nguyễnxuânthiệp
Crows painting
“Vùng
đất, nơi Margaret ở, trong truyện kể dân gian gọi là đất của quạ và diều. Mỗi
sáng mỗi chiều, mở cửa sổ nhìn lên ngọn đồi Twelve Oaks, em đều thấy quạ họp từng
đàn bay rợp, đáp xuống và kêu la. Và có đêm trăng sáng, nhìn ra vườn khuya, thấy
bóng một con diều hâu (hawk) đậu trên ngọn cây khô, im lặng và cô đơn…”
Đoạn văn trên là trong email của một người bạn
gởi tới, gợi cho Nguyễn viết bài văn này khi đêm qua vừa nghe vẳng một tiếng quạ
kêu trong vườn khuya.
Từ Ô Y Hạng rủ rê sang
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn rang…
Chắc chắn bóng quạ đen kêu đêm qua trong
khu vườn trụi lá của tôi chẳng phải là những con quạ đến từ bài thơ đường luật
của Quách Tấn tiên sinh, lại càng không phải là những chú quạ từ Ngõ Áo Đen (Ô
Y Hạng) nào đó, nơi những bác thợ nhuộm ra vào sớm tối. Cũng không phải là bóng
ác điểu đậu trên nấm mồ Bích Khê ở Thu Xà Quảng Ngãi, như thi sĩ đã có lời tiên
tri lúc sinh thời. Chú quạ trong bài thơ không kêu một tiếng nào -dường như là
vậy. Chú im lặng. Tuyệt im lặng. Như cái chết. Như mệnh số của thiên tài.
The raven
Mệnh số. Có không? Không ai biết. Như Edgar
Poe, chỉ còn nghe nevermore (trong
The Raven - Con Quạ). Only this, and
nothing more… Nó là vọng âm Lenore, tên người yêu yểu mệnh của thi sĩ. Từ
nay mãi mãi không thấy nhau. Mãi mãi. Trong âm vang của tiếng gọi Lenore, Nguyễn
cũng muốn gọi về một mảng quá khứ của thời xanh xưa. Hỡi nàng Đường Uyển trong
Vườn Thẩm bên cầu cùng Lục Du - chỉ có những trái thông khô lăn bên triền dốc.
Và bóng quạ chợt bay qua, tiếng kêu vọng lại dưới trời đêm. Nevermore. Thơ ai khắc trên đá tảng và
trên vỏ cây còn mùi nhựa ngái. Còn không? Nevermore.
Chỉ là mùi hương đã ở ngoài trí nhớ người.
Ô hay! Tôi lại làm thơ nữa rồi. Lòng những
tưởng sẽ dừng lại ở dòng viết này. Như một khúc ly ca. Nhưng hốt nhiên, tiếng
quạ trong vườn khuya đêm qua khiến liên tưởng đến nàng Lenore của Edgar Poe và
nàng Đường Uyển của Lục Du. Đồng thời nó cũng gợi lên những bóng quạ đen trên
lưu đày thời miền Nam đổi chủ. Và bóng quạ đen trên sân nắng một buổi trưa khi
còn ở Mira Mesa, San Diego. Như vậy tại sao không viết tiếp để gom tất cả lại
thàng một Tứ Đại Oán thời nay. Vậy xin tiếp nối sau đây.
Thi sĩ Phạm Công Thiện đã “đi cho hết một
đêm hoang vu trên mặt đất” và đã nhìn thấy những bóng quạ đen. A, những con quạ
đen -ở đâu vậy cà, Greenwich Village, NY- hay từ ngõ áo đen Ô Y Hạng- những con
quạ đen vừa đi vừa té ngã, xiêu vẹo –như bóng triết gia ngộ chân lý (?) -lại có
những con đầu trọc chừng như vừa qua khổ dịch đội đá bắc cầu cho đôi lứa yêu
nhau ngày nọ?
