nhiều hơn thế, nhưng thôi,
cũng đành, bao giờ tôi cũng có cảm giác muốn đứng lên bước đi, ngồi xuống lắng
nghe, tóm lại là làm một điều gì. Thơ chị không có nhiều hành động, vì vậy mà
nó kêu gọi hành động, trước nỗi vong thân của người Việt trong đời sống đương đại.
Thật khó khăn để đánh giá toàn bộ tác phẩm của một nhà thơ mà không nhận xét về
tiểu sử, cá tính, sự phát triển riêng. Cuộc đời chị, tôi tin là không khác mấy
những điều chị viết: cái nhìn, mục đích đời sống, lòng yêu công bằng, sự đòi hỏi
không mệt mỏi, cách làm việc không nghỉ của một trái tim.
Không ai trói buộc
không ai gông cùm
không ai đánh đập
không ai chửi mắng
sao ta sống như trong
lồng cũi
Đời sống càng kỹ thuật hóa, sự tiếp xúc
càng tăng lên giữa người và người, thì bí mật của mỗi cá nhân càng tăng. Các
giao tiếp bề mặt gây ra quan hệ giả tạo. Tuy nhiên, mặt khác, các chuẩn tắc
không cố định mà thay đổi mỗi ngày. Bạn không thể dựa vào những chuẩn tắc cố định,
đã xác lập từ nhiều năm trước. Như một người trí thức, bạn không thể đặt lòng
tin toàn vẹn vào bất kỳ lý tưởng nào, bất kỳ thần tượng nào: bạn chính là chuẩn
tắc. Từ biệt không thương tiếc các nguyên mẫu văn hóa, nề nếp cũ, tự tin, bình
tĩnh, Ý Nhi chọn cho thơ mình một lối đi dưới lá, giữa hai hàng cây, giữa cánh
đồng đi về phía ký ức chưa bị tổn thương, tuổi thơ chưa bị đánh mất, về phía
toàn vẹn chưa bị phá nát của một quê hương, về phía tự do.
Đôi khi
ta như chiếc gàu thả
sâu trong lòng giếng
cứ va đập
va đập mãi vào bờ đất
cho đến hồi
chỉ còn lại một vốc
nước nhỏ.
Thơ ca là niềm vui thú mà nó sinh ra ở
người viết và người đọc. Niềm vui thú ấy làm cho bạn bước chậm lại, nghe ngóng,
chú ý, làm lương tri của một người trở nên trong suốt, vững chãi. Nghệ thuật
không đứng một mình, sự phá phách ngôn ngữ không đứng một mình, khi nào chúng
có thể trả lời những câu hỏi của con người, và những câu hỏi ấy là vô tận, khi ấy
chúng trở thành cần thiết. Sự trầm tư, nỗi buồn hay hối hận, viễn kiến, hoan lạc
mà không khinh bạc, sự dừng lại, tỉnh thức, sự thương xót, những giây phút ấy
làm cho đời sống có ý nghĩa. Không có chúng, ý nghĩa ấy, mỗi người chúng ta sống
một cuộc đời tẻ nhạt, cô quạnh, không được thăm viếng và không được xem xét cẩn
thận.
Bởi
vì chúng ta đi tìm trong thơ ca những điều tốt đẹp hơn bản thân chúng ta.
NGUYỄN
ĐỨC TÙNG
Cypress, supermoon,
1. 1. 2018
(trong loạt bài Đọc
Thơ)
No comments:
Post a Comment