Thi sĩ Phạm Công Thiện “đi cho hết một đêm
hoang vu trên mặt đất” và thấy được những hình ảnh vừa âm u vừa thơ mộng, lại
vang vang tư tưởng của triết gia. Riêng Nguyễn và các bạn đồng hội đồng thuyền
đã đi cho hết cả ba ngàn đêm hoang vu trên mặt đất quê nhà thời đổi chủ và đã
thấy những bóng quạ đen như ác mộng trên phần kiếp của mình. Thuở ấy, những
thân tù xanh lướt như rau tàu bay, như ngải đắng của vùng gió Mán mưa Tày, soi
bóng xuống mặt nước xanh chàm của Thác Bà cùng với bóng những cây trầm thủy. Những
cái bóng ấy, dừng lại một hai nơi, rồi lại đi khi có “lệnh trên” (đây là trên
“khung”, bộ chỉ huy trại tù của VC) vì kẻ thù từ Trung Quốc tràn qua bám theo
đuôi ngựa. Đi, đi… Qua đồi sắn, nương khoai, ruộng bậc thang và bóng nhà sàn vọng
tiếng mỏ trâu trong chiều, qua những đồi cọ dưới trời Hà Tuyên nắng rực trên
vai áo rách bạc màu, hướng về những đồi chè Bắc Thái. Dừng lại rồi đi tiếp vì kẻ
thù vẫn bám riết. Đi, qua ngã ba Đồng Lộc về tới Thành Đá Xanh Thời Trung Cổ.
Vâng. Ngày ấy, năm 1979, Nguyễn và các bạn
làm thơ làm nhạc bị giam ở Thanh Chương, Nghệ Tĩnh -có Hà Thượng Nhân, Vũ Đức Nghiêm, Tô Thùy
Yên, Chu A Hạnh, Nguyễn Trung Dũng, Xuân Bích…- cùng khoảng một ngàn anh em
khác. Thanh Chương là vùng đất khô cằn, núi đá trùng điệp, ngay bên cạnh trại
cũng có một ngọn núi đá. Từng ngày, tiếng mìn phá núi vang dội, đôi khi có cả
những cục đá to rơi kinh hoàng trên mái trại. Từng ngày, anh em bạn tù dung xe cải tiến (xe cút kít) đi
xúc đá, chở đá. Cả một vùng đá núi khô cằn, cỏ cây xơ xác. Và những cơn gió
Lào trong mùa nắng cháy không ngớt thổi
về làm đỏ hoe con mắt, khô héo ruột gan tù.
Ở đây, chỉ khoảng một năm, đã có ba ban tù rũ áo: Lê Thơm, Hậu và một
người nữa không nhớ tên (có phải là Nghĩa?). Đây là đất của diều và quạ. Đêm
thường nghe vọng
Ác điểu ngày đêm gào
xáo xác
Dường như cả thế giới
lâm chung
(Tô Thùy Yên)
Đêm qua. trăng ngủ. đầu
ngọn khuya
Quạ quắp. trái tim
ta. lên núi
(Nguyễn Xuân Thiệp)
Như thế đấy, bóng quạ kêu trong đêm nguyệt tận
nào phải “nguyệt minh tinh hi… ô thước nam phi”
như trong bài phú Tiền Xích Bích của ông Tô Tử ngày xưa. Cũng không phải tiếng quạ trên bến cây phong
“nguyệt lạc ô đề…” Ôi, tiếng quạ kêu dưới những lán trại xác xơ trong thành đá
xanh ngày ấy. Rồi cũng ở Thanh Chương Nghệ Tĩnh, những trưa tù đốt rừng, hừng hực
nóng, khói và sâu bọ cuồn cuộn lên, khiến lũ quạ bay đảo đầy trời. Chúng kêu
rân, họng đầy máu… Tiếng kêu của những phù thủy áo đen ấy, tưởng như báo điềm gở, làm cho bầu trời lạnh băng,
không gian chợt tối lại.
Gĩa từ tiếng quạ của đất tù ngày ấy, tôi đi…
qua biển rộng, qua những chiếc cầu hoàng hôn, những bến cảng sương mù, những xa
lộ thời gian… Để đến trên ngọn đồi Penasquitos
buổi trưa nhìn nắng xế
trên sân. bóng quạ
què
kêu. kêu. từng giọt
máu…
Như vậy đó, ôi cuộc hành trình nhân sinh và
đời đã qua biết mấy nhịp cầu. Để gặp lại tiếng quạ trong vườn khuya trụi lá đêm
qua.
Phải chăng đã hoàn thành một Tứ Đại Oán để gởi
người thời nay?
NXT
No comments:
Post a Comment